Akula - Kẻ có thể phá hủy một phần Châu Âu
(VnMedia) - Tàu ngầm hạt nhân chiến lược lớp Akula thuộc Đề án 971 do Cục thiết kế Rubin, Nga nghiên cứu phát triển từ những năm 1980. Đây được xem là loại tàu ngầm hạt nhân lớn nhất thế giới từng được chế tạo.
Tàu ngầm hạt nhân chiến lược Akula có lượng giãn nước khi nổi khoảng 24.500 tấn và khi lặn là 48.000 tấn. Con số này lớn hơn gấp đôi tàu ngầm hạt nhân lớn nhất Hải quân Mỹ lớp Ohio.
Akula được biết tới là một trong những tàu ngầm chạy êm và có khả năng tấn công mạnh nhất trong số các tàu ngầm nguyên tử tấn công của Hải quân Nga nói riêng, hay trên thế giới nói chung.
Tàu ngầm lớp Akula có thiết kế đa thân, với 5 thân nằm bên trong thân chính. Tàu có tất cả 19 khoang bao gồm một khoang module được gia cố chắc chắn chứa phòng điều khiển chính và khoang thiết bị điện tử nằm ở phía trên các thân tàu, phía sau các ống phóng tên lửa.
Thiết kế của tàu cho phép nó di chuyển dưới băng và phá băng. Tàu có thể lặn sâu tối đa 400m, tốc độ đạt 12 hải lý khi nổi và 25 hải lý khi lặn. Tàu ngầm có thể hoạt động liên tục 180 ngày đêm dưới biển. Tàu biên chế 160 thành viên thủy thủ đoàn. Tàu có chiều dài 172,8 mét và chiều rộng 23,3 mét.
Akula được trang bị 20 tên lửa đạn đạo, mỗi tên lửa mang 10 đầu đạn hạt nhân. Số vũ khí này có thể tấn công đồng thời 200 mục tiêu lớn trên mặt đất với tổng diện tích 7.000km²(diện tích Moscow là 1.000km²), ở khoảng cách 10.000km. Điều này có nghĩa là tàu ngầm Akula có thể bất ngờ tiêu diệt hàng chục thành phố kiểu như New York; thổi tung một đất nước nhỏ ở châu Âu hay san bằng một nửa đất nước Afghanistan. Akula còn mạnh hơn 10 trung đoàn Topol.
Tàu được trang bị 2 lò phản ứng hạt nhân ОК-650ВВ (OK-650VV) công suất 190 MW và 2 tua-bin công suất 45.000 – 50.000 mã lực cùng 2 động cơ Diesel АСДГ (ASDG) công suất 800 kW.
Ngoài ra, tàu ngầm này còn được trang bị thiết bị phát hiện tàu ngầm. Đây là thiết bị tìm kiếm và tấn công chủ động/bị động được treo trên thân tàu phía dưới khoang chứa ngư lôi. Tàu được gắn radar phát hiện mục tiêu nổi băng I/J.Các thiết bị đối phó gồm ESM (thiết bị hỗ trợ điện tử), hệ thống cảnh báo radar và hệ thống định vị.
Akula còn có cả hệ thống thông tin liên lạc radio và vệ tinh. Tàu được trang bị 2 phao anten nổi để thu tín hiệu radio, dữ liệu chỉ thị mục tiêu và tín hiệu dẫn đường vệ tinh, khi hoạt động sâu và dưới các lớp băng.
Nga "phù phép" để tàu ngầm Akula có thể tàng hình
Dân Việt - Sau khi được cải tiến, các tàu ngầm lớp Akula thế hệ thứ 3 sẽ có khả năng tàng hình với cơ chế điện tử vượt trội, để trở thành nòng cốt trong lực lượng tàu ngầm hạt nhân tấn công của Nga.
