C. NGOẠI GIAO:
Từ ngày 14/1/1789 [21/12 Mậu Thân Thanh], có tin Hoằng Lịch bỗng đổi ý, sai chạy ngựa trạm qua Hà Nội, lệnh cho Sĩ Nghị triệt thoái. Tuy nhiên quá chậm. Lệnh chưa tới nơi, Nghị đã thua trận. (28)
Hoằng Lịch bèn sai Phúc Khang An làm Tổng đốc Lưỡng Quảng; và dự định đưa quân qua phục thù. Kinh nghiệm “thông hiếu” gần tám thế kỷ khiến cố vấn của Quang Trung khuyên vua lùi một bước, sai sứ xin cầu hòa.
Theo Liệt Truyện, trong khi đánh nhau với nhà Thanh, Tây Sơn bắt được sắc thư của Càn Long [Qainlong] gửi Sĩ Nghị về kế hoạch đánh chiếm Ðại Việt. Sau đó, có Thang Hùng Nghiệp, binh bị đạo Giang Tô [Tả], viết thư khuyên Quang Trung nên vào chầu nhà Thanh, vì Hoằng Lịch không có chủ tâm lấy lại nước Việt. Dù coi khinh nhà Thanh, Quang Trung vẫn muốn tránh việc binh đao, nên sai tướng là Hố Hổ Hầu mang biểu qua xin sắc phong. Trong tờ biểu, qui trách tội lỗi cho Sĩ Nghị. Thang Nghiệp không dám chuyển đạt. Quang Trung cho Ngô Thì Nhiệm và Phan Huy Ích phụ trách việc bang giao, rồi rút quân về Huế. (29)
Sau Phúc Khang An đến Việt [Quảng] Tây, ngỏ ý muốn giảng hòa, đưa thư chiêu dụ. Tháng 2-3/1789 [tháng 2 Kỷ Dậu], Thì Nhiệm bí mật gặp Khang An. Tháng 4-5/1789 [4 Kỷ Dậu], Khang An tới Quế Lâm. Tuyên bố trời nóng nực phải tạm ngưng việc binh, và yêu cầu Duy Kỳ gióc tóc theo nhà Thanh để chuẩn bị về đánh Tây Sơn. Sau đó, Khang An mật tâu Duy Kỳ đã xin nhập Thanh, tiếp sứ Tây Sơn. (30)
Mùa Hè 1789, Nguyễn Huệ sai cháu là Nguyễn Quang Hiển cùng Vũ Huy Tấn mang vàng bạc qua xin yết kiến Hoằng Lịch. Ðọc được tờ sớ do Phúc Khang An giúp phần soạn thảo, Hoằng Lịch vui lắm, đồng ý phong vương cho Quang Trung–lúc này đã đổi tên thành Nguyễn Quang Bình, có lẽ do thuộc hạ Hoằng Lịch đề nghị; hẹn năm sau khi Quang Bình tới Yên Kinh mừng thượng thọ 80 tuổi, sẽ chính thức phong làm An Nam Quốc Vương. Nhưng sau đó, đồng ý cho sứ đoàn Nguyễn Quang Hiển mang về sắc phong từ ngày 1/12/1789 [15/10 Kỷ Dậu]. (31)
Quang Trung gửi một phái đoàn lên Yên Kinh tạ ơn, hứa sẽ qua dự lễ thượng thọ bát tuần của Hoằng Lịch vào tháng 8 Canh Tuất [9-10/1790]. Ðồng thời, gửi một phái đoàn khác qua nạp cống lễ theo định kỳ. Trong biểu lên Quainlong, Thì Nhiệm viết:
Lượng trên như trời đất cha mẹ, khó thể hình dung, [Thiên địa phụ mẫu chi vi lượng, cố mạc đức nhi hình dung],
Phận nhỏ mọn như hạt bụi, bọt nước, biết cách nào báo đáp. [Trần nhưỡng quyên tích chi chí vi, thật hà giai nhi báo xứng!]
Ngày 15 tháng 10 [1/12/1789], kính cẩn lãnh thụ ngự thi và sắc thư, từ nay chăn giắt đất Nam Giao, thần đời đời con cháu, tuân theo thánh huấn, mãi mãi phụng sự nhà Ðại Thanh. [vu thập nguyệt thập ngũ nhật kính cẩn lĩnh thụ ngự thi sắc thư, tòng thử ti mục Nam Giao, thần thế thế tử tôn, khác tuân thánh huấn, vĩnh phụng Ðại Thanh].
Theo tài liệu Thanh, năm sau, Nguyễn Quang Bình y hẹn, dẫn Ngô Văn Sở, Ðặng Văn Chân, Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn, Vũ Danh Tiêu, Nguyễn Văn Lỗ, Ðỗ Văn Công cùng đi. Phúc Khang An và Tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh tháp tùng.
Theo tài liệu Nguyễn, thấy Quang Trung nhiều lần tìm cách trì hoãn, Khang An đưa ra kế gửi một người giả giống Quang Trung lên Yên Kinh. Tháng 4-5/1790 [Tháng Ba Canh Tuất], Nguyễn Huệ cho người cháu gọi bằng cậu là Phạm Công Trị, nét mặt giống mình đi sứ Yên Kinh. vào chầu Càn Long. Có Ngô Văn Sở và Phan Huy Ích đi theo. Càn Long phong Huệ làm An Nam Quốc Vương. (32)
Biết hay không biết sự thực, Ái Tân Giác La Hoằng Lịch vẫn ra sức trình diễn sự hiện diện lịch sử của phái bộ “Nguyễn Quang Bình” ở Nhiệt Hà, như vào chầu ra mắt, làm lễ bảo tất [ôm đầu gối]. Hoằng Lịch còn đích thân viết bốn chữ đại tự “củng cực qui thành” [nghĩa là “chầu vào ngôi sao Bắc đẩu, hết lòng qui phục] và một đôi câu đối. Sau đó, ban một bài thơ có câu nhắc nhở với ý chê trách tục cống tượng người vàng từ thời nhà Lê. Trước khi về nước, còn cho gọi đến bên giường, an ủi, vỗ về, tăng một chữ Phúc cùng nhiều quà cáp. (33)