Nhiều người chứng kiến cảnh đồng môn gặp họa đã hốt hoảng đến tìm nhờ ông “làm phép” để rút khỏi môn phái.
“Có người thì tôi rút được nhưng cũng có người bề trên không cho rút. Có lẽ bề trên nhìn thấy cái tâm họ tốt nên muốn giữ lại cho võ phái thôi”, ông X nói.
Với những học trò do mình tự tay truyền dạy, khi họ học xong đến trình độ phù hợp, ông còn dẫn vào Huế để gặp sư phụ mình là ông NV C để kiểm tra, để nâng đai theo đúng quy định của môn phái.
Tuy chọn lựa kỹ càng trong việc chiêu nạp đệ tử nhưng bởi chưa quen với những quy củ điều hành nên ông cũng chẳng thể quản lý hết được đám môn sinh đời kế tiếp, những người được học trò của ông truyền dạy. Bởi thế, nhiều môn sinh với cái tâm không trong sáng đã dùng võ công học được vào việc đánh lộn, xưng hùng xưng bá.
Thêm nữa, thời gian ấy, bởi sự xuất hiện lạ lùng của võ bùa mà nhiều “danh môn chánh phái” khác đã tò mò tìm đến thách đấu. Bởi thế, thời gian đó, ở Cẩm Khê, những vụ việc đánh lộn gây mất an ninh trật tự liên tiếp diễn ra. Tất thảy đều có dính líu đến môn võ thần quyền. Đã có bận, công an đã mời tất thảy những ai theo học môn võ này lên đồn để giáo dục, răn đe.
Ba lần hỏi vợ bất thành và từng bị xem như… *********
Là người đem “thần quyền” về truyền dạy, đương nhiên ông X phải là người giơ đầu chịu báng.
“Ngày ấy người ta kỳ thị chúng tôi lắm, thậm chí có người còn xem tôi như *********, đem võ về để phá hoại sự ổn định của địa phương ấy chứ”.
Cũng bởi sự hiểu lầm trên mà mấy lần ông X hỏi vợ không thành. Người ông muốn kết tóc se duyên khi đó là Đảng viên, Bí thư xã đoàn. Yêu thương quá đỗi mặn nồng, hai người muốn cùng nhau dựng xây tổ ấm.
Tuy nhiên, dứt khoát bảo vệ quan điểm “không thể để gái nhà gia giáo lấy người… phá hoại”, họ hàng nhà gái đã cực lực phản đối.
“Ngày ấy, gia đình tôi đã ba lần đem lễ đến dạm hỏi nhưng bên nhà gái không nghe”.
Để "chia loan rẽ thúy", gia đình nhà gái đã không cho người ông “quyết lấy làm vợ” công tác ở xã nhà mà chuyển lên mãi Hoàng Su Phì, Hà Giang. Tuy nhiên, như thiên duyên thiền định, chiến tranh biên giới nổ ra, năm 1979, ông lên đường nhập ngũ. Nơi ông đóng quân cũng chính là nơi người con gái hỏi cưới mãi mà không được công tác. Gặp nhau, tình xưa lại nối, duyên cũ lại liền. Biết không thể ngăn cản được đôi trẻ, mãi sau này, khi ông đã là anh bộ đội phục viên mẫu mực thì gia đình nhà gái mới gật đầu ưng thuận.
Ông X xuất ngũ năm 1984. Thời gian ấy, “thần quyền” đã hiện hữu khắp nơi, nhất là các tỉnh miền núi phía Bắc và thủ đô Hà Nội. Hầu như bất cứ làng quê nào cũng có người theo học môn võ công lạ lùng này. Tuy nhiên, cũng giống quãng thời gian trước khi ông đi bộ đội, những cuộc tỉ thí, đánh lộn giữa môn sinh thần quyền với các võ phái khác vẫn cứ âm ỉ diễn ra.
Bởi tình hình có phần hỗn tạp ấy, ông quyết định tạm ngưng việc dậy võ, quy ẩn giang hồ. Ông muốn mình vươn tới cảnh giới tối thượng của thần quyền nên ngay khi đó, ông đã tập trung vào nghiên cứu, sưu tầm những bí kíp mà các tiền nhân của môn phái mình để lại.
Và, với những đệ tử thân tín theo ông từ những ngày đầu, những người đến với thần quyền bằng cái tâm chân chính thì ông vẫn tiếp tục chỉ bảo để họ đạt tới cảnh giới cao hơn. Đương nhiên, việc chỉ dạy ấy cũng diễn ra vô cùng bí mật. Ông kể, khi đó, hầu như năm nào ông cũng vài ba lần đưa những đệ tử gắn bó với mình vào Huế để gặp ông C và bái kiến, xin thọ giáo các vị tiền bối của môn phái.
