Thành Gia-định ( Sài Gòn) này đã cứu Nguyễn Ánh khỏi các cuộc tấn công của Tây Sơn.
Các công trình chợ búa, cảng, cửa hàng. kho hàng, các khối ngành nghề thủ công… xung quanh thành Bát Quái phát triển theo, xoá đi những điểm chợ búa và thương mại cũ. NgUyễn Ánh cũng thực thi chính sách thuế mềm dẻo, khuyến khích nông nghiệp, xây hệ thống đường xá kết nối Gia Định và Chợ Lớn ngày càng gần nhau. Cảng Bến Nghé phát triển mạnh, đi kèm là các hệ thống kho gạo, kho lương thực phát triển nằm dọc từ ngã ba kênh Bến Nghé và sông Sài Gòn, chạy về phía quận 4 hiện giờ. Những kho này tiếp nhận lượng thực từ miền Tây Nam Bộ qua hướng kênh Tàu H
Nguyễn Ánh cho phép người Pháp gồm các doanh nhân, giáo sĩ… khai thác tài nguyên thiên nhiên để thưởng công lao.
Sau này, khi lên làm vua, ông còn tạo mọi ưu đãi về chính sách kinh tế, cho phép các thuyền buôn nước ngoài sử dụng cảng Bến Nghé, và làm nơi sửa chữa tàu.
Tình hình chiến sự, cướp bóc ác liệt giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh khiến dân chúng chạy về Sài Gòn ngày càng nhiều, rồi có thêm người TQ không chịu ở với nhà Thanh.
Số dân hồi đó có lẽ khoảng 190.000 người bản xứ và 12.000 người Hoa ( gọi là người Minh Hương)
Hồi vào bảo tàng Tây Sơn ở Quy Nhơn, em chú ý một cái bảng trong đó có giới thiệu vùng đất miền trung thời Tây Sơn, dân số trên cả miền trung (hình như là từ Quảng Nam trở vào) được cho là khoảng 300.000 người.
Vùng Sài Gòn-Gia Định được tiếng sầm uất mà cũng chỉ 190.000 người...thế mới biết là VN (tạm gọi thế chứ lúc đó chưa có nước VN) lúc ấy dân cư thưa thớt biết bao.
Chỉ từ việc đặt vấn đề dân số, có thể suy ra tương đối nhiều vấn đề khác như giao thông, liên lạc, bộ máy hành chính quản lý, thu thuế, phổ biến thông tin...có thể suy đoán là cũng manh mún, thưa thớt hơn ta vẫn nghĩ về một "quốc gia ngàn tuổi" nhiều.
Việt Nam thực ra là một nước rất non trẻ, hay nói cách khác là có nhiều "nước ta" khác nhau trong chiều dài lịch sử.
Một vấn đề khác là lãnh thổ: ngày nay ta quen nghĩ về lãnh thổ với các ranh giới rõ ràng kiểu "một tấc không đi một li không rời", thực tế mấy trăm năm trước, với dân số thưa thớt, với bộ máy quản lý thiếu phương tiện, không có kỹ thuật đo đạc trắc địa và lập bản đồ...có thể hình dung là không có khái niệm lãnh thổ một cách rõ ràng mà là khái niệm 'vùng ảnh hưởng" thì đúng hơn.
Ví dụ: về lý thuyết thì miền nam VN thời chúa Nguyễn vẫn thần phục vua Lê, nhưng các chúa Nguyễn đã lập ra bộ máy nhà nước riêng, ảnh hưởng của nhà Lê có thể coi chỉ là hình thức, ngược lại ảnh hưởng của nhà Nguyễn lại mở ra sang tận Chân Lạp (Campuchia), nhưng cũng chỉ là ảnh hưởng, chứ không phải là "sở hữu" hay "trực tiếp quản lý", và ngay cả trên đất miền nam thì nhà NGuyễn lại từng mất kiểm soát nhiều vùng trong nhiều thời gian.
Dân cư, các thế lực địa phương có thể lúc này thì theo phe này, lúc khác lại theo phe khác, nhiều lúc phải thần phục hay hợp tác với cả nhiều phe...mọi ranh giới đều bị chồng chéo lên nhau tùy theo thời cuộc.
Lại nói về giáo dân thời đó, đọc Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của cụ Nguyễn Đình Chiểu năm 1862, có thể cũng cảm thấy sự xung đột văn hóa giữa giáo dân với truyền thống dân ta lúc đó:
"Hỡi ơi !
Súng giặc đất rền,
Lòng dân trời tỏ.
Mười năm công vỡ ruộng, xưa ắt còn danh nổi như phao,
Một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như mõ.
Nhớ linh xưa
Côi cút làm ăn,
Riêng lo nghèo khổ,
Chưa quen cung ngựa đưa tới trường nhung
Chỉ biết ruộng trâu ở theo làng hộ;
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn làm quen;
Tập khiên, tập mác, tập giáo, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như nắng hạn trông mưa.
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
Đêm thấy bòng bong che trắng lớp, những muốn ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen xì, toan ra cắn cổ.
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hưu;
Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình.
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Khá thương thay
Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo giòng ở lính diễn binh;
Chẳng qua là dân ấp, dân làng, mến nghĩa làm quân chiêu mộ
Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thư, không chờ bài bố.
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bao ngòi,
Trong tay dùng một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gỗ.
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo dùng một ngọn dao phay, cũng chém đặng đầu quan hai nọ
Chi nhọc quan Quản gióng trống kỳ trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không.
Mặc kệ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém dọc, làm cho mả tà, mả ái hồn kinh.
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.
Những lăm lòng nghĩa sau dùng, đâu biết xác phàm vội bỏ.
Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, xá đợi gươm hùm treo mộ
Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cho cam tâm.
Vốn không giữ thành, giữ lũy bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.
Nhưng nghĩ rằng
Tấc đấc ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta
Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó?
Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương?
Vì ai xui hào lũy tan hoang, xiêu mưa ngà gió?
Sống làm chi theo quân tả đạo, quẳng vùa hương, xô bàn độc nghĩ lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính mả tà, chia rượu ngọt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Thà thác mà đặng câu dịch khái, về sau tổ phụ cũng vinh,
Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ.
Ôi thôi thôi
Chùa Lão Ngộ năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;
Đồn Tây Dương một khắc đặng rửa hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Đau đớn mấy, mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều,
Não nùng thay, vợ yếu chạy tìm chồng, con bóng xế vật vờ trước ngõ.
Ôi!
Một trận khói tan,
Nghìn năm tiết rỡ.
Binh tướng nó hày đóng sông Bến Nghé, còn làm cho bốn phía mây đen.
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.
Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh cũng đều khen;
Thác mà ưng đền miếu để thờ, tiếng hay trải muôn đời ai cũng mộ
Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh muôn kiếp nguyện được trả thù kia
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành một chữ ấm đủ đền công đó.
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo,thương vì hai chữ thiên dân.
Cây nhang nghĩa khí thắp nên thơm, cám bởi một câu vương thổ.
Hỡi ơi!
Có linh xin hưởng. "
"Quẳng vùa hương, xô bàn độc" nghĩa là bỏ bàn thờ tổ tiên, là những điều mà người công giáo phải làm khi theo đạo, đến bây giờ vẫn vậy, trong con mắt nhiều người Việt, ắt hẳn khá là khó chấp nhận.
Tại sao các tôn giáo khác vào VN không bị đàn áp, từ đạo Phật, đạo Lão, đạo NHo, đạo Hồi....riêng đạo Thiên Chúa vào xứ ta lại làm phát sinh mâu thuẫn gay gắt, trả giá bằng máu cả 2 bên như thế?