[Funland] Xin các cụ ghé thớt-em thích nghe chuyện đặc công VN quá !!!!

pajero79

Xe hơi
Biển số
OF-165072
Ngày cấp bằng
3/11/12
Số km
160
Động cơ
348,743 Mã lực
Vụ án "Con gà vàng" và người lính đặc công.​
Ngày 19/3 là ngày truyền thống của Bộ đội Đặc công. Với tôi, binh chủng đặc biệt tinh nhuệ này là một thần tượng từ ngày còn mài đũng quần trên ghế nhà trường. Và mãi mãi. Chiến công của các anh sẽ không có giấy bút nào kể hết.
Nhưng câu chuyện sau đây mà tôi tình cờ đọc được lại kể về một góc khác...Hoàn toàn khác!


Tháng 8 năm 1967. Tại Đại sứ quán Liên-xô ở phố Trần Phú, Hà Nội xảy ra một vụ trộm vô cùng kỳ lạ.

Một buổi sáng, khi đến phòng làm việc của mình tại tầng 3 của toà nhà chính trong Sứ quán, sau khi mở toang hai cánh cửa sổ, Tham tán Thương mại Ma-ca-rop bỗng nhận thấy con gà bằng vàng vẫn để trên bàn làm việc của mình đã không còn nữa. Ông định thần lại một lúc rồi thận trọng kiểm tra lại sàn nhà và bên thành bàn làm việc. Vẫn không thấy con gà vàng. Lúc này ông mới lên tiếng gọi người thư ký, và nhẹ nhàng hỏi về con gà vàng. Viên thư ký Mi-sen-ko ngây người ra một lúc, rồi nghiêng ngó quanh bàn. Ông này cũng hy vọng là con gà vàng bị rơi xuống đâu đó trên sàn nhà. Nhưng rồi kết quả cũng không có gì. Khi đã xác định chắc chắn sự việc, viên thư ký liền báo gọi bộ phận an ninh của Sứ quán. Hiện trường được giữ nguyên.

Một cuộc truy tìm trong phạm vi hẹp được tiến hành. Trong khu nhà làm việc 3 tầng chính này của Sứ quán, chỉ có các cán bộ người Liên-xô. Mặc dù trong phạm vi cơ quan của Sứ quán còn có nhiều người Việt Nam, nhưng họ thuộc bộ phận phục vụ, và chỉ làm các việc như lái xe, dọn dẹp vệ sinh ngoài sân, chăm sóc vài luống hoa, cây cỏ trong khuôn viên của Sứ quán. Hết giờ làm việc, không có người Việt Nam nào được phép ở lại. Ngay cả các cán bộ người Liên-xô của Sứ quán cũng về nhà riêng sau khi hết giờ làm. Trong Sứ quán, ban đêm chỉ có một bộ phận nhỏ bảo vệ là người Liên-xô. Bên ngoài cổng ra vào của Sứ quán có các trạm gác của cảnh vệ Việt Nam. Về nguyên tắc thì họ chỉ canh gác vòng ngoài và cũng không được phép đi vào bên trong Sứ quán.

Kết quả ban đầu của cuộc điều tra không thu được thông tin gì. Bộ phận an ninh của Sứ quán xác định, sau giờ làm việc hôm qua, không có ai ở lại ban đêm. Trong đêm cũng không phát hiện được điều gì lạ. Tại hiện trường, mọi quan sát tìm tòi dấu vết và tìm dấu vân tay đều không có kết quả. Các dấu vết khoá cửa vẫn nguyên vẹn. Tìm các dấu vết trèo tường qua cửa sổ cũng không có. Ngoài con gà vàng bị mất, mọi thứ trong phòng đều còn nguyên và không có gì xáo trộn.

Các cán bộ, nhân viên của Sứ quán, thậm chí cũng không ai xác định rõ mình nhìn thấy con gà vàng lần cuối cùng vào lúc nào. Tất cả mọi người đều biết ông Tham tán có con gà bằng vàng ròng vẫn bày trang trí trên bàn làm việc, nhưng vì đã quá quen thuộc nên cũng không ai chú ý nhiều. Chỉ có bản thân Tham tán là người khẳng định chiều qua trước khi ra về, ông vẫn còn nhìn thấy con gà vàng, và chính tay ông là người khoá cửa.

Một mất thì mười ngờ. Một cuộc thẩm vấn nhẹ nhàng và cố gắng tiến hành hết sức tế nhị diễn ra trong nội bộ cán bộ Sứ quán. Kết quả vẫn không có gì, ngoài việc tạo nên một bầu không khí trầm lắng trong Sứ quán.

Sang đến ngày thứ hai, an ninh Sứ quán mới thông báo cho các bộ phận có trách nhiệm trong Tổng cục An ninh và Bộ Ngoại giao của Việt Nam. Lại tiến hành điều tra, thẩm vấn, nhưng lần này là đối với các nhân viên người Việt Nam được bố trí làm việc trong Sứ quán Liên-xô. Tất cả đều không biết gì. Thậm chí, mọi người còn khẳng định là mình chưa bao giờ được nhìn thấy hình thù cái con gà vàng ấy nó như thế nào.
Bộ phận cảnh vệ gác ngoài cổng được đặt ngoài diện nghi vấn. Các ca gác của đêm hôm đó còn trình đầy đủ nhật ký gác, xác định không phát hiện có gì khả nghi. Thời gian này, đế quốc Mỹ đang leo thang chiến tranh, đưa không quân ra đánh phá miền Bắc. Hà Nội cũng đã bị đánh bom nhiều lần. Người dân Hà Nội đã đi sơ tán hết, chỉ còn những người có trách nhiệm ở lại sản xuất và chiến đấu. Ban đêm, đường phố Hà Nội vắng ngắt. Chỉ có một số con đường là có cánh tự vệ - công nhân đi về lúc ca ba. Vì thế nên cũng loại trừ được khả năng đông người trà trộn để qua mắt cảnh vệ lúc đêm.

Cả phía Liên-xô và Việt Nam đều cố gắng, hợp tác cùng nhau, song vẫn không tìm ra manh mối gì. Vài ngày, rồi một tuần, thậm chí hai tuần trôi qua. Các bên đều sốt ruột. Vụ việc này có phần khó xử, liên quan đến tính chất ngoại giao, nên làm các quan chức liên quan của cả hai bên, dù lớn hay bé đều hết sức đau đầu. Phía Liên-xô còn cử một ông chuyên gia của KGB có tên là Cu-do-nhet-xop sang hỗ trợ.

Ông này làm việc rất bài bản. Việc trước tiên của ông là tìm hiểu, đánh giá khả năng, trình độ của các cán bộ an ninh Việt Nam để tìm cách phối hợp. Các sĩ quan KGB đang công tác tại Việt Nam tìm và cung cấp cho ông đủ loại tài liệu về công an Việt Nam. Nghe đâu còn lẫn vào trong đó cả cuốn tiểu thuyết "Trinh thám An Nam" của nhà văn Nguyễn Công Hoan viết từ trước năm 1945 về vụ án cái lò gạch, khiến ông phải kêu trời và nghi ngờ khả năng nghiệp vụ của các đồng nghiệp Việt Nam. Cũng còn may lúc này, các tác phẩm của đồng chí Azit Nexin người Thổ Nhĩ Kỳ còn chưa phổ biến và chưa được dịch ra tiếng ta, chứ nếu không, ông Cu-do-nhet-xop còn rối bời hơn nữa.

