Bản án TVB năm 1998:
Ngày 5/12/1996, ông Trịnh Vĩnh Bình chính thức bị bắt với cáo buộc tội “trốn thuế.”
Cáo buộc ban đầu này sau đó nhanh chóng được chuyển đổi thành “vi phạm các quy định về quản lý đất đai” và tội “hối lộ,” vì “thiếu căn cứ,” theo lời Luật sư Nguyễn Minh Tâm, một trong những luật sư của ông Bình lúc bấy giờ nói:
“Đầu tiên là khởi tố về tội trốn thuế. Quan điểm của chúng tôi cho rằng không [đủ chứng cứ] cấu thành tội trốn thuế. Sau đó chuyển sang tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai và một số việc khác.”
Ngày 11/12/1998, Tòa án Nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu tuyên án 13 năm tù đối với ông Trịnh Vĩnh Bình về tội vị phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai và tội đưa hối lộ, phạt 400 triệu đồng, tịch thu tài sản được cho là “sang nhượng bất hợp pháp”.
Theo các cơ quan tố tụng lúc đó thì “hoạt động của ông Trịnh Vĩnh Bình từ năm 1990 đến khi bị bắt là vi phạm pháp luật Việt Nam rất nghiêm trọng” và việc “xử lý Trịnh Vĩnh Bình đúng pháp luật vừa đảm bảo được sự nghiêm minh của pháp luật, vừa bảo vệ chủ quyền Việt Nam và giải quyết được vấn đề đối ngoại”; “hành vi phạm tội cụ thể của Bình là: Vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai (điều 180 BLHS) và tội hối lộ cho Nguyễn Văn Huề 100 triệu đồng thông qua trung gian là các tên Thanh và Luyện (điều 227 BLSH).”
Đại tá, Luật sư Lê Mai Anh, nguyên cán bộ Viện Kiểm sát Tối cao, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra Đảng Hội Luật gia Việt Nam, sau khi xem hồ sơ vụ án Trịnh Vĩnh Bình, nhận định
“hồ sơ không có chứng cứ cụ thể, chính xác”. Ông nói bản án chỉ dựa chủ yếu vào lời cung của các nhân chứng:
“[Họ] trọng cung hơn là trọng chứng. Mà cung cũng là ép cung, mớm cung hoặc dọa cung là có. [Họ] sử dụng cung nhiều quá mà chứng lại không có”.
Vị luật gia từng làm việc tại Viện Kiểm sát Tối cao biện luận:
“Ông ấy đứng tên người khác theo đúng hướng dẫn của chính phủ Việt Nam là ông phải đứng tên người khác. Vì lúc ấy, nó không cho người nước ngoài, người có quốc tịch nước ngoài mua nên ông ấy phải đứng tên người khác. Ông đã thực hiện đúng như ý của họ. Sau đấy họ lại cho là ông ấy mua đất đai, nhà xưởng… là không hợp pháp. Thì chẳng hiểu thế nào là hợp pháp nữa. Bảo ông ấy thế nào thì ông ấy làm đúng như thế. Chứ ông ấy có làm sai đâu”.
Báo Pháp Luật TP.HCM trong bài viết ngày 29/12/1998 đặt câu hỏi: Bản án Trịnh Vĩnh Bình – “Liệu có phù hợp với chủ trương khuyến khích Việt kiều về nước đầu tư?”
Trong mục “Đầu tư chui cũng không có tội,” bài báo này khẳng định tình trạng phổ biến “có hàng ngàn nhà đầu tư nước ngoài đang đầu tư chui” tại Việt Nam vào lúc này và “Nếu việc này là sai trái thì liệu có đến mức xử lý hình sự không?”
Bài báo khẳng định vào thời điểm xử vụ án, việc đầu tư chui này đã được “hợp pháp hóa” qua Quyết định 767/TTg do Thủ tướng Việt Nam ban hành ngày 17/9/1997.
http://hethongphapluatvietnam.net/quyet-dinh-767-1997-qd-ttg-nam-1997-ve-mot-so-chu-truong-chinh-sach-doi-voi-cong-dong-nguoi-viet-nam-dinh-cu-o-nuoc-ngoai-do-thu-tuong-chinh-phu-ban-hanh.html
Điều 5. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành chức năng có trách nhiệm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về các lĩnh vực khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và Luật Đầu tư trong nước; có biện pháp xử lý các hoạt động đầu tư "không hợp pháp" dưới danh nghĩa người Việt Nam ở trong nước, theo hướng "hợp pháp hoá" các hoạt động đầu tư đã có để quản lý theo đúng pháp luật hiện hành.
Một trong hai nhân vật tố cáo TVB tội hối lộ sau này, vào tháng Bảy, 2002, làm một “Đơn xin minh oan cho ông Trịnh Vĩnh Bình,” trong đó có đoạn, do biết có xung đột giữa mình và Trịnh Vĩnh Bình, “Ngô Chí Đan và ông Nguyễn Đức Trịnh đã lợi dụng cơ hội này xúi tôi vu cáo ông Trịnh Vĩnh Bình, mục đích để tịch thu tài sản.”