- Biển số
- OF-533702
- Ngày cấp bằng
- 24/9/17
- Số km
- 5,234
- Động cơ
- 262,247 Mã lực
Phương tiện và cứu cánh là một, vậy câu này phải hiểu thế nào hả cụ?Kinh nói: "Bồ Đề tâm làm nhân, đại bi làm căn bản, phương tiện làm cứu cánh." ....
Phương tiện và cứu cánh là một, vậy câu này phải hiểu thế nào hả cụ?Kinh nói: "Bồ Đề tâm làm nhân, đại bi làm căn bản, phương tiện làm cứu cánh." ....
Để em tìm lại video pháp thoại trích lại cho bác xem. Về cơ bản thì em không diễn giải mọi việc mà chỉ giới thiệu những nội dung đã được thuyết pháp.Phương tiện và cứu cánh là một, vậy câu này phải hiểu thế nào hả cụ?
Cụ có kiến thức, có diễn giải thêm gì ko? chứ em thấy bài của cụ toàn là copy paste.Nay đọc được bài này, thấy phù hợp, mời các cụ đọc chơi
Lấy bệnh khổ làm thuốc hay
Lấy hoạn nạn làm tiêu dao
Lấy chướng ngại làm giải thoát
Lấy chúng ma làm bạn pháp
Lấy khó khăn làm thành công
Lấy kẻ hữu dao tệ bạc làm sự giúp ích
Lấy người nghịch làm vườn đẹp
Lấy bố đức làm dép rách
Lấy lợi sơ sài làm giầu sang
Lấy oan ức làm cửa hạnh
Em đọc và cảm nhận rồi copy paste thôi cụ ạCụ có kiến thức, có diễn giải thêm gì ko? chứ em thấy bài của cụ toàn là copy paste.
Vì em chưa đọc thấy cảm nhận của cụ trong bài đó nên hỏi cụ xem thử cụ cảm nhận như thế nào?Em đọc và cảm nhận rồi copy paste thôi cụ ạ
Cảm nhận là của cá nhân thôi cụ, mỗi người có thể khác nhau.Vì em chưa đọc thấy cảm nhận của cụ trong bài đó nên hỏi cụ xem thử cụ cảm nhận như thế nào?
Câu này là dẫn trong Đại Nhật kinh (大日經).Phương tiện và cứu cánh là một, vậy câu này phải hiểu thế nào hả cụ?
Những câu này có lẽ phải đọc cả bản có chú giải diễn dịch tiếng Phạn, chứ qua mấy lần dịch thế này khó hiểu phết cụ nhỉ!Câu này là dẫn trong Đại Nhật kinh (大日經).
Bản chữ Hán (http://tripitaka.cbeta.org/T18n0848_001) ghi: 佛言菩提心為因。悲為根本。方便為究竟 (Phật ngôn Bồ đề tâm vi nhân. Bi vi căn bản. Phương tiện vi cứu cánh). Bản tiếng Anh (https://web.archive.org/web/20130210115017/http://www.bdkamerica.org/digital/dBET_T0848_Vairocana_2005.pdf) ghi: The Buddha said “The bodhi-mind is its cause, compassion is its root, and expedient means is its culmination”.
Cứu cánh (究竟) ở đây hiểu theo nghĩa Phật học là "cảnh giới tối cao" chứ không hiểu theo nghĩa thông thường là mục đích, kết quả, sau cùng, tận cùng.
Bản gốc tiếng Phạn của Mahāvairocana không còn, nó chỉ được lưu trong bản dịch sang tiếng Trung bằng chữ Tất đàm (Siddham script).Những câu này có lẽ phải đọc cả bản có chú giải diễn dịch tiếng Phạn, chứ qua mấy lần dịch thế này khó hiểu phết cụ nhỉ!
Em bổ xung một chút.
Chánh niệm là một trong bát chánh đạo.
Chánh niệm ở đây nó có nghĩa rộng hơn là cắt nghĩa từ đơn thuần:
(Em copy lại trên google)
Chánh niệm
“Niệm” tức là ghi nhớ, suy nghĩ. Trong Chánh niệm được chia làm hai yếu tố là chánh ức niệm và chánh quán niệm. “Chánh ức niệm” – tức là suy nghĩ về quá khứ, còn “Chán quán niệm” lại có ý nghĩa là quan sát hiện tại, bắt đầu tương lai.
