Bàn về chính tả tiếng Việt: dùng i & y tỷ hay tỉ? ký hay kí? sĩ hay sỹ? quỷ hay quỉ?
Tiếng Việt trong mấy chục năm vừa rồi thay đổi, phát triển khá nhanh mà chính tả ngữ pháp, tức luật lệ quy tắc sử dụng lại không theo kịp. Cái này Viện Ngôn ngữ học - bộ Giáo dục có phần trách nhiệm lớn. Nếu các giáo viên dạy Tiếng Việt cấp I, II, sách vở báo chí còn viết sai chính tả, thì còn hy vọng gì chúng ta viết đúng nữa?
Các vấn đề trong chính tả Tiếng Việt có khá nhiều, hôm nay tại hạ xin nói chuyện sử dụng i và y:
Ngày xưa, thống nhất tất cả đều dùng "i" (hi vọng, hi sinh, qui hoạch, quí tử, mĩ miều, thư kí, chữ kí, kì lạ, sĩ tử, kĩ thuật, cụ kị, kị binh....)
Sau một thời gian, nhận ra có nhiều từ đồng âm khác nghĩa, chính tả đã phân biệt cách dùng i và y theo phương hướng (
luật không ràng buộc) như sau:
- những nghĩa nào mang
tính chất trang trọng, đẹp đẽ, thể hiện sự tôn kính thì dùng
y thay cho
i
-
danh từ riêng, tên riêng dùng
y
Còn lại, đúng chính tả tiếng Việt vẫn là dùng i.
Chẳng hạn với phụ âm t, chia ra như sau:
ti: 1. thấp hèn (~ tiện), 2. nhỏ (li ~), 3. đầu vú
ty: 1. sở, cơ quan, (công ~, ~ cảnh sát) 2. chức vụ (quan hữu ty)
tì: 1 lỗi (~ vết), 2. ấn hoặc dựa (~ người, ~ tay lên trán), 3. tì tì: ăn nhanh, vội vàng)
tỳ: 1 đàn tỳ bà 2. (Đông y) 1 cơ quan trong cơ thể
tí: 1. ít, ngắn, bé (chờ ~) 2. đầu vú
Tý: con giáp đầu tiên (chuột)
tỉ: 1 giả sử (~ dụ, ~ như) 2. say bí tỉ: uống rượu, ngủ quên trời đất 3. nghìn triệu (láy ti ~: rất nhiều) 4. tỉ mỉ: cẩn thận
tỷ: 1. chị, phụ nữ già hơn tuổi 2. ngọc tỷ: con ấn của vua
tĩ (như ~ gà, cận lòi ~)
tị: 1. lánh xa (~ nạn) 2. không hài lòng (~ nạnh, ghen ~, ~ hiềm) 3. láy tắc tị 4. như tí(1)
Tỵ: con giáp thứ sáu (rắn)
Những phụ âm mà sau đấy chỉ dùng
i là:
b, ch, d, đ, kh, n, ngh, nh, ph, r, s*, th*, tr, v*, x
nếu là tên riêng có thể dùng y, chẳng hạn Văn Sỹ, Thy, Vỹ
ví dụ: bí ngô, di tản, ni cô, nhi đồng nhí nhảnh, nghi hoặc, phi thường, chim ri rủ rỉ, si ngốc, sĩ diện, trí tuệ, vĩ cầm, dương xỉ
5 phụ âm đang mà cách sử dụng y thay cho i đang thay đổi rất nhanh: h, k, qu, l và m.
Có thể nói việc chuộng dùng y cho các từ "đẹp" như "hy" (hy sinh, hy vọng), "hỷ"(song hỷ), "kỳ" (cầm kỳ thi họa, quốc kỳ, Hoa Kỳ), "kỹ" (kỹ nghệ, kỹ thuật) "lý" "mỹ" "quý" đã ảnh hưởng đến thói quen các từ còn lại,
dẫn đến các từ nghĩa không có gì trang trọng, đẹp đẽ cũng thành đuôi y cả.