Ông Vladimir Dorofeyev, lãnh đạo Cục thiết kế Malakhit của Nga, cho biết nước này sẽ cải tiến các tàu ngầm Đề án 971 Akula thế hệ thứ 3.
"Bộ Quốc phòng đã quyết định kiểm tra và bảo dưỡng toàn bộ các tàu ngầm tấn công thế hệ thứ 3" - ông Dorofeyev nói trong một cuộc phỏng vấn với
RIA Novosti, "Tàu ngầm thuộc Đề án 971 đầu tiên hiện đã được đưa vào quá trình cải tiến tại cơ sở chế tạo Zvezdochka".
Tàu ngầm Akula.
Ông Dorofeyev cho biết, quá trình đại tu chiếc tàu ngầm lớp Akula đầu tiên sẽ phải mất 2 năm hoàn thành và sẽ được đưa vào sử dụng trong Hải quân Nga sau khi được thử nghiệm. Tuy nhiên, ông không công bố cụ thể tên các loại tàu và tổng số tàu ngầm được đại tu lần này.
Theo thông tin từ giới chức Nga, sau khi cải tiến, những chiếc tàu ngầm này sẽ có khả năng tàng hình với cơ chế điện tử vượt trội. Cùng với tàu ngầm hạt nhân Đề án 885 lớp Yasen, chúng sẽ trở thành nòng cốt trong lực lượng tàu ngầm hạt nhân tấn công của Nga.
Đề án 971 Akula thế hệ thứ 3 được Cục thiết kế Malakhit phát triển trong giai đoạn 1970 - 1980 để thay thế cho tàu ngầm lớp Barracuda vỏ titan.
Tất cả có khoảng 15 chiếc được chế tạo tại cơ sở Amur ở Komsomolsk-on-Amur và cơ sở Sevmash ở Severodvinsk từ năm 1984 tới 2001. Hiện nay, không rõ bao nhiêu chiếc còn đang được sử dụng.
Tàu ngầm lớp Akula có thể mang tới 12 tên lửa hành trình mang đầu đạn hạt nhân có tầm bắn khoảng 3.000 km và một số tên lửa đối hạm cùng ngư lôi.
“Cá mập” Akula: Kẻ săn mồi khổng lồ của Hải quân Nga
(Soha.vn) - Akula là một trong những lớp tàu ngầm hạt nhân tấn công thuộc vào hàng đắt đỏ và khổng lồ của thế giới.
Kích thước khổng lồ, hệ thống vũ khí tối tân hiện đại giúp nó có thể 'thổi bay' cả một hải đoàn (hải đoàn là một đội hình quân sự của Hải quân, nhiều hải đoàn kết hợp tạo thành một hạm đội bao gồm từ 3 đến 4 tàu chiến hoặc tàu ngầm).
TK-208 “Dmitry Donskoy” đang tuần tra trên biển Barents. Ảnh AP
Akula được nghiên cứu và phát triển từ đầu những năm 70 của thế kỷ XX, với tên ban đầu là Projeckt 941 và được NATO định danh là Typhoon. Nó là thế hệ tiếp nối của tàu ngầm hạt nhân tấn công lớp Delta. Trong tiếng Nga nó mang cái tên “Акула” có nghĩa là "cá mập". Và quả đúng như cái tên, Akula là một con quái vật chính hiệu của các hạm đội Nga, với trọng tải choán nước lên đến 48.000 tấn khi lặn và 24.500 khi nổi, chiều dài lên đến 175m, còn lớn hơn cả một sân bóng đá (120m).
Typhoon được thiết kế để tham gia các cuộc chiến hạt nhân với khả năng lặn sâu bên dưới mặt nước trong 180 ngày mà không cần nổi lên! Nó là một trong tàu ngầm hạt nhân tấn công lớn nhất trong lịch sử hải quân Nga và thế giới.