Như vậy, “Chánh niệm” tức là khuyến khích thực tập bản thân ý thức được khoảnh khắc trong hiện tại và tập trung vào khoảnh khắc đó. Ví dụ, khi ta đang ăn cơm ta ý thức rằng ta đang ăn cơm, khi ta đang đi bộ ta ý thức rằng ta đang đi bộ… chứ không phải hành động xáo trộn bởi các yếu tố khác. Nhiều người ăn cơm nhưng không ý thức được mình đang ăn cơm vì suy nghĩ đang mải mê về công việc dang dở, về sự tức giận lúc ban chiều… nên ăn cơm lại như không phải đang ăn cơm mà lại thành một hành động vô thức.
Vừa rồi em thấy mấy chữ khác lạ nên mò lại và thấy còm 2 cụ rất cặn kẽ. Chánh niệm (正念) như các cụ giải thích là đúng và là từ ngày nay hay gặp; nhưng ở cửa động Hoàng Xá - Quốc Oai có ngôi tháp cổ lập năm 1895 lại dùng 3 từ “Tránh niệm tháp” mang nghĩa là ngôi tháp tránh niệm; tránh ở đây lại mang nghĩa can ngăn, khuyên răn ai tránh xa điều gì. Vị trí tháp này cũng trong quần thể di tích mấy ngôi chùa cổ và gắn liền nhiều biến cố lịch sử lớn chứ ko phải tháp độc lập. Vậy ko biết là các cụ dùng từ này có ý riêng hay xưa đánh đồng chánh niệm và tránh niệm nhỉ? Và ngày nay các cụ có gặp từ “tránh niệm” được dùng 1 cách chính thức ở đâu ko?Chánh niệm là từ Hán Việt (do VN tiếp xúc với kinh Phật qua tiếng Hán rất nhiều thế kỷ, gần đây mới có một số học giả VN học trực tiếp tiếng Pali hay Sankrit mới dịch trực tiếp). Chính thuộc về chính thức, chính quy, đúng đắn. Niệm thuộc về quan niệm, suy nghĩ, tư duy....
Chánh niệm là quan niệm, suy nghĩ, nhìn nhận, tư duy một cách đúng đắn.
Mấu chốt ở đâu là "đúng đắn": Thế nào được coi là đúng đắn?
Tư duy đúng đắn trong Phật giáo, là suy nghĩ, quan niệm về sự vật, sự việc như nó là, loại bỏ cảm xúc, tập khí, thói quen trong đánh giá sự vật sự việc. Con người tuyệt đại đa số bị bản năng, thói quen, nếp nghĩ bấy lâu tác động đến sự nhìn nhận vấn đề, sự vật. Sự chi phối đó đến từ cảm xúc, tập khí nếp nghĩ, thói quen, định kiến, thiên vị, yêu ghét, xúc động, sồn sồn, nuối tiếc quá khứ, hoang mang về tương lai .... các sự chi phối này là tà niệm, do vậy cần nắn chỉnh nó về chính niệm, hay là chánh niệm.
Để nắn chính suy nghĩ về chánh niệm, đương nhiên là khó, phải tu thế nào, ăn uống thế nào, bỏ thói quen cũ (sồn sồn) và tạo thói quen mới (tĩnh tại bình tĩnh trước sự việc) ra sao, tập bỏ thói quen dễ tức giận sồn sồn, bỏ uống rượu say xỉn, hạn chế ăn thịt tập ăn chay (vì ăn thịt dễ ăn cả thớ sân hận của con vật khi bị giết có thể tác động đến vọng niệm),... nói chung là rất kỳ công để đạt tới chánh niệm.
Dĩ nhiên, có những trợ giúp để giúp ta gần hơn với chánh niệm, như là luyện hơi thở, kết hợp ngồi thiền mỗi ngày, sinh hoạt điều độ,...
Tổng kết lại, chánh niệm là suy nghĩ, tư duy đúng đắn.
Nhiều vị Bồ tát vẫn thị hiện, ngộ đạo làm mô phạm cho chúng sinh rồi nhập diệt để thức tỉnh chúng sinh thôi bác. Muốn gặp lại các ngài thì cứ tu học tốt vào, gặp lại hết.vĩnh biệt thiền sư
video này bác nhé, mà bác còn đang mê mải vụ chiến sự thì chắc khó nghe từ đầu đến cuốiĐể em tìm lại video pháp thoại trích lại cho bác xem. Về cơ bản thì em không diễn giải mọi việc mà chỉ giới thiệu những nội dung đã được thuyết pháp.