Thấy ông nhiệt huyết, tận tình, mãi đến năm 1986, một trưởng lão của môn phái mới hé lộ cho ông thông tin vô cùng quý giá. Trưởng lão đó chính là anh trai cùng cha khác mẹ của ông C, ông NV Hớn. ông Hớn đã bảo, nếu muốn đi đến cảnh giới tận cùng của môn võ bí hiểm này thì cần phải có cuốn bí kíp võ công của môn phái mà sáng tổ Trần Ngọc Lộ để lại.
Theo ông Hớn thì ông Lộ là người đầu tiên lĩnh hội được đầy đủ bí kíp võ công của thần quyền từ những vị sư phụ ở vùng Bảy Núi, An Giang. Chuyện ông Lộ bén duyên với môn võ kỳ lạ này cũng rất đỗi… lạ kỳ. Theo ông C: một đêm, ông Lộ nằm mộng, thấy có vị thần mách bảo rằng vào vùng Thất Sơn (còn gọi là Bảy Núi) sẽ gặp vận, đổi đời.
Mộng mị mấy đêm liền như vậy, biết không đi không được, nên thời đó, dù đi lại khó khăn nhưng ông Lộ vẫn lặng lẽ lên đường. Vào tới nơi, đúng như giấc mơ, ông Lộ đã được một đạo sĩ ra đón và dẫn lên núi tu luyện. Khi đã học thành tài, ông Lộ trở về và có mang theo cuốn bí kíp võ công ấy.
Khi về tới Huế, ông Lộ đã truyền dạy thần quyền cho một số học trò, trong đó nổi danh có ông Hớn, ông C, ông V, ông B, ông H… Tất thảy những cao nhân này, theo ông X giờ đều đã khuất bóng.
Chuyện ông Lộ mộng mị rồi vào Bảy Núi gặp cao nhân thần quyền thì ngay cả ông C, ông Hớn cũng chẳng biết thực hư thế nào. Tuy nhiên, về cuốn bí kíp võ công có tên là Âm dương quyền thì không chỉ hai ông mà nhiều người khẳng định là có. Chiến dịch Mậu Thân năm 1968 nổ ra, ông Lộ mất tích. Không ai biết ông đi đâu, còn sống hay là đã chết.
Kỳ lạ chuyện tìm lại “sách của tiền nhân”
ông Lộ đã dặn ông rằng, sau này nếu có biến, không gặp được thầy thì khi nào tìm được người tin tưởng, có thể gánh vác được môn phái thì cứ đến đúng địa điểm thầy dặn để lấy cuốn bí kíp võ công về. Địa điểm mà ông Lộ dặn là một nhà dân ở mãi huyện biên giới Hướng Hóa (Quảng Trị). Nơi ấy đa phần là đồng bào dân tộc sinh sống và dù có săn lùng thì chẳng ai có thể nghĩ ông Lộ đã cất giấu bí kíp võ công ở tận nơi khuất nẻo thưa người đó.
ông Hớn, ông C muốn ông tiếp cận với bí kíp võ công trên là có ý riêng. Thời gian đó, bởi là người của chế độ cũ nên việc rèn võ, hành đạo của hai ông mà một số cao đồ khác ở Huế còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Trong khí đó ông là người Bắc, lại từng tham gia quân ngũ nên sẽ là người thích hợp nhất để tiếp cận bí kíp võ công đó để sau này có cơ hội thì phát dương môn phái.
Nhận trọng trách từ sư phụ, sư bá, ngay ngày hôm sau, ông cùng hai đệ tử khác, một người ở Hải Phòng, một người ở Hà Nội đã tháp tùng ông Hớn bắt xe khách theo đường 9 ngược lên biên giới.
Đúng như địa chỉ mà ông Lộ để lại, khi tìm đến một nhà người Kinh giữa đại ngàn ấy các ông đã được đón tiếp rất thịnh tình. Điều lạ lùng là khi mới gặp, chủ nhà đã bảo ông ta biết hôm nay thế nào nhà mình có khách quý.
Ngạc nhiên hơn là chủ nhà bảo, chừng 20 năm trước, có người khách lạ khi gửi lại cuốn sách với những hình vẽ loằng ngoằng là đúng ngày hôm nay sẽ có người đến lấy.
Với sự xuất hiện của ông Hớn, bằng những thuật ngữ riêng lạ, ngồi chưa ấm chỗ thì chủ nhà đã lấy cuốn sách đó ra. Cuốn sách viết bằng tiếng Việt, có hình mình họa rối rắm nếu không phải môn sinh thần quyền thì chẳng thể nào biết được trong đó viết gì. Bởi thời gian, nhiều trang trong cuốn sách đã không còn rõ chữ. Ông X bảo, nhiều khả năng cuốn sách đó do sáng tổ Trần Ngọc Lộ viết chứ không phải do các đạo sĩ ở An Giang truyền lại.