Nhóm chuyên gia KGB của bạn có tiến triển thêm được một chút. Họ phát hiện ra rằng vào cái đêm bị mất con gà vàng, cửa sổ phía bàn làm việc của vị Tham tán chỉ đóng có cửa chớp, còn cửa kính để mở. Như vậy rất có khả năng kẻ gian vào qua đường cửa sổ. Nhưng kiểm tra bên ngoài tường suốt từ dưới đất lên vẫn không phát hiện ra vết trèo tường, hay vệt chân trên bậu cửa sổ. Cạnh cửa sổ cũng không có ống thoát nước hay dây thu lôi để mà trèo. Cửa chớp cũng không bị phá. Chả lẽ kẻ gian bay vào? Phía ngoài sân có một cây sà cừ to, nhưng cách nhà rất xa. Chỉ có cành của nó vươn vào phía nhà, nhưng lại cao vút lên tận nóc nhà. Xem xét thân cây từ gốc lên không có vệt xước của sự leo trèo. Không hiểu kẻ gian vào, ra Sứ quán lúc nào, bằng cách nào mà không ai phát hiện được.

Sự nghi ngờ quay sang nội bộ. Xuất phát từ suy đoán kẻ gian phải là người biết rõ trên bàn vị Tham tán có con gà vàng, các cán bộ KGB cho rằng kẻ gian rất có thể là người Liên-xô trong cơ quan Sứ quán. Do tìm mãi mà chưa ra dấu vết gì, ngay cả ngài Tham tán Ma-ca-rop đáng kính cũng được các nhân viên KGB đặt cho một dấu hỏi to tướng. Nhưng nếu như vậy, thì không phải là mục đích kinh tế, mà là vì mục đích chính trị. Có thể từ chuyện con gà vàng, kẻ địch muốn làm xấu đi quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Liên xô. Thế thì tầm cỡ của kẻ địch trong vụ này phải là một tên gián điệp được đào tạo rất cơ bản...Thật là rối bời. Nhất định vụ này phải tìm ra để giải quyết vấn đề danh dự và quan hệ ngoại giao hai nước. Nhưng tìm như thế nào, thì tất cả đều tịt.

May sao, các "trinh thám An nam" nhà ta lại tìm ra đúng hướng. Tây có cách nghĩ của Tây, mà ta thì có cách nghĩ của ta. Vốn mang trong đầu tư tưởng sùng bái người Tây thời đó, quân ta thiên về hướng kẻ gian là người Việt Nam ta. Động cơ của vụ trộm này có khi lại rất đơn giản cũng nên. Người dân ta vốn đâu có ham mê cái chuyện chính trị. Chắc là đói thì ăn vụng, túng thì làm liều thôi. Phải công nhận cái thằng trộm này quá giỏi. Nhưng giỏi mấy thì cũng phải cần ăn. Lúc đói, nó sẽ phải đi bán con gà vàng đó để lấy tiền. Thế là công an ta, chìm có, nổi có, dù là dân an ninh hay công an giao thông đều được huy động đi rình mò, theo dõi xem có ai bán gà vàng.

Trong giai đoạn này, việc buôn bán vàng ở Việt Nam bị coi là cấm. Cả Hà Nội chỉ có mấy cái tổ hợp tác mỹ nghệ vàng bạc, chế tác đồ trang sức nằm ở phố Hàng Bạc. Ngay cả hoạt động của các thợ thủ công đó cũng nằm trong sự quản lý của Nhà nước. Thế là cái phố Hàng Bạc bé tẹo, dài có vài trăm mét đó trở thành mục tiêu chính, mật độ công an chìm nổi đông hơn dân thường.

Kể từ hôm ngài Tham tán Ma-ca-rop mất con gà vàng, ba thàng trời đã trôi qua. Mọi việc có vẻ im ắng và đi vào bế tắc. Cấp trên thì ăn không ngon, ngủ không yên, còn cánh trinh sát thì đã có phần uể oải.

May sao, vào một buổi chiều, có một người đàn bà ăn vận như người mua bán đồng nát đi vào một tổ hợp tác chế tác vàng trên phố Hàng Bạc. Dáng vẻ ngập ngừng của bà ta lập tức được trinh sát để ý. Vì vậy, khi bà ta vừa mở chiếc khăn tay lấy ra một mẩu vàng để dạm bán, lập tức các "trinh thám An Nam" ập lại. Mẩu vàng đó có hình một chiếc chân gà con, tuy đã bị bóp bẹp.

Tại cơ quan công an, bà ta dễ dàng khai ngay ra người bán. Theo đó, các chiến sĩ công an tìm đến một căn nhà tập thể nằm cuối phố Cát Linh. Trong nhà chỉ có một cậu bé gầy gò, đen nhẻm chừng 12, 13 tuổi. Trên khuôn mặt gầy là đôi mắt sáng và có vẻ lanh lợi.

Thấy nhiều người đến nhà, có cả bà bán đồng nát, cậu bé hiểu ngay ra sự việc. Tuy có hơi sợ, nhưng cậu ta không tìm cách bỏ trốn, cũng không chối quanh co. Cậu chui vào gầm giường và lôi ra một gói giấy, giao nộp. Trong đó là một con gà bằng vàng to bằng nắm tay trẻ con, bị mất một chân.

Câu chuyện lấy cắp con gà vàng
được kể lại qua lời của cậu bé:
Cậu ta tên là Hào. Hào năm nay 13 tuổi, là con một cán bộ có cỡ trong ngành Ngoại giao Việt Nam. Hiện ông đang làm Tham tán tại Đại sứ quán Việt Nam tại Liên-xô. Do quan hệ công tác nên ông có quen biết với Tham tán Liên-xô Ma-ca-rop, có phần hơi thân một chút. Đầu năm nay, ông có dịp về Việt Nam nghỉ phép. Vì chỉ có một cậu con trai cưng, nên hầu như đi đâu, ông cũng cho Hào đi theo. Trong một lần như thế, Hào đã được cùng bố vào cơ quan Đại sứ quán Liên-xô thăm Tham tán Ma-ca-rop. Trong lúc bố và ông Tham tán nói chuyện thì Hào ngồi im, khép nép và lặng lẽ ăn kẹo. Nhưng có lẽ trong người nó đã có phẩm chất của một người lính trinh sát bẩm sinh. Những chiếc kẹo Tây có vị ngòn ngọt, chua chua của ông Tham tán cho nó, dầu là của hiếm cũng không làm át đi được tính cách lanh lợi của nó lúc này. Hào đã kín đáo quan sát được khá đầy đủ căn phòng làm việc của ông Tham tán. Dĩ nhiên, nó nhìn thấy con gà vàng.

