@
Atlas25 : nội dung ở mấy cái bia này có đúng không cụ:
Em lấy link ở đây ra:
Em nhớ đã đọc là dưới thời các vua chúa Nguyễn, họ hộ trì phật giáo Đại thừa khá rõ, con số 77 chùa chiền được xây dựng và tôn tạo so với 3 văn miếu là ví dụ. Thông tin này có chính xác không bác?
Có thể đó là lý do, khi nhà Nguyễn quay lại lần 2, người dân miền trong đều nhớ ơn xưa mà đi theo.
Chính Nguyễn Phúc Chu đã thể hiện quan niệm của mình trong bài văn bia dựng ở chùaThiên Mụ vào năm 1715:
咸性善以為宗更心良而應事居儒慕釋以政治無不行仁信道崇僧就因果而思種福承平國界安樂身心因知處豐屋何如方丈馳良馬何如振錫錦衣耀世不似袈裟金玉滿堂本還虛白久食珍者豈觀飯來香積聽樂者豈聞梵音響際此昌期之世還尋歡喜之園有為無為並行不悖.
(Nguyện lấy tính thiện làm tôn chỉ, lấy lòng lành mà ứng xử muôn việc. Sống và làm theo Nho mà lòng mộ đạo Phật, vì làm chính trị không thể không thi hành điều nhân, tin đạo trọng tăng, luôn nghĩ điều nhân quả mà lo trồng phước, đất nước thái bình, thân tâm an lạc. Nhân đó mới biết ra rằng ở nhà cao sao bằng nương thân nơi phương trượng, cưỡi ngựa tốt sao bằng chống gậy trúc, áo gấm loè đời chẳng bằng chiếc cà sa, vàng bạc đầy nhà rồi cũng trở thành rỗng sạch. Người ăn mãi đồ ngon há chẳng xem mùi cơm hẩm, nghe mãi tiếng nhạc há không ưa kinh kệ âm vang. Nay gặp đời thịnh trị, quay về tìm lại niềm vui, thực là hữu vi và vô vi cùng song hành mà không hề trái ngược).
Cũng trong bài văn bia này, Nguyễn Phúc Chu còn thể hiện nguyện vọng của mình trong vai trò một vị chúa đang cai trị thiên hạ theo tinh thần cuốn Phật vào Nho:
裨國家健金甌之固君臣茂松柏之年四境清平萬民樂業路聽含哺鼓腹堂聞撫瑟彈琴有為而入無為之法化也自玆而後繼往開來以法法之相承燦燈燈之朗燄.
(Những mong kiến tạo quốc gia thành âu vàng vững chắc, đạo quân thần tươi tốt như tùng bách dài lâu, tứ cảnh thanh bình, muôn dân lạc nghiệp, ngoài đường người người no cơm ấm áo, trong nhà rộn rã tiếng trúc tiếng tơ. Thực hữu vi đã hoà nhập vào với vô vi vậy. Kể từ nay, tiếp trước nối sau, lấy pháp pháp để trao truyền, thắp đènđèn cho sáng mãi).
trong văn bia chùa Thiên Mụ, Nguyễn Phúc Chu còn viết:
願阮門遠近宗親咸登法會永為福主掄作伽藍內外屬共證菩提余受無疆之頌長逢大有之年土宇闢開農商盛集兵強國富守業安時
(Cầu nguyện sao cho thân quyến xa gần trong họ Nguyễn đều lên pháp hội, mãi làm phúc chúa, tạo dựng chùa chiền, bà con nội ngoại đều chứng quả bồ đề, riêng ta được đời xưng tụng lâu dài, bờ cõi được mở mang, nông thương phát đạt, quân mạnh nước giàu, giữ yên sự nghiệp).
Hay trong văn bia Đề tháp Phước Duyên chùa Thiên Mụ, Thiệu Trị cũng cùng chung suy nghĩ ấy:
朕聞儒有聞善以相告也見善以相示也能用善人民之主也.
(Trẫm từng nghe nhà nho nói: “Nghe điều thiện thì nhắc bảo nhau, thấy điều thiện thì dặn dò nhau”, ai biết dùng người thiện thì sẽ làm chủ của dân).
Hầu hết bà con trong hoàng gia đều quy y thọ giới, các chúa Nguyễn về sau đều có pháp danh đạo hiệu, quý trọng các cao tăng, lo việc dựng chùa, đúc tượng, ban pháp khí nhằm làm công đức, cầu mong sự gia trì của Phật tổ cho sự nghiệp của mình như lời Nguyễn Phúc Chú trong văn bia chùa Quốc Ân:
余恭膺天命臨于兆姓雞鳴而起孜孜不忘為善之道也越觀自開國以來立寺建庵延僧供佛廣行方便圖使畿內天下盛起全自頓拋憑念庶幾生順死安.
(
Ta vâng mệnh trời chăm coi trăm họ, gà gáy đã vội dậy, chăm chắm không dám quên đạo làm điều thiện. Cứ xem nước Việt ta từ khi mở nước đến nay, việc lập chùa dựng am, thỉnh sư thờ Phật, rộng truyền phương tiện, khiến cho dân chúng kinh kỳ ngày càng phồn thịnh, từ đó cũng chăm chỉ tu tập, cầu được sinh thuận tử an...)
Cũng trong bài văn bia này, Nguyễn Phúc Chú còn thể hiện rõ quan niệm của mình là đạo Phật sẽ là phương tiện tốt để giáo hoá nhân dân nhằm xây dựng đất nước thái hoà, thịnh vượng:
余欲萬世人人仰慕善道証如來無上之果共享太平之福無窮.
(Ta cũng mong người người muôn đời ngưỡng mộ thiện đạo, chứng được quả của đấng vô thượng Như Lai để cùng hưởng thái bình đến vô cùng).
Vì vậy, thời các chúa Nguyễn, các cao tăng từ Trung Quốc đến truyền đạo như Giác Phong, Từ Lâm, Nguyên Thiều, Thạch Liêm, Tử Dung, Tế Viên... hoặc các cao tăng người Việt như Hương Hải, Giác Thù, Liễu Quán... rất được nhà chúa kính trọng và ưu ái.