Có đúng “Kíp xe tăng 390 bị đối xử bất công” (3)
Đây là 1 cái kết có hậu, cho loạt bài viết này.
Để biết thêm về tác giả của bài viết về vụ “Kíp xe tăng 390 bị đối xử bất công” - đại tá Nguyễn Khắc Nguyệt – nguyên là chiến sỹ lái xe tăng số 380 của đại đội 4/lữ đoàn thiết giáp 203, xin đăng tải hồ sơ phong tặng ‘Anh hùng quân đội – thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước’. Xin chú ý đoạn nói về xe tăng 380.
BÁO CÁO THÀNH TÍCH
Đề nghị phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND
Thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
- Tên đơn vị: Đại đội 4 thuộc Trung (lữ) đoàn xe tăng 203, Quân đoàn 2.
- Quá trình xây dựng và phát triển:
Đại đội xe tăng 4 được thành lập tháng 11 năm 1971 trong đội hình Tiểu đoàn 4 của Trung đoàn 203 tại Lương Sơn, Hòa Bình. Ngày 05 tháng 12 năm 1971 tiểu đoàn nhận lệnh đi B và đổi phiên hiệu thành Tiểu đoàn 512, vào tập kết tại Tây Quảng Bình (Trang 63- Lữ đoàn 203- Quân đoàn 2 ấn hành 1990).
Tháng 2 năm 1972 đại đội 4 được giao nhiệm vụ hành quân độc lập vào khu vực A Sầu- A Lưới để sẵn sàng làm mũi vu hồi vào thành phố Huế từ phía tây. Tại đây, đại đội được biên chế vào Tiểu đoàn xe tăng 408 trực thuộc quân khu Trị Thiên.
Tháng 7 năm 1974 Tiểu đoàn 408 được quân khu Trị Thiên bàn giao về đội hình Lữ đoàn xe tăng 203, mang phiên hiệu là Tiểu đoàn 4.
Tháng 4 năm 1975, sau khi giải phóng Đà Nẵng, đại đội 4 được điều chuyển về Tiểu đoàn 1 của Lữ đoàn xe tăng 203 để chuẩn bị hành quân vào tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh.
I- NHỮNG THÀNH TÍCH ĐẠT ĐƯỢC
1- Đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu trong tất cả các trận đánh, các chiến dịch mà đơn vị tham gia. Cụ thể:
Vào tháng 2 năm 1972 đã tổ chức cho đơn vị độc lập hành quân với quy mô cấp đại đội vượt gần 500 km đường quân sự làm gấp, có mặt đúng thời gian tại vị trí quy định, đưa được 7/8 xe vào chiến đấu (01 xe bị bom B52 đánh trúng).
Từ tháng 4 năm 1972 đến tháng 4 năm 1973 đại đội đứng chân tại khu vực Ngầm Sông Bồ, đường 12 làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Trong điều kiện cực kỳ khó khăn, gian khổ, ác liệt đơn vị vẫn kiên cường bám trụ, bảo đảm đầu xe và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Ngày 27 tháng Giêng năm 1973 đại đội đã hiệp đồng với bộ binh của Căn cứ 2 thuộc quân khu Trị Thiên đánh chiếm cứ điểm Tà Lương, tiêu diệt 01 đại đội địch, mở rộng vùng giải phóng trước khi Hiệp định Pa- ri có hiệu lực.
Ngày 04 tháng 2 năm 1973 đại đội hiệp đồng với bộ binh đánh địch lấn chiếm ở Tà Lương, tiêu diệt 01 đại đội địch, góp phần giữ vững vùng giải phóng (dòng 12, 13 trang 196- LS binh chủng Thiết giáp- NXBQĐND, 1982).
Từ tháng 4 năm 1973 đến tháng 3 năm 1975 đại đội làm nhiệm vụ Huấn luyện- Sẵn sàng chiến đấu tại khu vực sân bay A Lưới. Trong thời gian này đơn vị đã có nhiều biện pháp sáng tạo trong huấn luyện nâng cao trình độ sử dụng vũ khí trang bị cho cán bộ, chiến sĩ.
Ngày 23 tháng 3 năm 1975 đơn vị được giao nhiệm vụ phối thuộc cho Trung đoàn 3, Sư đoàn bộ binh 324 tiến công cụm cứ điểm Núi Bông- Núi Nghệ. Đây là một cứ điểm có tầm quan trọng đặc biệt, khống chế đường 14 từ Nam Đông về Huế nên địch phòng ngự rất vững chắc, bộ binh đã đánh từ 20 tháng 3 nhưng chưa giải quyết được. Do điều kiện đường xấu, xe bị lầy đại đội đã sử dụng hỏa lực bắn ngắm trực tiếp chi viện cho bộ binh. Sau 3 giờ chiến đấu đã buộc địch phải bỏ chạy. Núi Bông- Núi Nghệ được giải phóng, đường về Huế đã thông (tr 244- sđd).