Về nhà, Hào hỏi chuyện bố nhiều thứ, trong đó có con gà vàng. Bố cậu đã hào hứng kể cho con trai nghe về lai lịch con gà vàng. Trong một nhiệm kỳ công tác tại Nam Phi, ông Ma-ca-rop đã được một người bạn là thương gia Nam Phi tặng cho một món quà quý: một con gà vàng. Nó được làm từ gần 300gr vàng nguyên chất theo dáng của một chú gà con. Ông Ma-ca-rop rất quý món quà này. Khi nhận nhiệm vụ sang Việt Nam làm Tham tán thương mại, ông đã mang theo con gà vàng kỷ niệm. Hầu như tất cả bè bạn, và các cán bộ của Cơ quan Sứ quán Liên-xô đều biết đến con gà vàng của ngài Tham tán.

Sau đó ít lâu, bố Hào trở lại Liên-xô công tác. Vốn là một chú bé thông minh và hết sức tinh nghịch, Hào đã nảy ra ý định lấy cắp con gà vàng. Nó hình dung trong đầu và lập một kế hoạch có phần hoàn hảo tới mức ngay cả các cán bộ công an thực thụ cũng chưa chắc đã nghĩ ra.
Hào tìm cách thâm nhập trở lại cơ quan Sứ quán. Nó theo dõi và phát hiện ra một việc gần như qui luật. Cứ khoảng 7 giờ tối là có một chiếc xe Com-măng-ca đi từ đường Cát Linh xuyên tắt qua con đường đất phía bên phải sân vân động Hàng Đẫy, để ra góc đường giữa phố Hàng Cháo và Nguyễn Thái Học, rồi từ đó đi sang phố Trần Phú về cơ quan Sứ quán Liên-xô. Quãng đường vòng qua sân vận động Hàng Đẫy là đường đất, gập ghềnh có nhiều ổ voi. Tại góc ngoặt, chỗ cột đèn pha cao thế phía phố Phan Phù Tiên có một cái ổ lõm to. Khi đi qua đó, chiếc xe phải đi chậm, và đèn xe không rọi rõ được trong lòng hố. Cả đoạn đường này lại không hề có đèn đường. Buổi sáng hôm sau, vẫn chiếc xe đó từ cơ quan Sứ quán đi ra theo đường cũ vào lúc 5 giờ sáng. Lúc này trời hãy còn tối, và hầu như không có người qua lại trên đường.

Hào đã thận trọng quan sát và kiểm tra kỹ nhiều lần. Đoạn đường từ cái ổ voi to mà nó chọn đến cổng cơ quan Sứ quán chỉ dài hơn nửa cây số. Chiếc xe Com-măng-ca đi theo chiều ra hay vào thì lần nào cũng chỉ hết chưa đầy 10 phút. Đó chính là cơ sở để nó quyết định chọn kế hoạch đột nhập cơ quan Sứ quán Liên-xô.

Một buổi tối trời, Hào đã nằm sẵn trong lòng cái hố to ở góc ngoặt chỗ cột đèn pha cao áp đó. Nó chỉ mặc mỗi chiếc quần đùi và bôi đất khắp người. Khi chiếc xe ô-tô chầm chậm đi qua hố, nó ôm bám vào gầm cầu xe và nằm treo như thế để theo xe vào cơ quan Sứ quán. Chiếc ô-tô vào cổng và đi vòng ra sau toà nhà chính rồi đỗ lại, để chủ nhân xuống xe. Sau đó người lái xe lùi xe vào khu ga-ra. Nhà để xe ô-tô của Sứ quán cũng chỉ là một dãy nhà thấp sát tường lợp phibro xi-măng và không có cửa. Người lái xe tắt máy, đóng cửa xe và ra về. Hào còn đợi một lúc, rồi nó mới buông mình rơi xuống nền nhà và nằm im tại đó.
Về đêm, khu cơ quan Sứ quán im lìm. Những người trực đêm chỉ ngồi trong phòng và không tổ chức đi tuần. Cửa sổ căn phòng làm việc của ông Tham tán thuộc mặt sau của toà nhà. Cả vùng sân sau của Sứ quán chỉ có hai ngọn đèn tròn mắc tít trên góc, sát mái tầng ba của toà nhà, hắt xuông đất một thứ ánh sáng mờ mờ vàng ệch và không soi sáng được cả sân. Trong sân có nhiều cây sà cừ to, tạo thành nhiều bóng khuất. Có một cây sà cừ vươn cành cao quá nóc nhà và chếch phía trên cửa sổ phòng làm việc của ông Tham tán. Toàn bộ sân được rải một lớp sỏi, những hòn cuội to như ngón chân cái. Khi bước chân qua, đám sỏi trượt vòng lạo xạo và không thể lưu lại dấu vết.

Đó là tất cả những gì Hào thu thập được trong một đêm quan sát. Mờ sáng, nó bám sẵn vào gầm cầu xe ô-tô và theo xe ra được bên ngoài. Khi tới cái ổ voi ngoài đường đất, Hào thả tay rơi xuống đất. Đợi chiếc xe ô-tô chạy khuất, nó mới lồm cồm bò dậy và về nhà. Mẹ nó bận đi làm ca nên cũng không hay biết gì.

Kế hoạch tiếp tục được thằng Hào hoàn thiện và ngấm ngầm chuẩn bị. Cũng vào một đêm tối trời, vụ lấy cắp con gà vàng chính thức bắt đầu. Hào mặc một chiếc quần đùi đen và một cái áo sẫm mầu. Vạt áo được cài vào cạp quần. Người vốn đã đen, nên nó chỉ lấy một chút đất bùn xoa thêm lên vài chỗ trên người là đã khó nhận ra nó trong bóng tối. Lần này nó đem theo một sợi dây thừng dài, một cái túi vải nhỏ, một đôi tất và một chiếc nan hoa xe đạp.
Chập tối, Hào nằm phục sẵn trong lòng hố. Lần này, nó dễ dàng bám vào được gầm xe, khi chiếc ô-tô Com-măng-ca chậm rãi lăn bánh qua. Vào đến cơ quan Sứ quán, nó lại lọt được vào khu ga-ra ô-tô và nằm im tại đó. Chừng quá nửa đêm, Hào chui ra khỏi nhà xe. Không gian bốn bề vẫn yên tĩnh. Hào khom người rón rén tiến lại cái cây sà cừ to thẳng với cửa sổ phòng làm việc của ông Tham tán. Nó lấy sợi dây thừng, buộc vào đó một viên sỏi to rồi ném vắt lên cành sà cừ ở tầm ngang cách đất chừng 4 mét. Sau đó nó túm lấy đầu dây có viên sỏi, so 2 đầu dây buộc lại rồi đu người leo lên cây sà cừ. Tại đây, Hào rút lại sợi dây thừng rồi trèo dần lên tận tít cành cao phía trên cửa sổ tầng 3, chỗ phòng làm việc của ông Tham tán. Từ chỗ đó, nó lại buộc sợi dây thừng vòng vào cành cây. Đầu kia, Hào buộc thắt quanh bụng rồi đu người theo sợi dây tụt xuống, lơ lửng đúng vị trí cửa sổ. Cứ treo người như thế, Hào xỏ tay vào chiếc tất rồi loay hoay dùng chiếc nan hoa xe đạp luồn vào cậy chốt cửa. Cũng phải nói thêm là thằng Hào tuy gầy, nhưng khoẻ, cơ bắp tốt, chứ bọn trẻ con ở vào tuổi nó, đã mấy ai có thể treo được mình trên sợi dây thừng suốt mấy chục phút như thế. Rồi thằng Hào cũng cậy được cái chốt và nhẹ nhàng kéo mở được cánh cửa chớp. Nó mừng rơn khi thấy hai cánh cửa kính mở toang, và con gà vàng vẫn đặt ở góc bàn ngay sát cửa sổ. Vẫn trong tư thế treo mình, Hào lắc người đu đưa vài nhịp để văng mình vào sâu trong cửa sổ, rồi nhoài tay vào túm lấy con gà vàng. Nó nhanh chóng cất con gà vào cái túi đeo ở cổ, lựa chốt khép lại hai cánh cửa chớp, rồi rút người trèo ngược lên cành cây. Nó bình tĩnh ngồi nghỉ ít phút trên cành cây cho lại sức, rồi theo đúng lối cũ tụt xuống đất. Sau khi lò dò lại gầm cái ô-tô, Hào buộc chặt lại mọi thứ rồi nằm nghỉ. Buổi sáng hôm sau, Hào lại bám gầm ô-tô và thoát được ra ngoài tại cái ổ voi ở con đường đất cạnh sân Hàng Đẫy, đúng y như cách nó đã làm trong lần trinh sát trước. Không một ai nhìn thấy nó. Cu cậu về nhà bình an vô sự.

