( tiếp )
1.Tính không chìm của tàu ngầm
Tính (hoặc khả năng) không chìm (Непотопляемость) - một trong những yếu tố chính cho sự sinh tồn. Đối với các tàu ngầm, khi tính toán các đặc trưng kết cấu và nhiệm vụ của chúng, người ta đưa ra khái niệm về tính không chìm trong tư thế nổi và tư thế ngầm.
Tính không chìm tư thế nổi thì tất cả các tàu ngầm đều có, tuy nhiên, mức độ đảm bảo có khác nhau. Rõ ràng trong hai tàu ngầm, tàu sở hữu tính không chìm tốt nhất là tàu chịu được số lượng khoang và sitec ngập nước lớn hơn, nhưng với các thiệt hại tương tự, và nếu bị thiệt hại tương tự thì sự thay đổi mớn nước (осадка) là nhỏ hơn và sự mất ổn định ít hơn.
Cân bằng tĩnh (Посадка) là trạng thái cân bằng của tàu thủy đối với mặt thoáng tĩnh của nước và đặc trưng bởi các tham số góc nghiêng (mặt cắt ngang) θ (têta) và góc nghiêng chênh mớn (mặt cắt dọc) ψ (psi).
Những mô tả nói trên xác định tính chất các yêu cầu chung về tính không chìm ở tư thế nổi, mà thường được trình bày như sau: trong trường hợp ngập một số nhất định các khoang và sitec dằn chủ, các đặc điểm tư thế cân bằng tĩnh (посадка - gồm mớn ngập nước, độ nghiêng ngang, đọ chênh mớn dọc - осадка, крен, дифферент) và ổn định của tàu ngầm bị hư hỏng không được vượt quá giới hạn nào đó.
Nói cách khác, góc nghiêng ngang têta và góc chênh mớn dọc psi của tàu ngầm không được vượt quá những giá trị nhất định, tàu ngầm phải duy trì được dự trữ nổi (запас плавучести), cũng như độ ổn định theo phương mặt cắt ngang và mặt cắt dọc không thấp hơn những giá trị nhất định. Điều này đạt được bởi các biện pháp kết cấu, biện pháp tổ chức-kỹ thuật và hành động của đội ngũ thành viên trong cuộc đấu tranh duy trì tính không chìm.
Nếu ở tư thế nổi, tính không chìm của tàu ngầm được bảo đảm bởi độ dự trữ nổi, thì trong tư thế ngầm dưới mặt nước dự trữ nổi được sử dụng hết bởi việc tiếp nhận nước vào trong sitec dằn chủ và đấu tranh cho tính không chìm mang một đặc điểm hoàn toàn khác.
(hết mục 1)
2.Tính không chìm tư thế nổi và ổn định dọc của tàu ngầm
Khi tàu ngầm bị các hư hỏng liên quan đến việc nước tràn vào bên trong vỏ bền của tàu trong tư thế nổi, mối nguy hiểm lớn nhất là sự mất ổn định theo phương trục dọc của tàu ngầm. Mặc dù thực tế là trong tư thế nổi sự ổn định theo phương dọc lớn hơn một trăm lần so với phương ngang, nguy cơ đầu tiên phát sinh chính là nguy cơ mất ổn định theo phương dọc.
Khi gặp các hư hỏng nặng, tàu ngầm sẽ mất ổn định theo chiều dọc trước khi khi mất tính nổi. Sự mất sức nổi, theo quy luật, chỉ là kết quả của sự mất ổn định theo chiều dọc.
Cả ba tàu ngầm hạt nhân hy sinh trong thời bình của chúng ta đã bị chìm do sự mất ổn định theo chiều dọc:
Ngày 08 tháng 4 năm 1970 vụ cháy trên tàu ngầm K-8 (đề án 627) gây ra sự phá hủy tính kín của vỏ bền và các khoang, ngày 12 tháng 04 cùng năm K-8 bị mất ổn định theo chiều dọc trong tư thế nổi và chìm;
Ngày 03 tháng 10 năm 1986 tàu ngầm K-219 (đề án 667AU) bị chìm do mất dự trữ nổi và mất ổn định theo chiều dọc;
Ngày 07 tháng 4 năm 1986 tàu ngầm K-278 "Komsomolets" (đề án 685) bị chìm do mất dự trữ nổi và mất ổn định theo chiều dọc.
Điều đó được giải thích bởi khi nước tràn vào trong vỏ bền thì:
1) mớn nước của tàu ngầm tăng lên, do đó, dự trữ nổi giảm xuống;
2) phát sinh chênh mớn dọc, kết quả là giảm nhanh diện tích đường mớn nước hiện tại và mô men quán tính đối với trục ngang của nó (mô men đối trọng cân bằng theo chiều dọc không thể chống lại mô men chênh mớn dọc, hình thành do nước tràn vào các khoang và sitec dằn chính ở đầu mút tàu trong tình trạng khẩn cấp).
Mối đe dọa mất ổn định ngang là ít có khả năng xảy ra hơn, vì sự xuất hiện của mô men gây nghiêng ngang lớn trên tàu ngầm chỉ có thể có khi mà gần như tất cả các sitec dằn chính từ một bên mạn đã đầy nước, mà việc giảm mô men quán tính của diện tích đường mớn nước hiện có đối với trục dọc, đặc trưng cho sự ổn định ngang là tương đối nhỏ.
Khi vỏ tàu ngầm bị hư hỏng, sự ổn định theo chiều dọc của nó giảm cả do dự trữ sức nổi giảm và do phát sinh độ chênh mớn.
Khi tàu ngầm có dự trữ nổi thấp, mô men cân bằng dọc của nó sẽ có giá trị thấp.
Hình 1: Đặc điểm biến đổi đồ thị ổn định dọc của tàu ngầm không có van kingston khi tăng độ choán nước.