Typhoon ra đời trong giai đoạn đầy sóng gió của Liên bang Xô Viết và của cả thế giới, do những căng thẳng liên tiếp và ngày một phức tạp của 2 siêu cường Xô Viết - Hoa Kỳ nhằm tranh giành ảnh hưởng trên phạm vi toàn thế giới. Cụ thể, đó là cuộc khủng hoảng tên lửa hạt nhân ở Cuba khi Nga ồ ạt đưa các tên lửa đạn đạo đến Cuba và chĩa thẳng về phía Hoa Kỳ, hay đó là vụ tai nạn của chiếc Boeing 747 mang số hiệu KAL-007 của hãng Korean Ariline đã đẩy 2 thế lực này đến bên bờ vực một cuộc chiến hạt nhân.
Typhoon được giới lãnh đạo Nga và cụ thể là Bí thư thứ nhất **** cộng sản Liên bang Soviet là Leonid Brezhnev. Không rõ cái tên Typhoon xuất phát từ đâu, nhưng theo một số nguồn tin đáng tin cậy từ CIA thì nó xuất phát từ bài diễn thuyết của Leonid Brezhnev vào năm 1972 khi đề án 941 đang trong giai đoạn phát triển. Nguyên văn của ông như sau:
“
Người Mỹ có máy bay do thám U2, SR-71 “Black Bird” để thăm dò chúng ta, cùng với đó là những hành động làm căng thẳng thêm tình hình cả 2 bên. Thế nhưng, họ chỉ dám mang chúng đến bên lãnh thổ chúng ta để nhìn ngó chúng ta, còn khi bị truy đuổi lại bỏ chạy thục mạng đến 1 viện đạn còn không. Nhưng nếu người Mỹ và NATO tiếp tục khiêu khích chúng ta bằng những hành động tương tự như vậy tôi xin hứa với các đồng chí họ sẽ phải hứng chịu một cơn cuồng phong từ chúng ta”. Có lẽ bài phát bài biểu này đề cập đến "cuồng phong" nên về sau theo định danh của NATO, Akula được gọi là Typhoon.
“Cá mập” Akula của Hải quân Nga
Xét trên thực tế, những gì mà Bí thư thứ nhất Leonid Brezhnev nói hoàn toàn là sự thật, Akula được biên chế khá nhiều trong Hạm đôi phương Bắc (4/6 chiếc được biên chế cho hạm đội này). Akula chỉ cần ở ngay cảng nhà Severomosk là có thể bắn được tên lửa vào bờ Tây của Hoa Kỳ, và nếu tất cả tên lửa cùng được phóng, đó sẽ là thảm họa thực sự với người dân bờ Tây của nước này.
Typhoon được phát triển từ đề án 941 của Cục thiết kế Rubin, được coi như lớp tàu ngầm đầu tiên chạy êm nhất từ trước đến nay và có khả năng cơ động đáng kinh ngạc. Bên cạnh khả năng phóng tên lửa đạn đạo, nó còn mang theo cả ngư lôi để tiêu diệt các tàu ngầm khác, gồm có 6 ống phóng với 20 phương tiện phóng (phương tiện phóng có thể là các máy phóng hoặc các thiết bị tương tự). Gồm có 2 loại ống phóng trên Typhoon:
+4 ống phóng có khả năng phóng 2 loại ngư lôi chính là RPK-2 (SS-N-15 “Viyuga”) hoặc ngư lôi Type 53. Hai loại ngư lôi này chủ yếu là để tấn công các tàu khu trục, tàu hộ vệ tên lửa, tàu ngầm cỡ nhỏ và các khinh hạm.
+2 ống phóng có khả năng phóng loại RPK-7 (SS-N-16 “Vodopa”) dùng để tấn công các tàu ngầm cỡ lớn và tàu sân bay.
TK-17 “Arkhangelsk” đang tuần tra ở khu vực Bắc Cực.