Mọi dấu vết của cuộc đột nhập chỉ bao gồm hai cái vết lằn của sợi dây thừng buộc ở hai chỗ trên cây sà cừ, và vết thằng Hào bò trên một đoạn cành cây giữa hai chỗ buộc đó, nhưng chắc chỉ mờ mờ. Vì không một ai, kể cả các cán bộ an ninh Việt nam và Liên xô có thể suy đoán ra đối tượng và cách đột nhập, nên cũng chẳng ai đề xuất ra việc kiểm tra dấu vết trên cành cây ở tít cái chỗ trên cao ấy. Mọi việc kiểm tra thông thường như tìm dấu vết trong nhà, trên cửa sổ, trên tường, lấy dấu vân tay, hay tìm dấu vết tại ngay các gốc cây đều không có kết quả là điều dễ hiểu.

Không thể ngờ đến đối tượng của vụ trộm là một đứa trẻ dân thường như Hào, lại càng không thể ngờ đến diễn biến xảy ra như lời kể của nó, dù sự thật đã là hiển nhiên, vụ việc được yêu cầu dựng lại. Ngoài các cán bộ nghiệp vụ an ninh của cả ta và bạn, có đích thân Thứ trưởng Công an Tạ Đình Khai, cán bộ KGB Cu-do-nhet-xop và cả ngài Tham tán Ma-ca-rop cùng chứng kiến cảnh diễn lại của Hào. Theo yêu cầu của ông Cu-do-nhet-xop, cuộc trình diễn được thực hiện theo đúng các mốc thời gian như Hào đã trình bày. Tất cả những người có mặt đều vô cùng hồi hộp và phấn khích theo dõi các động tác của Hào. Nó đã thực hiện cuộc trình diễn một cách chính xác và hoàn hảo, cứ như nó sinh ra để làm việc đó vậy. Cảm giác cuối cùng của mọi người là vô cùng thán phục thằng bé Việt Nam 13 tuổi ấy.

Tất nhiên là thằng Hào có tội. Tội to nữa là đằng khác. Song, cảm phục tài năng của Hào và cũng vì nó mới là một thiếu niên, nên đã có nhiều sự tác động tích cực của nhiều người, từ nhiều phía đến số phận của nó. Hào được đưa vào trường Thiếu sinh quân. Cũng năm đó, Binh chủng Đặc công được thành lập, và Hào được chuyển tiếp về trường Đặc công.

Ba năm sau, khi mới 16 tuổi, Hào trở thành một chiến sĩ đặc công, và tình nguyện vào Nam chiến đấu.

Trong một đêm mưa tầm tã ở chốt Khe Đá dưới chân dãy núi Chư Giông Giàng giữa mùa mưa năm 1974, tôi đã được đại đội trưởng đặc công Phan Thế Hào kể cho nghe câu chuyện này. Đơn vị chúng tôi nhận bàn giao chốt thay cho đại đội đặc công của Hào. Các đơn vị đặc công thường chỉ đánh mật tập vào các sở chỉ huy hay căn cứ tập trung của địch trong những chiến dịch then chốt, giành chiến thắng nhanh. Nói chung, họ không cần phải chiếm giữ trận địa. Trường hợp cần giữ địa bàn lâu dài như vùng Khe Đá này, thì các đơn vị bộ binh phải tiếp quản. Quen nhau đã 3 ngày, và khi biết tôi là lính Hà Nội, lại trạc tuổi, nên đêm nay anh nằm cùng hầm và kể lại chuyện cho tôi. Tiếng anh kể đều đều và nhỏ, đôi lúc lẫn vào tiếng mưa rơi lộp bộp trên mặt tấm tăng căng che nóc cửa hầm. Thỉnh thoảng anh dừng kể, im lặng một chút như để nhớ cho rõ lại sự việc. Những lúc đó, tôi vẫn nằm lặng im, không ngắt lời và cố hình dung ra từng hành động của anh trong câu chuyện.

Kể xong, Hào ngồi dậy quấn một điếu thuốc rê và châm lửa hút. Hơi thuốc anh phả ra nồng nồng, nhưng cũng làm cho căn hầm ấm áp thêm trong đêm mưa lạnh. Bên ngoài căn hầm, mưa vẫn rơi nặng hạt. Thỉnh thoảng lại có đợt gió thổi ào ào, kéo nghiêng ngả những cây Bằng lăng lưa thưa trên chốt, hắt cả đám nước mưa ràn rạt lên nóc tăng. Chúng tôi cùng lặng im và nhớ về Hà Nội. Tôi nhìn cái vóc dáng nhỏ bé và rắn chắc của anh, hình dung ra cái lúc anh trèo cây và đu đưa người trước cửa sổ tầng 3 của Sứ quán Liên-xô. Tôi bảo:
- Cậu ghê thật đấy. Tớ chỉ nghe thôi mà cũng thấy hồi hộp và run hết cả người. Thế cậu định lấy con gà vàng để làm gì?
- Chơi thôi, nghịch ngợm trẻ con ấy mà.- Hào cười, giọng bình thản.
- Nhưng mà cậu cũng liều thật. Nhỡ mấy ông Tây trong Sứ quán mà canh gác hẳn hoi, tương cho cậu mấy phát đạn thì xong rồi còn gì.
- Đúng vậy, bây giờ nghĩ lại thấy cũng hơi liều mà dại. Chứ lúc đó chỉ thấy hăng hái thôi. -Hào thú nhận.
- Nhưng dầu sao cũng có cái hay. Tớ nghĩ, lúc đó mà cậu đã thế rồi thì bây giờ đánh nhau giỏi là phải. Bốn năm chiến đấu, lên đến đại đội trưởng rồi còn gì.
Hào im lặng một lúc, rồi bảo, có vẻ như lạc đề:
- Cũng chẳng giỏi giang gì đâu. Tớ nghĩ đặc công giỏi đánh mật tập, đánh điểm, nhưng ở kiềng, giữ chốt thì thua xa cánh bộ binh các cậu.
- Thế nên bọn mình mới phải ra thay chốt ngay cho các cậu.
Hào cười. Sao lúc ấy trông anh hiền thế.
Chúng tôi còn tán gẫu vơ vẩn nhiều chuyện khác nữa. Rồi hai thằng ôm nhau ngủ. Lính mà.
Sáng hôm sau, chúng tôi chia tay nhau. Đơn vị Hào chuyển địa bàn nhận nhiệm vụ khác, còn chúng tôi ở lại giữ chốt Khe Đá. Chúng tôi đã ở đó và đánh địch, giữ chốt đến cuối mùa mưa.

