Tri ân topics 1 năm trước, nay xin góp gió thành báo:
Xin chia sẻ kinh nghiệm của cá nhân.
- Có thể chỉ dành cho số ít, hoặc không dành cho ai cả ( vì là cá nhân mà). Dưới đây những phần e hiểu lý thuyết, thực hành. Có thể ai đó bảo nó chả đúng, không áp dụng được…thì e không cãi.
- Lý thuyết cực kì quan trọng. Kinh nghiệm của e là, đừng vội làm khi chưa hiểu và đủ tin cậy, khi làm thì lấy lý thuyết ra đối chiếu xem đúng không. ( lý thuyết ở đây có thể là kinh sách, ngữ lục, bài pháp, lời nhắc nhở của thầy….). Trường hợp đặc biệt, các vị căn cơ cao, không cần lý thuyết mà do trải nghiệm đủ, tự ngộ khi gặp cơ duyên ( Nên đừng mang lý thuyết ra mà nói các vị ấy)
1. Lý thuyết
- Giáo lý duyên khởi ( google)
- 5 uẩn ( tìm google)
- 12 nhân duyên ( tìm google, là mở rộng 5 uẩn, giải thích về luân hồi tái sanh. Đây cũng là điểm then chốt xác định điểm ngắt để vượt lên luân hồi)
- Kinh sáu sáu ( bài 148, kinh trung bộ III): Lý giải nguyên nhân hình thành tham, sân si. Cực hay, nó là điểm mấu chốt để đi đến thực hành pháp bên dưới ( nghe sư thích giác khang giảng)
- 4 chương đầu kinh lăng nghiêm ( nghe sư bà hải triều âm giảng): Đức Phật giảng về cái thấy nghe hay biết (Nó là tác dụng của tâm, chưa phải tâm chân thật, dùng cái này để quán chiếu khi hành thiền)
- Kinh sách tham khảo: Nên nghe giảng sư giảng. Đọc kinh mà không liễu nghĩa, thì dễ sinh chấp kinh hoặc phỉ báng (cần thận trọng). Mỗi kinh chỉ cần đúc rút 1 câu, 1 đoạn là quý lắm rồi. Đọc để gieo duyên thì có thể đọc bất kỳ cuốn nào ( nhiều người hay đọc sách HT thích nhất hạnh, sách Muốn kiếp nhân sinh). Còn ngược lại, thì xin đề xuất các bộ kinh bên dưới. Lưu ý, không cần đọc hết, tuỳ căn cơ, sự thích thú mà tìm hiểu. Nếu đọc mà liễu nghĩa, thì sẽ thấy gốc rễ giữa các hệ phái không có, chỉ khác ở hình thức bên ngoài.
+ Khái niệm căn bản: giới định tuệ, tứ đế, vô thường vô ngã….
+ Kinh Nikaya (nguyên thuỷ): Kinh này dài. Kinh nghiệm cá nhân là không cần đọc hết, vì mỗi bài kinh nhỏ là dành cho căn cơ hoàn cảnh khác nhau, nên đọc mà không liễu nghĩa, áp tất cả bộ kinh lên 1 cảnh 1 người thì thành ra lại hỏng. Có thể đọc vài bài kinh nhỏ, ví dụ: kinh sáu sáu, kinh bahiya ( kinh trung bộ) …tuỳ các bác chọn, thích, hợp bài nào thì đọc bài đó.
+ Kinh Mi Tiên vấn đáp, Những lời dạy của ngài Ajahn Chah ( nguyên thuỷ): Hỏi đáp xúc tích, dễ hiểu
+ Kinh kim cang, kinh lăng nghiêm ( đọc 4 chương đầu thôi), pháp bảo đàn kinh, Bồ đêf Đạt ma quán tâm – phá tướng…. Ngữ lục của Tổ Thiền Tông( đại thừa)
+ Lời khai thị về con đường đại toàn thiện của Đức Liên Hoa Sanh, Khẩu Truyền Giáo Pháp Đại Thủ Ấn Tổ Tilopa ( mật tông)
+ Ấn quang pháp sư văn sao ( tịnh độ)
2. Phương pháp thực hành
Ban đầu e có thử qua các cách như niệm phật, mấy câu chú mật tông, rồi cả tham thiền của thiền tông…. Trước khi chọn pháp môn theo. Sau này e thấy, mỗi pháp thực hành đều có dụng ý của người lập, chỉ là đời sau không thấu hết, thành ra cãi nhau, tranh luận hơn thua mà phí thời gian. Và vạn pháp đều quy về bản tâm, đều tụ về một mối.
