- Biển số
- OF-374797
- Ngày cấp bằng
- 23/7/15
- Số km
- 1,362
- Động cơ
- 256,850 Mã lực
Chương V: đại lễ phong vương (tiếp theo)
PHẦN II: PHÁI ĐOÀN THÀNH LÂM
Thủ tục phong vương như thế nào?
Nhà Thanh là triều đại lễ nghi phức tạp hơn hết trong lịch sử Trung Hoa. Mọi sinh hoạt đều được qui định rất chi tiết nên chúng ta có thể hiểu được nhiều ẩn dấu nội bộ khi quan sát cặn kẽ từ bên ngoài. Sự phân biệt về màu sắc, y phục, hay những vật dụng nho nhỏ tưởng như đồ trang sức thực ra đều có ý nghĩa riêng. Thứ tự trong danh sách ban thưởng hay sắp đặt chỗ ngồi trên bàn tiệc phản ảnh rõ rệt vị thế và uy vọng của từng người. Ngay cả cách dùng chữ, cách xưng hô cũng được qui định rất chặt chẽ. Vua Ung Chính đã từng khiển trách một viên quan người Hán vì tự xưng “nô tài” là danh hiệu chỉ người Mãn mới được dùng. Vua Quang Trung trước khi được phong vương chỉ dám nhận là “tiểu phiên” chứ không dám xưng ‘thần” và nhà Thanh cũng chỉ gọi ông là “quốc trưởng” chứ không gọi là “quốc vương”.
Theo Lễ Chí (禮志), phần Phiên Quốc Lễ (藩國禮) trong chương Tân Lễ (賓禮) thì “[…] Từ khi quốc gia kiến tạo đến nay, cả đức lẫn uy đều lan rộng, thanh giáo tràn tới nên không đâu là không đến triều đình … chiếu theo sách cũ cũng đều coi như nhau.” Cũng theo Phiên Quốc Lễ, Thanh triều qui định rằng việc sách phong cho phiên thuộc thì sẽ sai đại thần mang “ tín ước”(信约) sang, khi [sứ thần] đến biên giới của nước đó sẽ kiểm tra (验视) tín ước cùng chức danh của đại thần phụng sai cùng nghi lễ sách phong phi báo cho thủ lãnh [quốc trưởng] nước đó. Quốc trưởng nước kia sẽ ra tới nơi cách năm dặm, xuống ngựa quì ở bên phải đường đi, đợi khi chế sách đi qua sẽ cưỡi ngựa tuỳ hành.
Sứ thần cùng đi đến phủ đệ của thủ lãnh kia, bày hương án, sứ thần bưng chế sắc để trên hương án, thủ lãnh làm lễ tam quị cửu khấu [ba lần quì, chín lần rập đầu], nghi độc quan [viên quan được chỉ định đọc tờ sắc] sẽ đọc tờ chế phong, thủ lãnh kia lại làm lễ tam quị cửu khấu lần nữa, sau đó quay qua cùng sứ thần hai người làm lễ nhị quị lục khấu [hai lần quì, sáu lần rập đầu], ấy là hoàn tất nghi thức sách phong.
Cũng trong sách này, việc sách phong cho hai nước Lưu Cầu, An Nam được chép như sau:
Định chế đời Sùng Đức [1636-1643], một khi ngoại bang qui thuận thì đều ban sách phong tích tước vị để khi có điều gì tâu lên được dùng niên hiệu Đại Thanh. Nếu nước triều cống không có người nối ngôi thì phải sai bồi thần sang xin phép thiên triều, khi đó bộ Lễ sẽ tâu lên để sai một chánh, một phó sứ mang cờ tiết sang phong vương. Được đặc biệt ban cho triều phục nhất phẩm có thêu kỳ lân để chuyến đi thêm long trọng.