Typhoon với thiết kế khá lớn cho phép mang được 20 tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBM) R-39 (được NATO định danh là SS-N-20 “Rif”) với tầm bắn 8.300km, có thể mang được đầu đạn nổ thông thường hoặc đầu đạn hạt nhân 500 kiloton. Bên cạnh đó R-39 còn có khả năng mang được đầu đạn hạt nhân tấn công đa mục tiêu (MIRV) với khả năng mang được 4 đến 5 đầu đạn hạt nhân 200 kiloton.
Typhoon là một trong những tàu ngầm có thiết kế độc đáo nhất từ trước đến nay, với lớp vỏ chịu áp suất được thiết kế khá phức tạp, cho phép nó lặn sâu được 400m. Cấu trúc đan chéo nhau của các thanh đỡ trong thiết kế trải dài của Typhoon giúp dàn trải áp lực lên đều thân tàu. Đây là một khác biệt rất lớn so với tàu ngầm lớp Delta. Delta có thiết kế dàn trải áp lực bằng các thanh dầm chống chịu song song với nhau, tạo ra một áp lức tác động lên thân tàu nhỏ hơn vùng cao nhất của tàu (khoang nhô lên của Delta). Chính điều này đã giúp cho Typhoon có khả năng sống sót cao hơn khi bị ngư lôi làm thủng vỏ tàu, giúp thủy thủ đoàn có thể an toàn trong các khoang kín nước, với khả năng ngập nước là vô cùng thấp, từ 5% đến 7% theo tính toán của các nhà khoa học Nga.
TK-208 “Dmitry Donskoy” tại cảng nhà Severomosk.
Đã có 6 chiếc Typhoon được xuất xưởng và biên chế cho các hạm đội, mà chủ yếu là Hạm đội phương Bắc với nhiệm vụ bảo vệ phía Bắc nước Nga. Ban đầu bộ tư lệnh Hải quân chỉ định đánh số cho các tàu với tiếp đầu ngữ "TK". Về sau, với sự hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính từ một số tập đoàn vũ khí và tập đoàn luyện thép, cùng sự quyên góp từ những thành phố, nó đã mang tên các tập đoàn này và tên các thành phố như TK-17 “Arkhangelsk” hay TK-208 “Dmitry Donskoy”.
TK-208 “Dmitry Donskoy” là chiếc duy nhất còn phục vụ trong hạm đội phương Bắc với vai trò thử nghiệm các loại ICBM mới. “Dmitry Donskoy” là tên của đại công tước Moscow, là một trong những người uy quyền và nổi tiếng là thanh liêm, chính trực. TK-208 đã thử nghiệm thành công ICBM mới nhất của Nga phóng từ tàu ngầm là Bulava (được NATO định danh là SS-NX-22). Mới đây Nga đang có kế hoạch tái vũ trang và nâng cấp cho 2 chiếc khác là TK-17 “Arkhangelsk” và TK-20 “Severtal”.
Hiện tại, Borei - lớp tàu ngầm hạt nhất tấn công được đánh giá mạnh nhất hiện nay đang thay thế dần các tàu lớp Typhoon từ năm 2012.
VS
'Kẻ hủy diệt' êm ái nhất thế giới
Tàu ngầm nguyên tử đa nhiệm lớp Los Angeles của Mỹ được đánh giá là chạy êm nhất thế giới. Đã có 62 chiếc tàu ngầm nguyên tử lớp Los Angeles được đóng và hoạt động trên các đại dương.
Vũ khí đầy mình
Chiếc đầu tiên được đưa vào biên chế trang bị vào ngày 13.10.1976. Chiếc cuối cùng trong lớp tàu đa nhiệm này USS “Cheyennе” được đưa vào biên chế — 13.09.1996 . Tàu được đóng bởi các tập đoàn đóng tàu Newport News Shipbuilding và General Dynamics Electric Boat Division.
Chín chiếc tàu ngầm lớp Los Angeles đã tham gia tác chiến trong chiến tranh tại vùng nước vịnh Persic năm 1991, trong cuộc chiến này các tên lửa Tomahawk đã được phóng từ hai tàu ngầm.
