Cảm ơn cụ! Rất nhiều thông tin bổ ích và có tính thực tế cao!
Cái này thì phải xem sự quyết tâm và thích nghi của cá nhân mỗi học sinh.
Nếu có quyết tâm + thích nghi được: thường thì đã vào được top 10 hoặc thậm chí chỉ cần top 20, 30 của Mỹ thì khả năng cày cuốc và tư duy cũng đáng nể rồi. Tuy vậy có nhiều thử thách nằm ngoài vùng an toàn của các bạn trẻ VN mới sang sau khi đã học hết lớp 12. Dưới đây là một số ít trong số những thử thách mà tôi phải giảng giải cho học sinh TQ của mình (học sinh VN cũng sẽ gặp khó khăn tương tự) vào mùa hè trước khi sang Mỹ học đại học ~ định hướng trước khi lên đường pre-departure orientation:
A. Việc học:
1. Chọn lớp và chuyên nghành:
a. tìm hiểu về yêu cầu của trường đối với lớp kiến thức cơ bản/phổ thông general education classes (thường là 1-2 lớp chuyên về nâng cao kỹ năng viết writing class/writing-intensive class + 2-4 lớp trải đều trong 3 mảng chính như Toán-KHTN, KHXH, nghệ thuật-ngôn ngữ), lớp chuyên ngành major classes (10-12 lớp hoặc 60-80 học phần credits tùy cách phân loại và chính sách của từng trường), lớp tùy chọn elective classes (thoải mái chọn sao cho đủ số lớp và học phần để tốt nghiệp), và yêu cầu tốt nghiệp graduation requirement. Cái này nghe thì đơn giản nhưng vì mấy yếu tố sau nên gây ra không ít khó khăn cho học sinh mới: (i) thời gian đăng ký có hạn lại ưu tiên cho học sinh lớp trên; (ii) không phải lớp nào học kỳ nào cũng có mà phải nghiên cứu để chọn ra lộ trình trong 2 năm đầu cho thật sự tối ưu để có thể học được lớp mình cần và thích; (iii) số lượng học sinh được vào học một số lớp hot bị hạn chế nên đôi khi phải viết thư xin giáo sư giải thích vì sao nên ưu tiên cho mình vào; (iv) mỗi lớp có mỗi kiểu format khác nhau không chỉ về số lượng học sinh mà cả mức độ và hình thức tham gia, vd lớp trên giảng đường lớn lecture thì thường 30 học sinh trở lên gần như không có yêu cầu về tham gia phát biểu ý kiến nhưng nếu phát biểu thường xuyên thì sẽ gây ấn tượng tốt với giáo sư hoặc trợ giảng TA, nhưng lớp kiểu thảo luận nhóm như seminar với khoảng chừng 15 học sinh trở xuống thì bắt buộc phải chuẩn bị trước khi lên lớp thật kỹ và yêu cầu phát biểu nhiều để được điểm tham gia tích cực; v.v.
b. chọn chuyên nghành: vì gia đình và trường cấp 1-3 ít khi có tư vấn hướng nghiệp đầy đủ (chỉ qua loa 1-2 tiết trong cả 3-4 năm học), cởi mở (cha mẹ yêu cầu sao con làm vậy), và phù hợp với xu thế VN cũng như thế giới (ít khi sử dụng dữ liệu về số lượng việc làm, lương bổng, xu hướng của các nghành kinh tế), nên học sinh VN qua Mỹ thường tự phải mày mò và vất vả trong việc chọn chuyên nghành, dễ dẫn đến chọn sai nghành mình không thích, hoặc nghành khó kiếm tài trợ visa, hoặc khó kiếm việc làm, v.v. Lại thêm việc học sinh Á Đông nói chung cũng có tư tưởng sợ làm phiền giáo viên và không chủ động tìm nơi giúp đỡ nên không sử dụng tốt Văn Phòng Nghề Nghiệp Careers Office của trường để được hướng dẫn chọn nghành, chọn nghề, luyện phỏng vấn, viết CV,v.v.
c. Còn phải biết cách cân bằng lớp sao cho phù hợp với nhịp sinh học của mình. Vd các lớp bắt buộc với năm 1 thường học vào sáng khoảng 8h thì không nói làm gì vì bắt buộc phải vậy nhưng đối với những trường hợp có thể được chọn thì học sinh nên tự biết mình thích hợp học tập trung cao độ trong thời gian ngắn (5 lớp trong 4 ngày trong tuần đều vào buổi sáng, thứ 6-CN nghỉ) hay là học giãn ra (4 lớp trong 5 ngày trong tuần, có sáng có chiều, t7-cn nghỉ). Học sinh VN ít khi được hỏi ý kiến về cách học, mức độ stress nên đôi khi không hiểu bản thân mình muốn gì, giỏi gì, thích hợp cái gì.