Vì ý căn dẫn đầu các pháp, nên tu ý căn sẽ nhanh và tiết kiệm thời gian. Tất cả các phương pháp trên đều chung 1 điểm, đó là ngưng nghỉ tâm phan duyên ( tâm chạy tướng bên ngoài), hướng thấy nghe hay biết quay ngược về để quyét sạch bụi bẩn ( tham, sân, si, ngã mạn, tà kiến, nghi hoặc...) ở nơi tâm. Lưu ý, ở đây không phải bỏ tướng cảnh bên ngoài, hay là diệt suy nghĩ ý niệm. Mà là làm chủ nó, thay vì để nó lăng xăng chạy theo tướng bên ngoài, hay suy nghĩ lung tung, thì tu là làm chủ được nó, muốn nghĩ thì nghĩ, muốn dùng thì dùng….và đích cuối cùng là nhận được chân tâm, bản tâm, phật tánh, chỗ đi về, làm chủ sanh tử ( rất nhiều tên gọi).
- Lìa 2 thứ chướng: Sở tri chướng, phiền não chướng ( Kinh lăng nghiêm)
- Ưng vô sở trụ nhi sanh kì tâm ( kinh kim cang)
- Cái thấy chỉ là cái thấy ( kiến, văn, giác, tri)….Ông không ở trong ngoài giữa….( kinh bahiya – kinh nikaya)
Mục tiêu Sanh – Tử phải đặt lên đầu, ưu tiên số một. Tại sao, vì nó dẫn tới chọn phương pháp thực hành, và giúp cho hành giả kiên trì khi gặp trở ngại….
Phương pháp thực hành, e chỉ viết sơ, vì hơi sợ các bác sơ cơ mới vào làm không đúng, không có hướng dẫn…sẽ rất nguy hiểm. Vì những người đến với đạo Phật đa phần đã từng gặp trắc trở, hoặc cần chỗ bám víu chỗ dựa, hoặc có duyên….Không phải ai cũng tự đọc lý thuyết, tự hành được, mà cần thầy, thiện tri thức hỗ trợ theo từng bước. Nên khi người học trò sẵn sàng, tha thiết…tự khắc sẽ gặp được người thầy phù hợp ( thầy ở đây có thể chỉ là kinh sách, khai thị, người cụ thể, cảnh cụ thể….). Các bác tin thì làm, không thì bỏ qua, đã làm thì phải tự chịu trách nhiệm chứ không đổ thừa cho ngoại cảnh lôi kéo mình.
Thực hành:
1. Thiền: Mục đích đưa tâm trở về nhà, cái tâm chân thật… Trong giai đoạn đầu thực hành sẽ rất khó ( giai đoạn này dùng kinh sách ngữ lục…hoặc các hội nhóm thiền, khoá thiền ở chùa, như chiếc phao mà bám vào để bơi, vì định lực yếu, tâm loạn động nhiều), nhưng kiên trì sẽ có kết quả ngày càng rõ.
- Quan sát hơi thở ( ưu tiên thở bụng): Phương pháp dễ nhất cho người bắt đầu, chỉ cần tập trung quan sát hơi thở vào ra
- Chọn 1 đối tượng quan sát: cây cỏ, con người, mối quan hệ xã hội, danh tướng,…..Phương pháp dùng nhiều nhất, mục đích phá tâm bám chấp, tâm chấp trước, tâm sinh tử. Có thể coi nó như 1 trò chơi, thú vui, làm nó tự nhiên.
- Buông xả, để tâm lăng xăng, suy nghĩ nó tự lắng đọng, chỉ đơn thuần là quan sát, không cố gắng tác ý, gồng nén gì cả. Tự suy nghĩ nó sẽ lắng xuống, rồi đi đến yên tĩnh. ( buông xả như người chết, buông cả thân tâm) …Khi có định lực thì gần như không cần quán hay buông xả mà tâm tự nó gần như tự do, an ổn, thanh tịnh mà không cần cố sức hay ép buộc.