Nhận được cuốn sách quý trên, sau bữa cơm ấm cúng, các ông vội vã từ biệt. Trên đường về, ông Hớn bảo, nhìn điệu bộ ông đã biết vị chủ nhà, người giữ cuốn sách trên cũng là một cao thủ thần quyền. Không biết bởi lý do gì mà ông ấy đã không xuất đầu lộ diện.
Tuyệt kỹ “đao thương bất nhập”
Đưa được sách quý về Huế, ngay ở dưới khoang thuyền, nơi ông Hớn ở, ông X cùng hai đồ đệ của mình đã cả đêm sao chép lại. Người này viết mỏi thì người khác vào thay. Bởi thế, ông X bảo, cuốn bí kíp võ công mà ông đang giữ được viết bằng ba loại chữ khác nhau.
Chép xong, bản gốc của cuốn sách, ông Cư giao lại cho ông Hớn, ông C, còn mình cùng hai đồ đệ cầm bản sao Âm dương quyền về. Nói về cuốn sách gốc, ông X bảo, bây giờ sư phụ, sư bá của ông đã mất nên Âm dương quyền cũng chẳng biết là mất hay còn.
Nội dung của Âm dương quyền chủ yếu chỉ dạy chuyện ăn, học, các điều cấm kỵ trong môn phái. Về võ công thì cuốn sách dạy cách luyện gồng, phi thân.
“Môn sinh thần quyền khi học gồng thì đều phải là người có công phu cơ bản. Đỉnh cao của gồng là đao thương bất nhập”, ông X cho biết.
Theo ông X, cao thủ thần quyền khi thuần thục các phép gồng thì có thể ưỡn ngực để dao chém mà thịt da không hề trầy sước.
Còn về thuật phi thân, thần quyền giúp người tập có cảm giác nhẹ nhàng như được đấng siêu nhiên chắp cánh, nâng chân. Tuy nhiên, muốn thành cao thủ phi thân thì cũng phải trải qua những năm tháng rèn luyện gian khổ.
Ông X từng rèn đệ tử tập phi thân bằng cách nhảy lên từ hố đất. Ban đầu là hố nông, sau thì đào sâu dần. Cao hơn nữa là đeo chì vào chân rồi nhảy. Một môn sinh chỉ được tiếp cận với các chiêu thức phi thân khi có thể tự bật khỏi hố sâu 60cm với 24kg chì đeo ở cổ chân.
Thoát khỏi tử thần ung thư nhờ đọc chú thần quyền
Âm dương quyền cũng dạy môn sinh cách chữa bệnh cứu mình và cứu người. Ông X bảo, với những gì mình học được ông cũng đã từng giúp nhiều người chữa bệnh. Và, cũng nhờ thứ võ công thần thánh, lạ lùng ấy mà ông đã tự cứu mình thoát khỏi lưỡi hái tử thần.
Bốn năm trước, ông thấy tức ngực, khó thở và ho ra máu. Đi khám, ông và mọi người đã vô cùng hốt hoảng khi biết đó là triệu chứng của căn bệnh nan y ung thư phổi. Xuống Hà Nội, hai lần làm sinh thiết thì cả hai đều cho kết quả tiêu cực. Và, đến khi này thì chỉ cần ho hắng nhẹ là máu tươi bật ra nên ông và người thân rất đỗi chán nản, lo lắng.
Nghĩ mình chả sống được bao lâu nữa, sau 15 ngày nằm viện, ông xin về để được gần vợ gần con.
Về nhà, nghĩ thế nào cái chết cũng tìm đến mình nên ông đã nghĩ phải sống thanh thản để người thân vì đó cũng đỡ rối lòng. Và để tâm tĩnh, ông ngồi thiền mỗi đêm và đọc khẩu quyết chữa bệnh của môn phái. Lạ lùng cứ khi ngồi thiền và niệm chú thì ông thấy ngực mình nhẹ hẳn, những cơn ho rút ruột cũng không tìm đến
Vậy là đêm nào cũng vậy, cứ khi đồng hồ điểm 12 giờ đêm, khi xóm làng chìm trong tĩnh lặng thì ông lại chắp tay bắt khuyết ngồi thiền. Cứ khi nào cảm thấy mệt thì mới chịu ngả lưng. Ngoài ngồi thiền theo cách riêng của môn phái, ông còn dùng hoa đu đủ đực sao vàng hạ thổ để pha nước uống theo sự mách bảo của một đệ tử ở Hải Phòng.
“Đến giờ, đi khám lại mấy lần thì trong phổi tôi không còn khối u nữa. Ngày trước chụp khối u bằng cả nắm tay, trông kinh lắm!”, ông X chia sẻ. Trước đây, ông X người mảnh khảnh, xương xẩu. Tuy nhiên, sau khi vượt qua bạo bệnh, ông béo lên trông thấy. Ông bảo, chỉ vài năm “đọc chú chữa bệnh cho mình”, ông đã tăng đến hơn 20kg.