Tháng 3 năm 1975.

Quân ta mở chiến dịch Tây Nguyên.

Các đơn vị thuộc Quân đoàn 3, mặt trận Tây Nguyên tấn công đánh chiếm Thị xã Buôn Ma Thuột. Nằm trong đội hình của Đoàn Đặc công 198, đại đội của Hào đánh chiếm Phi trường Hoà Bình nằm ở phía Đông Thị xã. Trận đánh Phi trường của đặc công diễn ra thật gọn gẽ. Lúc 10 giờ sáng ngày 10/ 3/ 1975, khi các đơn vị bộ binh của Sư 316 và Trung đoàn 95B của ta còn đang giằng co đánh nhau với địch tại khu căn cứ của Sư 23 ngụy và khu kho Mai Hắc Đế, thì đại đội của Hào đã làm chủ Phi trường Hoà Bình. Xác bọn lính nguỵ và súng đạn của chúng ngổn ngang khắp trận địa. Cả đại đội của Hào được lệnh nằm lại chốt giữ Phi trường, sẵn sàng đánh quân phản kích. Không có đơn vị bộ binh nào của ta tiếp quản Phi trường, thay thế cho đơn vị của Hào.

Điều Hào nghi ngại và tâm sự với tôi vào cái đêm mưa năm trước ở chốt Khe Đá, thì nay đã xảy ra. Trong Phi trường Hoà Bình có khu hầm ngầm của địch mà trinh sát ta không biết. Buổi sáng, khi bị đặc công ta bất ngờ tấn công, một lực lượng lớn của đich đã nhanh chóng và bí mật rút xuống hầm ngầm. Lính đặc công quen mật tập, giỏi chiến thuật "Nở hoa trong lòng địch", đánh nhanh, thắng nhanh nhưng không thạo đánh chốt. Sau khi làm chủ trận địa, đơn vị đặc công được lệnh chốt giữ tại đó, sẵn sàng đánh đich phản kích để giữ vững Phi trường. Họ không có đủ người và cũng đã không tổ chức sục sạo khắp cả Phi trường, không phát hiện ra khu hầm ngầm. Trong ngày hôm đó, cả đại đội của Hào hầu như chỉ nghỉ ngơi lấy sức. Đến đêm, họ cũng chỉ tổ chức canh gác bình thường, mà hướng quan sát chủ yếu lại là phía bên ngoài. Tất cả hầu như vẫn trong trạng thái nghỉ ngơi, chờ sáng để đánh địch từ ngoài phản kích vào.

Không phải chờ đến hôm sau, mà ngay đêm đó, vào lúc 2 giờ sáng, bọn Nguỵ từ dưới khu hầm ngầm đã chui lên tổ chức phản kích. Chúng hoàn toàn nắm thế chủ động, bất ngờ xuất hiện ngay giữa đội hình đơn vị đặc công. Đại đội của Hào đã bị tổn thất nặng ngay từ đầu. Số chiến sĩ còn lại, mặc dù chiến đấu dũng cảm nhưng cũng không chống lại được bọn Nguỵ đông và có tổ chức tốt. Cả đại đội hy sinh gần hết, trong đó có đại đội trưởng Phan Thế Hào. Khi đó, Hào mới vừa tròn 21 tuổi.

Phải đến gần trưa hôm sau, các đơn vị bộ binh của trung đoàn 95B mới được điều đến đánh chiếm lại sân bay.

Trong chiến dịch Tây Nguyên, đơn vị chúng tôi chiến đấu ở chi khu quân sự Thuần Mẫn bên đường 14, cách thị xã Buôn Ma Thuột hơn 60 cây số về phía Bắc. Sau đó Sư đoàn chúng tôi qua Cheo-reo đánh cắt xuống đồng bằng Tuy Hoà. Chiến sự ở Buôn Ma Thuột, chúng tôi không biết được gì thêm ngoài thông báo: Thị xã đã được giải phóng.

Tin tức cuối cùng của Hào, tôi chỉ được biết sau khi miền Nam đã giải phóng. Từ khu Bình Dương, Sư đoàn chúng tôi trở lại Cao nguyên làm nhiệm vụ tiễu trừ Fulro vào tháng 8/ 1975. Tiểu đoàn chúng tôi đóng quân ngay tại Phi trường Hoà Bình. Tôi đã có dịp đi khắp trong Phi trường, được xem xét khu công sự và khu hầm ngầm của bọn Nguỵ. Lúc đó trên mặt đất và trong các hầm hào vẫn còn vương đầy các loại đạn đại liên, đạn cối cá nhân M79, rốc két M 72 và nhiều khí tài của địch. Tại đây, tôi đã được nghe kể lại cuộc chiến đấu của đơn vị đặc công trong một buổi học tập rút kinh nghiệm các trận đánh điển hình. Tôi đã lặng người trước tin Hào hy sinh. Tôi nghĩ, nếu như có bộ binh phối thuộc kịp thời, chắc Hào đã không chết.


Bây giờ, tôi vẫn có dịp đi qua phố Trần Phú của Thủ đô Hà Nội. Khu Sứ quán Liên-xô cũ, giờ là cơ quan Sứ quán Nga. Tôi không có điều kiện được vào trong đó để nhìn lại toà nhà cơ quan và cái cây sà cừ trong câu chuyện của Hào. Nhưng chắc là cái cây đó vẫn còn. Đôi khi tôi tự hỏi, trong những người đang ra vào cơ quan Sứ quán Nga kia, có mấy người biết được là nơi đó đã ghi dấu ấn quan trọng trong cuộc đời của một người lính đặc công Việt nam tài giỏi.

Ngày 19/3 là ngày truyền thống của Bộ đội Đặc công. Tôi viết lại câu chuyện này, như một nén hương thắp cho hương hồn người đại đội trưởng đặc công Phan Thế Hào, mà cuộc đời và tên tuổi của anh đã lẫn vào trong cuộc đời của muôn vạn người lính ngã xuống trong chiến tranh.