Chẳng hạn chữ "kì" xưa vốn có các nghĩa 1. lạ (hiếu kì, kì lạ, kì binh) 2. đợt (học ~, nhiệm ~) 3. cờ 4. tắm rửa (~ cọ) Nghĩa 1 và 3 có nhiều từ trang trọng đẹp đẽ (kỳ lân, kỳ vĩ, quốc kỳ, Hoa Kỳ), bây giờ mọi người cứ âm kì là viết thành kỳ cả. chữ kỳ thay thế dần chữ kì cho cả 4 nghĩa.
kí cũng đang dần dần chết mà thay bằng ký (chữ ký, thư ký, bút ký, ký thác, ký gửi, ký sinh). Tương lai không xa, sẽ chỉ còn Đoàn Trần Nghiệp là giữ được biệt danh "Kí Con" của mình.
kỉ, kĩ, kị cũng vì thế mà đang bị thay bằng kỷ, kỹ, kỵ
qu cũng như k, y đang thay thế dần i: bây giờ người ta viết quy hoạch, nội quy, quỳ hoa bảo điển, quý tử, quý một, quỷ quyệt, thủ quỹ, quỵ lụy... chứ không i nữa.
l cũng bị y hóa mạnh không kém, có lẽ từ chữ "lý" chăng? mà các âm
li sắp thành ly cả 1. đơn vị đo lường nhỏ (vàng bạc)=1/1000 lạng 2. xa (chia ly, ly khai, ly tán) 3. trong suốt (ngọc lưu ly, mê ly) 4. cáo (hồ ly) 5. cốc nhỏ (ly rượu, ly nước). Vẫn còn sót lại những từ mà chính tả xưa vẫn được giữ lại: cân tiểu li, chi li, lâm li bi đát.
âm lí thì khỏi nói, nay đã chuyển sang dùng y cả: vật lý, lý thuyết, họ Lý, quản lý, lý lẽ
lị cũng dần bị thay bằng lỵ (tỉnh lỵ, huyện lỵ). Một ngoại lệ là từ "xá lị," có nghĩa rất trang trọng lại tồn tại không thay đổi (nhờ các vị sư sãi không thích sự thay đổi chăng?)
lì vì nghĩa xấu nên có bị ảnh hưởng mạnh nhưng xu hướng vẫn là theo chính tả (ù lì, lì lợm, phẳng lì).
Nếu như với k, qu, l việc dùng y đang thắng thế thì với h và m có thể nói là ngang ngửa giữa luật xưa và thói quen ngày nay:
hi bây giờ chỉ còn dùng cho kiểu cười hi hi
Hy Lạp, Phục Hy, Chu Hy, hy sinh đều chuyển sang dùng y (tên riêng, nghĩa đẹp). Hi với nghĩa "mong ước" cũng đẹp, nên cũng chuyển sang thành hy (hy vọng). Hi với nghĩa ít, hiếm cũng bị đang bị quy thành hy (cổ lai hy - có sắc thái kính trọng ở đây), trong khi đúng chính tả vẫn phải là hi (như trong hi hữu).
hỉ là từ đang trong quá trình phân hóa chưa ngã ngũ. Hỉ (nghĩa vui mừng) thì đã chuyển thành hỷ trong "song hỷ," nhưng "hoan hỉ" thì vẫn trụ được so với "hoan hỷ." Nghĩa khác vẫn dùng là hỉ (hỉ mũi).
hì (cười) vẫn dùng i
hí 1. chơi đùa (du hí, hí kịch) 2. ngựa kêu vẫn dùng i, dù việc dùng hý cũng khá phổ biến.
với m có mĩ bị đổi thành mỹ hoàn toàn (mỹ miều, thẩm mỹ, mỹ thuật, mỹ viện, nước Mỹ v.v...). Ảnh hưởng của việc đổi i thành y của chữ mỹ lớn tới mức Mị Châu/Mị Nương nay cũng thành Mỵ Châu và Mỵ Nương (để thể hiện sự kính trọng?). Có lẽ xu hướng này là một cách để phân biệt với chữ mị nghĩa xấu trong mụ mị, mộng mị, mị dân... Câu hỏi đặt ngược lại là: vì sao vợ A Phủ vẫn chưa có được cái đặc ân đó ?( Vì học sinh phải viết theo bản gốc truyện trong sách giáo khoa, hay vị Mị không đáng trân trọng lắm???)
âm mì cũng bị ảnh hưởng mạnh (bánh mì, mì tôm), trong khi âm mi, mí là giữ được theo chính tả, trừ My có được dùng cho tên riêng.
Tóm lại, xu hướng dùng y thay cho i bắt đầu từ nhu cầu phân biệt các từ đồng âm, nhưng do không có sự hướng dẫn, làm luật của bộ phận quản lý (bộ giáo dục, viện ngôn ngữ, hay nhà nước), mà người dân tự phát ra thành một xu hướng thay y cho rất nhiều các từ gốc i khác, dẫn đến hiện tượng nhiều lúc âm đuôi y không có trong từ điển được dùng thông dụng hơn từ đúng chính tả. Đây là một hiện tượng văn hóa ("meme") không tốt cần được quan tâm sửa chữa trong thời gian ngắn nhất.
Hy vọng bài này giúp các anh chị em trong TTV, hiểu thêm về i & y mà giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.