Tàu ngầm lớp Los Angeles là tàu ngầm đa nhiệm, trong đó nhiệm vụ trọng tâm của tàu ngầm là chiến đấu chống ngầm, tiến hành các hoạt động trinh sát, đổ bộ lực lượng biệt kích đa nhiệm, tấn công các mục tiêu trên mặt nước và trên bờ biển, rải thủy lôi và tiến hành các nhiệm vụ cứu hộ cứu nạn trên biển.
Tên dự án: 688, 688i (improved 668) thuộc lớp tàu theo NATO: Los Angeles. Tốc độ trên mặt nước: Đến 17 knots. Tốc độ lặn ngầm : 30 knots, 35 knots cực đại trong thời gian ngắn. Độ sâu lặn ngầm : 250—280 m. Độ sâu giới hạn: 450 m. Thủy thủ đoàn: 14 sĩ quan và 127 thủy thủ.
Cấu trúc thiết kế: Tàu được thiết kế theo phương pháp 1 vỏ, bao gồm một thân ống hình trụ (dài hơn 50% vỏ tàu) phần mũi tàu và đuôi tàu được thiết kế dang vỏ cầu parabol, được lắp các bồn nước dằn tàu, số lượng bồn nước dằn tàu có thể thay thế được là 4 bồn. Lượng giãn nước trên mặt nước : 6082-6330 tấn. Lượng giãn nước khi lặn: 6927-7177 tấn. Chiều dài thân tàu: 109,7 m. Chiều rộng thân tàu : 10,1 m. Mức ngấn nước khi nổi: 9,4 m
Vũ khí trang bị: Là tàu ngầm đa nhiệm, thực hiện những sứ mệnh can thiệp vũ trang sau chiến tranh lạnh, tàu được trang bị chủ yếu là vũ khí thông thường có khả năng tấn công ngầm, mặt nước và bờ biển, do đó là những tàu đầu tiên được trang bị hệ thống điều khiển tên lửa tấn công mục tiêu mặt nước và mặt đất ASBU được định danh thời điểm đó là AN/BSY-1.
Tên lửa hành trình là vũ khí chủ yếu của tàu ngầm Los Angeles. Những tàu ngầm lớp Los Angeles được đóng từ năm 1982 được lắp đặt 12 ống phóng tên lửa Tomahawk thẳng đứng, đồng thời lắp đặt hệ thống điều hành tác chiến CCS Mark 2.
Hơn 40 năm vẫn chạy tốt
Tên lửa Tomahawk được trang bị cho tàu ngầm nhằm mục đích tiêu diệt các mục tiêu trên mặt đất và mặt nước. Đến năm 1994, ¾ số tàu ngầm Los Angeles được trang bị Tomahawk. Các tàu ngầm vẫn duy trì khả năng phóng tên lửa qua ống phóng ngư lôi. Các tên lửa Tomahawk tấn công mục tiêu trên bờ có tầm bắn lên đến 2.500 km (phiên bản mang đầu đạn hạt nhân), 1600 km mang đầu đạn nổ thường. Hê thống TAINS (Tercom Aided Inertial Navigation System — Phiên bản bán tự động dẫn đường quán tính của hệ thống TERCOM) điều khiển tên lửa bay đến mục tiêu với vận tốc cận âm và độ cao so với mặt đất từ 20 đến 100 m. Tên lửa chống tàu Tomahawk được lắp đặt hệ thống điều khiển dẫn đường quán tính, được trang bị đầu dẫn radar chủ động, tầm bắn đến 450 km.
Tàu ngầm lớp Los Angeles được trang bị tên lửa chống tàu "Harpoon". Các tên lửa chống tàu Harpoon nâng cấp dành cho tàu ngầm được lắp đặt đầu đạn tự dẫn radar chủ động và khối nổ mạnh 225 kg. Tầm bắn của tên lửa chống tàu Harpoon với tốc độ bay của tên lửa cận âm là 70 km.