Tháng 3 năm 2007
Vũ Công Chiến
 
Chỉnh sửa cuối:

beomap2

Xe container
Biển số
OF-159649
Ngày cấp bằng
6/10/12
Số km
9,181
Động cơ
455,110 Mã lực
Khu Đại sứ quán Liên Xô ngày xưa chuyển thành trụ sở Bộ Tư pháp rồi
 

omerta77

Xe điện
Biển số
OF-35686
Ngày cấp bằng
21/5/09
Số km
4,455
Động cơ
512,941 Mã lực
Ke ke.
Chúc cả nhà 1 năm mới an lành nha.
Tối qua. Em đi chúc Tết ông thông gia của nhạc phụ đại nhân là lính cũ trung đoàn 429 đặc công miền Đông. Nhặt được ối thông tin hay ho cùng với 2 quyển sách mang về.
Em đã rậm rạp đánh tiếng vụ off beer với ổng. AE ta nếu thấy thích nghe chuyện của đặc công hịn thời xem phong thủy, chọn ngày lành tháng tốt, chỗ ngồi đồ uống tôt roài em rước ổng tới thui.

Bật mí tí. Diệu vào, bị em gài :)) Ổng còn chỉ đích danh, thẳng măt (trên ảnh thui) 2 nhân vật khá hay ho, lại còn sống nhăn nha :))
1 ông là người vác mìn oánh B52 ở Utapao đận 12/72 và 1 ông nữa luồn sâu ngàn dặm vào đất địch đánh phá cơ sở hậu cần của thẳng Béo trong chiến tranh BGPB 2-3/79. Chuyện bịa của Cao Sơn vác ra sánh với những điều ổng giấu trong bụng có lẽ chẳng là cái qué giề :))
Có phải bác Phương ở Đoàn 1 ko cụ? Có 2 bác đánh trận đấy được phong AHLLVT nhưng e chỉ biết bác Phương thôi
 
Chỉnh sửa cuối:

ChimKoCanh

Xe tải
Biển số
OF-151588
Ngày cấp bằng
4/8/12
Số km
308
Động cơ
359,130 Mã lực
Mấy cụ ựac công cho em hỏi là các cụ có hay được ra ngoài ko?
 

Vịtxanh

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-11416
Ngày cấp bằng
4/11/07
Số km
22,523
Động cơ
752,102 Mã lực
Có phải bác Phương ở Đoàn 1 ko cụ? Có 2 bác đánh trận đấy được phong AHLLVT nhưng e chỉ biết bác Phương thôi
Bữa ấy, em cũng chẳng hỏi tên cái ông được chỉ trong ảnh cụ àh.
Thật ra em lại quan tâm tới cái ông từng luồn sâu 450 cây số vào đất Tàu năm 79 để oánh hơn kia.
 
Chỉnh sửa cuối:

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
20,442
Động cơ
128,299 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3
Bữa ấy, em cũng chẳng hỏi tên cái ông được chỉ trong ảnh cụ àh.
Thật ra em lại quan tâm tới cái ông từng luồn sâu 450 cây số vào đất Tàu năm 79 để oánh hơn kia.
Cụ moi đi và cụ nhớ vụ tìm người nhá.
 

pain

Xe ba gác
Biển số
OF-26066
Ngày cấp bằng
19/12/08
Số km
20,442
Động cơ
128,299 Mã lực
Nơi ở
Tháng 3

shine89

Đi bộ
Biển số
OF-183029
Ngày cấp bằng
3/3/13
Số km
4
Động cơ
335,140 Mã lực
Em lang thang trên mạng tìm được cái này góp vui cùng các cụ :D

Giải thoát Hoàng thân Souphanouvong - chuyện bây giờ mới kể

Hơn 40 năm trước, cuộc đột nhập thần kỳ vào trại giam kẻ thù, giải thoát Hoàng thân Souphanouvong cùng 16 vị lãnh đạo cao cấp Pathet Lào đã được một tổ đặc công Việt Nam phối hợp cùng các chiến sĩ Pathet Lào thực hiện thành công mỹ mãn. Chuyện kể của một người đàn ông phố núi, một cựu binh ngoài 80 tuổi, người trực tiếp tham gia "đặc vụ" vẻ vang ấy...

Buổi sáng mùa khô Tây Nguyên thường rất lạnh, ông vẫn mặc bộ quần áo “tô châu” ngày nào, kỷ niệm của năm tháng quân ngũ, không thể xa được. Sau chén trà nóng đậm hương Bầu Cạn, ông kể lại cho chúng tôi nghe về trận đánh phối hợp với Pathet Lào giải cứu Hoàng thân Souphanouvong hơn 40 năm trước.

Ông là Nguyễn Ngôn, một cựu chiến binh đã ngoài 80 tuổi, hiện đang sống ở thành phố Pleiku (Gia Lai), người vinh dự vừa được con trai Hoàng thân Souphanouvong gửi tặng chiếc áo dân tộc Lào để tỏ lòng tri ân.

Tháng 5 năm 1958, cuộc Tổng tuyển cử bổ sung tại Lào diễn ra với thắng lợi vang dội của mặt trận Neo Lào Hắc Xạt (mặt trận Lào yêu nước). Nhưng ngay sau đó bọn ********* phái hữu đã lật lọng lật đổ Chính phủ Phuma, đưa Phủi Sanikon lên làm Thủ tướng.

Ngày 26/7/1959, y ra lệnh bắt giam Hoàng thân Souphanouvong và 16 cán bộ cao cấp Pathet Lào vào một trại giam đặc biệt trên đồi Phôn Khiêng.

Để nhanh chóng đưa Hoàng thân trở về lãnh đạo cuộc cách mạng Lào, đáp ứng yêu cầu của **** nhân dân cách mạng Lào, một tổ công tác “đặc biệt” của ta gồm 9 đồng chí do Phan Vĩnh phụ trách chung, còn ông Nguyễn Ngôn chỉ huy tiểu đội đặc công, phối hợp cùng lực lượng cách mạng Lào giải thoát Hoàng thân Souphanouvong và 16 vị lãnh đạo đảng bạn. Họ đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao...

Sau trận chỉ huy phân đội đặc công bốn đồng chí tập kích sân bay Atôpư diệt 40 sĩ quan và lính Pháp, Nguyễn Ngôn về nước rồi vào học trường Quân chính Nam Đàn. Chưa được một tháng sau, biết ông đã quen chiến trường Lào, lại thạo cách đánh trong thành phố, Quân khu điều ông về và giao cho chọn thêm 4 người nữa chuẩn bị cho nhiệm vụ “đặc biệt”.

Không đắn đo, Nguyễn Ngôn chọn ngay 4 sĩ quan gan dạ, anh dũng và có nhiều kinh nghiệm tác chiến, đã từng chiến đấu cùng mình trên các mặt trận Lào. Đó là: Kiều Sơn Đen (quê Đà Nẵng), Nguyễn Lầu (Phú Yên), Nguyễn Văn Du (Quảng Nam) và Trần Văn Điển (rất thạo tiếng Lào). Được cấp trên đồng ý, 5 lên đường ra Hà Nội gặp đồng chí Trần Hiệu - Cục trưởng Cục II và đồng chí Vũ Thắng – Trưởng phòng huấn luyện đặc công.

Để thực hiện thành công nhiệm vụ “đặc biệt” này, hằng ngày 5 người phải luyện tập theo nhiều phương án tác chiến. Trong đó phương án luyện tập “kỹ nhất” là tập kích đồn, nhà giam, giải cứu “con tin”. Sau gần một tháng, tổ được giao nhiệm vụ mang tính thử thách.