2. Sử dụng các tài nguyên và nguồn trợ giúp của trường: các đại học ở Mỹ có rất nhiều các chương trình nghiên cứu có trả tiền lương, du học hè hoặc trong năm học ở trường khác hoặc nước khác vào năm 2/3, v.v. Nếu mới sang và không quen với cách vận hành hoặc các nguồn lực phổ biến ở đại học (vì không có ai chỉ bảo cho hoặc chỉ chơi với các bạn du học sinh khác chứ không kết bạn với người bản địa) thì sẽ bỏ phí rất nhiều các nguồn tài nguyên hoàn toàn miễn phí này (thực sự là trích từ học phí mà ra). Điều cần làm là: theo dõi sát sao các thông báo qua email và trên báo điện tử/báo giấy của trường, kết bạn với người Mỹ da trắng hoặc dân Mỹ gốc Phi/Á/Âu vì bọn nó quen sử dụng các nguồn lực của trường ngay từ cấp 1.
Một số các chương trình nghiên cứu và du học hấp dẫn thì thường có độ cạnh tranh cao, yêu cầu phải có điểm cao trong lớp có liên quan (vd muốn được nhận vào làm trợ lý nghiên cứu Research Assistant cho môn nào thì điểm môn đó phải cao và thể hiện có hiểu biết sâu rộng hoặc ý tưởng hay khi tiếp cận giáo sư về lĩnh vực đó nhưng thường không cần quá cao như yêu cầu để làm trợ giảng Teaching Assistant ~ điểm A hoặc A+ mới xét).
Bản thân tôi thì cũng khá ngây ngô khi vào học kỳ 1 của năm đầu nhưng dần khôn lên vì bị sức ép của các bạn đồng trang lứa peer pressure ~ ai ai cũng xông xáo tìm cơ hội nghiên cứu hoặc thực tập ngay từ năm 1. Đến học kỳ 2 năm 1 thì tôi đi gặp trực tiếp giáo sư đang dạy lớp Sinh Lý Học Physiology tôi đang theo học và đề xuất được làm nghiên cứu sinh cho ông ấy. Tháng 4 năm 1 bắt đầu làm việc cho đến tận đầu năm 3 rồi ngừng vì phải đi du học Trung Quốc. Trong thời gian làm trợ lý nghiên cứu đó, tôi phải chăm sóc chuột bạch, mổ chuột để gắn thiết bị theo dõi từ xa, giết chuột để lấy gan làm thí nghiệm, tiến hành các thí nghiệm sinh hóa, phân tích dữ liệu excel, vv. Khi đi TQ cũng nhờ viết luận và research proposal mà tôi kiếm được 2 khoản trợ cấp học thuật, một khoản chừng 4000 USD để học thêm 1 học kỳ mùa hè tại Bắc Kinh và một khoản chừng 2500 USD để đi phỏng vấn người dân tại Bắc Kinh, Hải Khẩu (đảo Hải Nam), Hà Nội, Đà Nẵng về vấn đề tranh chấp lãnh hải tại biển Đông.