Bắt đầu từ tàu ngầm nguyên tử lớp Los Angeles SSN-751 San-Juan, các tàu đều được trang bị 12 ống phóng tên lửa thẳng đứng, được sử dụng để phóng tên lửa Harpoon và Tomahawk (chỉ dành cho cấp tàu 688i)
Tàu được lắp đặt 4 ống phòng tên lửa 533-mm được sử dụng để phóng ngư lôi Mk.46, Mk.48, và tên lửa chống tàu Harpoon (6-8 tên lửa).
Trang thiết bị tác chiến điện tử: Tàu ngầm được trang bị hệ thống tìm kiếm BRD-7, Hệ thống phát hiện, định danh và phân loại mục tiêu trên sóng radio dưới nước WLR-1H và WLR-8(v)2, hệ thống phát hiện và định danh, chủng loại mục tiêu đài phát radar WLR-10. Hiện nay hải quân Mỹ đang tiến hành thử nghiệm hệ thống phát hiện đài sonar và tác chiến điện tử, gây nhiễu, tín hiệu giả AN/WLY-1 để thay thế cho thiết bị WLR-9A/12. Tàu ngầm được trang bị ống phóng ngư lôi mồi «Mark 2».
Tàu ngầm lớp "Los Angeles" được trang bị một số lượng lớn các thiết bị dò tìm sonar và các cảm biến âm thụ động để trinh sát phát hiện và tìm mục tiêu bằng thủy âm thanh: ăng-ten kéo TV-23/29 và an ten thu sonar thủy âm bên sườn tàu tần số thấp thụ động BQG 5D / E, sonar cao tần siêu âm hoạt động hoạt động trong tầm ngắn Ametek BQS 15 được sử dụng để phát hiện các tảng băng trôi ngầm, sonar siêu âm cao tần MIDAS (Mine and Ice Detection Avoidance System - hệ thống tìm kiếm, phát hiện và tránh các tảng băng đá và thủy lôi), sonar chế độ chủ động tìm kiếm tàu ngầm Raytheon SADS-TG.
Tàu ngầm lớp "Los Angeles" được trang bị lò phản ứng nước nhẹ áp lực GE PWR S6G, 26 MW, được phát triển bởi tập đoàn General Electric. Tàu có một động cơ phụ trợ công suất 242 kW. Thời gian hoạt động của các thanh nhiên liệu trong lò phản ứng là 13 năm - vượt xa thời gian hoạt động của các thanh nhiên liệu trong các lò phản ứng loại khác khoảng 6-7 năm.
Bắt đầu từ tàu ngầm SSN-768, Los Angeles được lắp chân vịt có độ ồn thấp hơn và loại bỏ các bánh lái ngang. Vào năm 2000—2003, 4 chiếc tàu ngầm dược lắp containers Dry Deck Shelter để vận chuyển các lực lượng biệt kích, các đội biệt kích người nhái, các thiết bị dưới nước, các thiết bị lặn ngầm.
Thời gian phục vụ của tàu ngầm hạt nhân khoảng 30 năm, nhưng có thể kéo dài đến 42 năm cùng với một lần nạp lại nhiên liệu hạt nhân.
18 chiếc tàu lớp SSN-688 có thể được nạp lại nhiên liệu sau một nửa thời gian công tác, sẽ trở thành ứng viên tốt để kéo dài thời gian phục vụ, do theo tính toán nếu thay đổi các thanh nhiêu liệu, tàu có thể hoạt động trong biên chế 30 năm, sau đó tàu có 2 năm tại xưởng để bảo dưỡng, sửa chữa lớn và tiếp tục phục vụ thêm 10 năm nữa, như vậy tổng thời gian hoạt của lớp tàu Los Angeles sẽ là 42 năm.