Đó là khoảng từ 9h trưa đến 4h sáng phải đột nhập được vào Bộ Tổng tham mưu và đặt được một vật gì vào đó để làm tin, mà không bị lộ. Còn nhiệm vụ “đặc biệt” thì cả tổ hoàn toàn không biết tí gì. Sau khi nghiên cứu “qui luật hoạt động”, Nguyễn Ngôn quyết định đột nhập vào ban ngày và qua 3 hướng cửa hông với 3 “quân xanh”. Trong bộ quân phục trung úy, Nguyễn Ngôn đoàng hoàng đi vào cổng chính. Trong thời điểm này, người và xe rất đông, nên dễ lẫn lộn và qua được các vọng gác.

Chẳng khó khăn gì, sau một giờ đồng hồ cả tổ hoàn thành tốt nhiệm vụ “thử thách”, vượt thời gian hạn định hơn 12 tiếng...

Sau đó, tổ tiếp tục vượt qua hai thử thách nữa. Đó là bơi chìm và bơi dai sức trên sông Hồng, tất cả đều trôi qua tốt đẹp. Được nghỉ ngơi vài ngày, một hôm, tổ được lệnh đến cơ quan Bộ Tổng tham mưu để nhận nhiệm vụ. Ngoài 5 người trong nhóm công tác đặc biệt, còn 4 đồng chí nữa. Đó là các đồng chí: Phan Dĩnh, Nguyễn Văn Vinh, Trần Thanh Khiết và Trương Văn Quý. Nguyễn Ngôn là tổ trưởng tổ đặc công, còn Phan Dĩnh phụ trách chung.

Nhiệm vụ tối mật
Trước lúc lên đường nhận nhiệm vụ, cả nhóm được vinh dự đến chào Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Sau khi hỏi thăm sức khoẻ và tình hình gia đình, Đại tướng đã thân mật căn dặn và cũng như là giao nhiệm vụ: “Các đồng chí được **** tin tưởng giao thực hiện nhiệm vụ mang tính Quốc tế cao cả. Nhiệm vụ sẽ rất khó khăn, thậm chí hy sinh cả tính mạng, nhưng cũng rất vẻ vang; các đồng chí phải tuyệt đối giữ bí mật, “sống để dạ, chết mang theo’’ và phải hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, không được sai sót một hành động nào, dù là nhỏ nhất…”
Ngày hôm sau, cả nhóm lên đường. Họ vào Nghệ An, rồi vượt rừng sang đất bạn Lào. Nhóm đồng chí Phan Dĩnh đi ôtô vào Quảng Bình, vượt Trường Sơn rồi ngược sông Mêkông lên Vientiane nắm tình hình. Đường đi muôn vàn khó khăn gian khổ... Cả tổ vừa đi vừa xây dựng cơ sở. Ròng rã 47 ngày xuyên rừng vượt thác dưới những cơn mưa muốn bục cả da trời, họ đến được căn cứ Loong Tòn.

Đến nơi, nhóm đặc công tiến hành ngay hai việc: một là huấn luyện giúp bạn một tiểu đội đặc công 8 người để cùng phối hợp thực hiện kế hoạch. Hai là điều tra các hoạt động của địch ở các đồn bốt nơi giam giữ Hoàng thânSouphanouvong cùng 16 đồng chí của ông...
Việc huấn luyện cho các đồng chí bạn khó khăn nhất là bài đột nhập, chiến đấu trong căn cứ địch ban đêm. Không có điện, anh em đề xuất vào căn cứ địch huấn luyện luôn trên thực địa... Đêm đầu anh Lầu và anh Du dẫn hai đồng chí bạn đột nhập căn cứ địch, Nguyễn Ngôn và Đen cảnh giới; đêm sau luân phiên.
Cứ ban ngày tập động tác, ban đêm thực hành trên thực địa. Sau 5 đêm, nhóm đã huấn luyện 8 “người bạn” đồng hành thành thạo kỹ năng đột nhập căn cứ địch.
Nhiệm vụ giải cứu Hoàng thân được xác định theo hai phương án: Phương án thứ nhất là dùng lực lượng vũ trang tập kích trại giam để giải thoát. Phương án thứ hai: Đấu tranh chính trị kết hợp với binh vận, tạo thời cơ bí mật đưa Hoàng thân và các đồng chí ra khỏi trại giam...
Để thực hiện phương án thứ nhất, nhóm đã kiểm tra và nắm chắc được căn cứ Phôn Khiêng - nơi giam giữ Hoàng thân. Ngày đêm nơi đây luôn có một tiểu đoàn hiến binh và thiết giáp tuần tra canh giữ. Hàng ngày, đích thân tên đại tá Lăm Ngân chỉ huy đi kiểm tra canh phòng, điểm mặt từng tù nhân.

Riêng Hoàng thân Souphanouvong chúng giam giữ ở một căn nhà biệt lập.
Nguyễn Ngôn và Kiều Sơn Đen đột nhập vào trực tiếp gặp Hoàng thân. Lần thứ nhất tương đối dễ, do thời gian ngắn, chỉ kịp giới thiệu nhiệm vụ và nói: “Bác chuẩn bị để chúng tôi đưa ra vùng căn cứ cách mạng!”.
Nghe xong, ông không nói gì, chỉ xua tay. Cả nhóm về họp báo cáo và nhận định “Chắc là Hoàng thân nghi địch cho người thử”. Nguyễn Ngôn lại đột nhập lần thứ hai vào gặp Hoàng thân. Lần này khó khăn hơn vì địch tăng cường thêm lính gác. Lặp lại câu hỏi lần trước, ông cũng không nói gì nhưng nhìn ông Ngôn và gật đầu nhẹ. Như vậy là Hoàng thân đã sẵn sàng, vấn đề là tìm biện pháp nào để đảm bảo tuyệt đối an toàn cho Hoàng thân và các đồng chí của ông...
Sau nhiều lần kiểm duyệt, lãnh đạo bạn quyết định thực hiện phương án thứ hai và đã phát huy hiệu quả. Dư luận phản đối việc vô cớ bắt giam Hoàng thân và các lãnh tụ Neo Lào Hắc Xạt càng ngày càng lan rộng khiến cho địch không thể đưa các vị ra xét xử, đồng thời phải chấp nhận cho người nhà vào thăm. Thế là một đường dây liên lạc trong tù với bên ngoài hình thành. Nhóm đặc biệt và phía bạn đã vận động được Trung úy U Đon, Chuẩn uý On Xả và một số binh lính sẵn sàng làm nội ứng để giải thoát Hoàng thân và các lãnh tụ ra khỏi trại giam...

Kế hoạch giải thoát được ấn định thực hiện vào đêm 24/05/1960.

Chiến công thầm lặng
Theo kế hoạch, đêm đó, toàn bộ các vọng gác sẽ bị Trung úy U Đon vô hiệu hoá bằng người của mình, 16 vị được giải thoát sẽ cải trang thành ba toán lính đi tuần, mỗi toán có ba lính cảnh vệ được giác ngộ mang vũ khí đi cùng.
Sau khi thoát khỏi trại giam, đoàn sẽ đi theo một con đường bí mật do đồng chí Xiêng Xổm chuẩn bị trước để về căn cứ. Tám đồng chí đặc công bạn chia làm hai tổ. Bốn đồng chí giỏi được cử đi theo bảo vệ đoàn.