Đến ngày đi, bộ Công sẽ cấp cho kỳ trượng (旗仗 –cờ và các món binh khí trang sức), bộ Binh cấp cho thừa truyền (乘传 –xe dành riêng cho người đi xa), phong sứ sẽ đến bộ Lễ, một viên quan thuộc Nghi Chế Ty sẽ cầm cờ tiết, một người cầm chiếu sắc trao cho quan lớn của bộ [Lễ] để trao lại cho chánh , phó sứ quì nhận lấy, đứng lên. Hai người đi ra thay chinh y, ngồi xe lên đường. Khi đến cảnh giới nước kia thì kẻ biên lại nước ấy đã chuẩn bị xe ngựa phu dịch sẵn sàng, những nơi nào phải đi ngang qua đều có viên chức quì đón cùng bồi thần của người được nối ngôi nghinh tiếp, làm lễ tam quị cửu khấu, sứ giả sẽ đáp lại nhất quị tam khấu, sau đó mới vào trong quán. Sau khi đã trần thiết các loại cờ tiết long đình rồi, mọi người hành lễ theo nghi thức, ai đến yết kiến sứ thần thì khấu đầu ba lần, sứ thần không phải đáp lễ.
Đến ngày làm lễ phong vương, nhà vua đem bồi thần đến quán, làm lễ [kiến diện] xong, vua về trước. Khi rước long đình đi thì có cờ quạt và nhạc công đi đầu, phong sứ đi theo sau. Vào trong cửa bày ra ở chính giữa, sứ giả và người đi theo xuống ngựa. Chánh sứ cầm cờ tiết, phó sứ bưng chiếu sắc, vào trong điện để lên trên án, lui ra đứng ở bên cạnh phía đông.
Nhà vua dẫn trăm quan đứng quay mặt về hướng bắc làm lễ tam quị cửu khấu, đứng lên đi đến vị trí phong vương rồi quì xuống. Phó sứ bưng chiếu thư giao cho tuyên độc quan (viên quan đọc chiếu). Đọc xong, nhà vua hành lễ, làm như lúc trước sau đó ra khỏi điện. Sứ giả đi ra, các quan quì tiễn rồi đãi tiệc ở công quán. Khi sứ giả trở về triều, nhà vua soạn biểu văn cùng các phương vật sai bồi thần đến cửa quan tạ ơn.
PHẦN II: PHÁI ĐOÀN THÀNH LÂM
Thủ tục phong vương như thế nào?
Nhà Thanh là triều đại lễ nghi phức tạp hơn hết trong lịch sử Trung Hoa. Mọi sinh hoạt đều được qui định rất chi tiết nên chúng ta có thể hiểu được nhiều ẩn dấu nội bộ khi quan sát cặn kẽ từ bên ngoài. Sự phân biệt về màu sắc, y phục, hay những vật dụng nho nhỏ tưởng như đồ trang sức thực ra đều có ý nghĩa riêng. Thứ tự trong danh sách ban thưởng hay sắp đặt chỗ ngồi trên bàn tiệc phản ảnh rõ rệt vị thế và uy vọng của từng người. Ngay cả cách dùng chữ, cách xưng hô cũng được qui định rất chặt chẽ. Vua Ung Chính đã từng khiển trách một viên quan người Hán vì tự xưng “nô tài” là danh hiệu chỉ người Mãn mới được dùng. Vua Quang Trung trước khi được phong vương chỉ dám nhận là “tiểu phiên” chứ không dám xưng ‘thần” và nhà Thanh cũng chỉ gọi ông là “quốc trưởng” chứ không gọi là “quốc vương”.
Theo Lễ Chí (禮志), phần Phiên Quốc Lễ (藩國禮) trong chương Tân Lễ (賓禮) thì “[…] Từ khi quốc gia kiến tạo đến nay, cả đức lẫn uy đều lan rộng, thanh giáo tràn tới nên không đâu là không đến triều đình … chiếu theo sách cũ cũng đều coi như nhau.” Cũng theo Phiên Quốc Lễ, Thanh triều qui định rằng việc sách phong cho phiên thuộc thì sẽ sai đại thần mang “ tín ước”(信约) sang, khi [sứ thần] đến biên giới của nước đó sẽ kiểm tra (验视) tín ước cùng chức danh của đại thần phụng sai cùng nghi lễ sách phong phi báo cho thủ lãnh [quốc trưởng] nước đó. Quốc trưởng nước kia sẽ ra tới nơi cách năm dặm, xuống ngựa quì ở bên phải đường đi, đợi khi chế sách đi qua sẽ cưỡi ngựa tuỳ hành.