2. Sinh hoạt hàng ngày
a. Lợi hại trong việc ở ký túc xá >< nhà ở của học sinh trong khuôn viên trường >< nhà của tư nhân cho thuê;
b. Điều nên biết khi tham gia giao thông, gặp gỡ bạn bè, thuế và điểm tín nhiệm, tiền bạc và các loại thẻ ngân hàng, pháp luật và tội phạm, các hình thức giải trí và tiện ích công cộng, lễ lạc, v.v (cái này có rất nhiều thông tin dễ khiến học sinh mới sang mà không có sự chuẩn bị nào rất là bỡ ngỡ à sốc văn hóa culture shock)
Thường đã muốn vào và được nhận vào top 30 trở lên thì đã đủ quyết tâm rồi. Muốn đảm bảo về mặt thích nghi thì tôi khuyên trước tiên phải chọn đúng trường bằng cách đi thăm trường (lập danh sách ít nhất là 10 trường và dành ít nhất là nửa ngày để tham quan bằng tour chính thức có hướng dẫn viên là sinh viên hiện tại và nói chuyện với nhân viên của phòng chiêu sinh Admission Office ở mỗi trường) và trải qua một khóa học hè hoặc kỳ nghỉ dài ít nhất 1 tháng ở Mỹ trong điều kiện phải nói tiếng Anh 24/7. *** Việc chọn trường khá dài dòng, cần bài riêng
Các học sinh TQ của tôi đều tham gia các khóa học hè trước khi mùa ứng tuyển bắt đầu trừ khi điểm TOEFL hoặc SAT quá thấp cần phải ở lại TQ tôi luyện 24/7. Không phải khóa học hè nào cũng có chất lượng như nhau. Thường thì chất lượng càng cao thì thời gian càng dài (3 tuần trở lên), yêu cầu đầu vào cao (2 bài luận + 2 thư giới thiệu trở lên), thời gian nộp đơn càng sớm (cuối tháng 1 đến giữa tháng 2), có ít lựa chọn về chủ đề (thường là dưới 5 so với các lớp học hè với hàng chục hay hàng trăm môn có thể chọn) và thường kiểu học format là học theo project (PBL – project-based learning) và seminar chứ không phải là giảng đường lớn lecture. Tôi thường phân các khóa học hè thành 4 cấp chính:
Cấp 1: rởm nhất, nộp tiền là được đi học, thường không có hạn đăng ký. Vd: BluePrint Forensic Science Summer Course; IDTech Java Summer Camp
Cấp 2: các lớp học hè kiểu phổ thông ở các đại học có tiếng, thậm chí là Harvard, Brown, Stanford. Vd: Stanford High School Summer Program, Harvard Secondary School Program, Harvard Pre-College Program, Summer@ Browns.
Cấp 3: các khóa PBL và nghiên cứu thảo luận với chủ đề hẹp ở các đại học top 30. Vd: Creative Entrepreneurship Summer Program (Brown); Environmental Leadership Labs (Brown); University of Notre Dame – Summer Scholars; Michigan Math and Science Scholars
Cấp 4: các khóa PBL và nghiên cứu thảo luận với chủ đề hẹp ở các đại học top 10 hoặc các tổ chức học thuật có tiếng. Vd: Telluride Association Summer Program; Launch X (MIT, Upenn, Northwestern); UPenn Wharton Leadership in the Business World; Yale Young Global Scholars; Stanford University Mathematics Camp; High School Fellowship Program (Harvard Medical School)
Nếu không có cơ hội làm quen và khám phá Mỹ cũng như Đại Học Mỹ trước khi apply thì chí ít vào mùa hè năm lớp 12 có được offer của trường nào rồi thì cũng nên đi xem cho biết. Bao nhiều tiền học sẽ nộp vào đó mà không xem xét mặt mũi trường thì khá là mạo hiểm.
Có thể dùng các biện pháp “cận lâm sàng” để xem F1 có thể thích nghi tốt với môi trường ở Mỹ hay không. Số lượng trả lời “Có” càng nhiều thì càng dễ thích nghi (đây chỉ là để tham khảo):
- F1 có hiếu động hay không (thích vận động, ưa hỏi, tìm hiểu cái mới)?
- F1 có hướng ngoại hay không (ưa nói, ưa nơi đông người, không sợ người lạ)?
- F1 có tự giác hay không (làm bài tập không cần nhắc, tự biết nghĩa vụ của mình như coi sóc em khi bố mẹ vắng nhà)?
- F1 có quản lý thời gian tốt hay không (viết nhật ký, viết note việc cần làm, lập lịch ôn tập thi, phân định thời gian ngủ nghĩ ăn chơi, không nộp bài trễ hạn)?
- F1 tự lập hay không (tự đi đến trường, tự nấu ăn kể cả mì gói, tự sửa chữa đồ đạc có vấn đề trong nhà)?
- F1 có mục đích rõ ràng khi muốn sang nước ngoài du học hay không?