Bốn người còn lại sẽ cùng tổ đặc công tiến hành tập kích vào hai đồn nhỏ trên trục đường 13 do Kiều Sơn Đen chỉ huy. Nguyễn Ngôn chỉ huy diệt đồn phía Tây, cách trung tâm Vientiane khoảng hơn cây số. Mục đích của cuộc tập kích là gây tiếng vang về cách mạng Lào, đồng thời thu hút địch, đánh lừa sự chú ý của chúng ở hướng các lãnh tụ thoát ra...
Mọi việc diễn ra đúng như kế hoạch. Đúng giờ hẹn, tiếng bộc phá, lựu đạn của hai nhóm đặc công nổ ầm ầm, tiếng vọng khắp cả một vùng rộng lớn. Bị bất ngờ, bọn địch bỏ chạy và bắn toán loạn...
Lâu lâu điểm dài mấy loạt AK, nhóm của ông Ngôn kéo địch về phía mình, dọn đường tạo điều kiện để bên kia đưa Hoàng thân đi về nơi căn cứ được an toàn.
Mọi người trở về bình yên, ôm nhau mừng chiến thắng. Tỉnh ủy Vientiane tổ chức liên hoan nhẹ mừng chiến công. Tổ công tác đặc biệt bịn rịn chia tay nhau. Nguyễn Ngôn và bốn đồng chí về nước nhận nhiệm vụ mới... Năm đồng chí ở lại tiếp tục giúp bạn.
Dừng lại uống chén trà nóng, tôi thấy khoé mắt ông giật nhẹ, đo đỏ, có lẽ trận mạc và những kỷ niệm về đồng đội được tái hiện, đã làm cho ông xúc động.
Trầm hơn và có lẽ buồn hơn nhưng ông vẫn kể tiếp: “Gần nửa thế kỷ đã đi qua, tổ công tác đặc biệt của chúng tôi người còn, người mất, ở cả bên chiến trường bạn và ta, có đồng chí chưa tìm được xác đưa về Tổ quốc. Nhưng tôi nghĩ nơi chín suối ngàn thu, các anh không bao giờ buồn, mà vui và thanh thản nữa vì đã thực hiện thành công nhiệm vụ đặc biệt, bởi chúng tôi – các anh cũng chỉ là những người góp phần nhỏ bé, không chỉ từ một chiến công mà có được… cho mối quan hệ đời đời bền vững Việt – Lào anh em!


Nguồn : bacbaphi
 

ButHocGioi.com

Xe buýt
Biển số
OF-141321
Ngày cấp bằng
10/5/12
Số km
618
Động cơ
370,850 Mã lực
Nơi ở
40 Tạ Quang Bửu - Bút Chấm Đọc Thông Minh
Website
ducthanh.edu.vn
trận đánh cứu hoàng thân điển hình về nghệ thuật quân sự việt nam các cụ nghỉ. tầm nhìn được mở rộng mức tối đa cứ hoan bị hạn chế. em thích nhất kế hoachj nó phải như vậy
 
Biển số
OF-49
Ngày cấp bằng
23/5/06
Số km
7,400
Động cơ
660,704 Mã lực
Nơi ở
Thừa Thiên Huế
Dĩ vãng thôi các kụ, bây h chỉ còn giặc lạ thôi, mà giặc lạ thì nhiều nắm k oánh được.
Cụ nhầm!

Giặc lạ (quên, bây giờ báo đài chỉ đính danh là giặc Khựa rồi) cũng bị đặc công VN tẩn cho mấy trận chẳng thua giề bên U-ta-pao hay vụ giải cứu hoàng thân Su.

Tiếc là đến nay bà con mới chỉ được biết vụ phá rada phản pháo còn trận Côn Minh và Phòng Thành thì vẫn thuộc loại "thâm cung bí sử" chưa được bật mí.
 

MP4-22

Xe điện
Biển số
OF-7284
Ngày cấp bằng
20/7/07
Số km
2,573
Động cơ
565,720 Mã lực
Nơi ở
Quan Nhân, Hà Nội
Cụ nhầm!

Giặc lạ (quên, bây giờ báo đài chỉ đính danh là giặc Khựa rồi) cũng bị đặc công VN tẩn cho mấy trận chẳng thua giề bên U-ta-pao hay vụ giải cứu hoàng thân Su.

Tiếc là đến nay bà con mới chỉ được biết vụ phá rada phản pháo còn trận Côn Minh và Phòng Thành thì vẫn thuộc loại "thâm cung bí sử" chưa được bật mí.
Cụ Gấu có thông tin gì thì post lên cho chúng cháu đọc với ..;)
 
Biển số
OF-49
Ngày cấp bằng
23/5/06
Số km
7,400
Động cơ
660,704 Mã lực
Nơi ở
Thừa Thiên Huế
Cụ Gấu có thông tin gì thì post lên cho chúng cháu đọc với ..;)
Em lính thời 79, sau khi Khựa rút quân vào tháng 03/1979, em có được tuyên huấn cho xem "bản tin chiến thắng" có nhắc đến 2 trận này. Ta phá hủy mấy nghìn máy bay, mấy trăm tàu chiến... trong chiến trận. (?!)

Thông tin chỉ có vậy, em cũng đang hóng hớt xem thực hư thế nào nhưng đến nay vẫn chỉ là đồn đoán hoặc láng máng qua lời kể từ một số CCB ở quanh đó.
 
Biển số
OF-49
Ngày cấp bằng
23/5/06
Số km
7,400
Động cơ
660,704 Mã lực
Nơi ở
Thừa Thiên Huế
Hi, bảo đặc công ta luồn sâu táng khựa ngay tại sân bay, cảng biển thì em tin, nhưng mấy nghìn với mấy trăm thì oánh chết em cũng chả tin, trừ khi máy bay giấy với tàu cá :P
Thế nên em mới oánh cái dấu hỏi to bự. :))
 

Chã Nhỏ

Xe điện
Biển số
OF-115758
Ngày cấp bằng
6/10/11
Số km
4,107
Động cơ
425,516 Mã lực
Nơi ở
Lương Sơn, Hoà Bình
ơ các cụ lạ thật 3700 mạng Vn chết ở cái đỉnh bé con con ngồi đc độ 100 ông thì ối ng tin thía mà các cụ lại không tin cái vụ tầu bay giấy
=))
 

omerta77

Xe điện
Biển số
OF-35686
Ngày cấp bằng
21/5/09
Số km
4,455
Động cơ
512,941 Mã lực
Bữa ấy, em cũng chẳng hỏi tên cái ông được chỉ trong ảnh cụ àh.
Thật ra em lại quan tâm tới cái ông từng luồn sâu 450 cây số vào đất Tàu năm 79 để oánh hơn kia.
Bác đánh Tầu đấy thì e ko biết. Để hôm nào thử hỏi ông già xem có biết thông tin gì ko? Ông già e chơi thân với bác đánh sân bay Utapao (cùng đơn vị Đoàn 1), e cũng biết bác ý được khoảng 30 năm, nhưng cách đây khoảng 2 năm mới được ông già cho biết đấy chính là bác Phương. Các cụ giấu nghề giỏi thật
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top