- Khi gặp hiện tượng lạ, tướng lạ, tướng dữ, ánh sáng các kiểu… Thì kệ nó, đừng sanh vọng tưởng, đi theo…thì tự nó sẽ qua. Cũng đừng tự nhận mình là thánh thần, hay Alahan hay Phật gì cả, nó đều là chấp tướng, là lạc ngũ ấm ma ( do nóng vội, không nắm chắc lý thuyết), còn trường hợp đặc biệt thực hành có ấn chứng khế hợp với kinh điển, ngữ lục thì không bàn ở đây.
2. Khi học pháp thì tâm hướng bên ngoài, khi hành pháp thì tâm hướng bên trong. Khi tìm thầy, đọc kinh, nghe pháp…cần hết sức thận trọng vì không tỉnh táo, bị chính người thầy đó dẫn dắt, dẫn dụ, sinh cuồng tín thầy, phương pháp một cách tinh vi, âm thầm mà không biết, bị cài cắm không thể phân biệt thật giả ( Tại sao vậy, vì đang chấp tướng mà không biết. Tìm google “tứ y pháp”, để tham khảo thêm).
3. Học lý thuyết là bắt buộc để thực hành ( thực chứng). Thực chứng khác hoàn toàn, khó diễn tả được ngôn ngữ. Ví dụ nước dừa, nước mía người VN ai cũng đã từng uống, nhưng người nước ngoài chưa uống không tả chính xác vị được. Nên vị của thiền định, thanh tịnh, giải thoát… cần phải thực chứng, trải nghiệm thực.
4. Tại sao có nhiều hệ phái, các phương pháp thực hành vậy ( chứ không phải 1 pháp tu ý căn): Vì căn cơ không đồng, văn hoá khác biệt, nên nhiều phương tiện và ngôn ngữ để dẫn dắt. Khi mới tu, rất dễ sinh bài báng các hệ phái, phương pháp…cho phương pháp ta đang tu là đúng, là chánh pháp…đi khắp nơi rao rảng, phản bác đúng sai ( 1 dạng chấp tướng).
- Khi mới thực hành, người ta hay mượn câu niệm phật ( Adidaphat), hoặc câu chú (giống bên mật tông), hoặc bất kỳ câu nào ( buông, lìa, không, chặt đứt…). Mục đích là có chỗ bám, chỗ dựa, vì ban đầu tâm sẽ rất loạn động, lăng xăng. Lưu ý, không dùng cũng được ( giống như bên thiền tông)
- Đi, đứng, nằm, ngồi: Mới thực hành, ưu tiên nằm hoặc ngồi ( ko bắt buộc ngồi xếp chân, mà ngồi đâu thoải mái để thân tạm yên ổn). Sau quen cách quán chiếu, buông xả rồi thì đi, đứng, nằm, ngồi đều là thiền.
- Sau khi tâm đã an ổn, yên tĩnh phần nào. Thì không cần niệm, hay dùng câu chú nữa ( tuỳ hành giả không ai ép, hay bắt cả, tu đúng là trí phải sáng và tự biết). Mà dùng giác chiếu soi ( vô phân biệt trí, trí bát nhã), cái thấy nghe hay biết mà quán chiếu, đả phá vọng niệm chấp trước.
- Khi thực hành đúng: Tâm sẽ trở nên nhẹ nhàng, rỗng rang đến yên tịnh ( Có thể gặp tướng tốt, hiện tượng tốt khi hành thiền không ai giống ai cả). Sự yên tịnh từ rất nhỏ, đến cực yên tịnh. Khi đó không bám chấp vào yên tịnh đó (lìa chấp không), mà đi đứng nằm ngồi đều thong dong tự do, ấy là đi đúng đường.
- Làm 2 pháp bổ trợ ( trong lục độ ba la mật): Bố thí ( quan trọng), phóng sanh (tuỳ duyên, vì không khéo lại tạo nghiệp mà không biết)