Sứ thần cùng đi đến phủ đệ của thủ lãnh kia, bày hương án, sứ thần bưng chế sắc để trên hương án, thủ lãnh làm lễ tam quị cửu khấu [ba lần quì, chín lần rập đầu], nghi độc quan [viên quan được chỉ định đọc tờ sắc] sẽ đọc tờ chế phong, thủ lãnh kia lại làm lễ tam quị cửu khấu lần nữa, sau đó quay qua cùng sứ thần hai người làm lễ nhị quị lục khấu [hai lần quì, sáu lần rập đầu], ấy là hoàn tất nghi thức sách phong.
Cũng trong sách này, việc sách phong cho hai nước Lưu Cầu, An Nam được chép như sau:
Định chế đời Sùng Đức [1636-1643], một khi ngoại bang qui thuận thì đều ban sách phong tích tước vị để khi có điều gì tâu lên được dùng niên hiệu Đại Thanh. Nếu nước triều cống không có người nối ngôi thì phải sai bồi thần sang xin phép thiên triều, khi đó bộ Lễ sẽ tâu lên để sai một chánh, một phó sứ mang cờ tiết sang phong vương. Được đặc biệt ban cho triều phục nhất phẩm có thêu kỳ lân để chuyến đi thêm long trọng.
Đến ngày đi, bộ Công sẽ cấp cho kỳ trượng (旗仗 –cờ và các món binh khí trang sức), bộ Binh cấp cho thừa truyền (乘传 –xe dành riêng cho người đi xa), phong sứ sẽ đến bộ Lễ, một viên quan thuộc Nghi Chế Ty sẽ cầm cờ tiết, một người cầm chiếu sắc trao cho quan lớn của bộ [Lễ] để trao lại cho chánh , phó sứ quì nhận lấy, đứng lên. Hai người đi ra thay chinh y, ngồi xe lên đường. Khi đến cảnh giới nước kia thì kẻ biên lại nước ấy đã chuẩn bị xe ngựa phu dịch sẵn sàng, những nơi nào phải đi ngang qua đều có viên chức quì đón cùng bồi thần của người được nối ngôi nghinh tiếp, làm lễ tam quị cửu khấu, sứ giả sẽ đáp lại nhất quị tam khấu, sau đó mới vào trong quán. Sau khi đã trần thiết các loại cờ tiết long đình rồi, mọi người hành lễ theo nghi thức, ai đến yết kiến sứ thần thì khấu đầu ba lần, sứ thần không phải đáp lễ.
Đến ngày làm lễ phong vương, nhà vua đem bồi thần đến quán, làm lễ [kiến diện] xong, vua về trước. Khi rước long đình đi thì có cờ quạt và nhạc công đi đầu, phong sứ đi theo sau. Vào trong cửa bày ra ở chính giữa, sứ giả và người đi theo xuống ngựa. Chánh sứ cầm cờ tiết, phó sứ bưng chiếu sắc, vào trong điện để lên trên án, lui ra đứng ở bên cạnh phía đông.
Nhà vua dẫn trăm quan đứng quay mặt về hướng bắc làm lễ tam quị cửu khấu, đứng lên đi đến vị trí phong vương rồi quì xuống. Phó sứ bưng chiếu thư giao cho tuyên độc quan (viên quan đọc chiếu). Đọc xong, nhà vua hành lễ, làm như lúc trước sau đó ra khỏi điện. Sứ giả đi ra, các quan quì tiễn rồi đãi tiệc ở công quán. Khi sứ giả trở về triều, nhà vua soạn biểu văn cùng các phương vật sai bồi thần đến cửa quan tạ ơn.