Ngày 25 tháng 3 năm 1975 đại đội phối thuộc cho Trung đoàn 3, Sư đoàn bộ binh 324 tiến công Tiểu khu La Sơn, Phú Bài và Thành phố Huế. Khi gặp địch phá cầu Phú Bài đã linh hoạt tìm đường vòng tránh, kịp thời đánh chiếm thành Mang Cá, dinh Tỉnh trưởng lúc 13 giờ ngày 25 tháng 3 năm 1975. Trong quá trình đánh địch đã thu giữ 3 xe M48 tại Phú Bài và đưa ngay vào đội hình chiến đấu (tr 245- sđd).
15 giờ ngày 25 tháng 3 năm 1975 đại đội được giao nhiệm vụ truy kích địch ra Cửa Thuận An. Tại đây đơn vị đã gọi hàng và hướng dẫn cho hàng nghìn binh sỹ ngụy về trình diện. Thu giữ 54 xe tăng, xe thiết giáp và hàng trăm phương tiện chiến tranh khác (tr 245 sđd).
Ngày 29 tháng 3 năm 1975 đại đội nhận lệnh tham gia tiến công Đà Nẵng. Khi bị địch phá cầu Thừa Lưu ngăn chặn đơn vị đã sáng tạo, linh hoạt cho xe tăng vượt qua cầu đường sắt để có mặt kịp thời đánh chiếm Thương cảng Bạch Đằng theo quy định (tr 249- sđd).
Từ 30 tháng 3 đến 03 tháng 4 năm 1975 đại đội được giao nhiệm vụ chốt giữ tại Thương cảng Bạch Đằng và Bảo tàng cổ vật Chăm- Pa để bảo đảm an ninh cho thành phố mới giải phóng. Đại đội đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, không để xảy ra bất cứ sự cố nào.
Từ ngày 10 tháng 4 năm 1975 đến 24 tháng 4 năm 1975 tổ chức hành quân gần 1000 km vào Rừng Lá (Bình Thuận) trong điều kiện xe máy, trang bị cũ nát. Tuy vậy, đơn vị đã khắc phục mọi khó khăn, đưa được 100% xe và người vào tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh. Tại đây, đơn vị được giao nhiệm vụ nằm trong đơn vị đi đầu của binh đoàn thọc sâu vào đánh chiếm Sài Gòn.
Ngày 28 tháng 4 năm 1975, xe 380 của đại đội tăng cường cho đại đội 5, tiểu đoàn 2 tiến công căn cứ Nước Trong. Mặc dù xe bị trúng đạn, trưởng xe bị thương, nạp đạn hy sinh vẫn kiên quyết bám trụ giữ vững trận địa cho đến khi có lệnh đưa thương binh về phía sau.
Ngày 29 tháng 4 năm 1975, đại đội được Lữ đoàn giao nhiệm vụ hiệp đồng với bộ binh tiến công căn cứ Nước Trong. Đây là một căn cứ quan trọng án ngữ đường tiến về Sài Gòn nên địch tổ chức phòng ngự rất mạnh, đại đội tăng 5 cùng với bộ binh đã đánh 3 trận mà chưa giải quyết được lại còn bị thiệt hại nặng. Khi nhận nhiệm vụ đại đội đã có nhiều biện pháp như: tích cực trinh sát nắm tình hình, chủ động đề đạt lùi thời gian tiến công với bộ binh, tổ chức đội hình thành hai tuyến để chi viện lẫn nhau, dùng đạn nổ phát quang rừng cao su để phát hiện xe tăng địch… nên đã nhanh chóng hoàn thành nhiệm vụ. Trong trận này đại đội đã tiêu diệt 3 xe M48 và 1 xe M41 cùng nhiều bộ binh địch làm cho chiến đoàn 318 phải núng thế rút chạy, mở đường cho cánh quân phía đông tiến về Sài Gòn (tr 290, 291- sđd).
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, đại đội dẫn đầu đội hình Binh đoàn thọc sâu của Binh đoàn Hương Giang đánh chiếm Sài Gòn. Tại đầu cầu Sài Gòn đại đội đã cùng các xe trong tiểu đoàn tiêu diệt 2 xe M48. Sau khi vượt cầu Sài Gòn đại đội tiếp tục đập tan các ổ đề kháng của địch để tiến về mục tiêu chủ yếu là dinh Độc Lập. Tại cầu Thị Nghè và khu vực Ngã tư Hàng Xanh các xe của đại đội đã bắn cháy 2 xe M41 và 2 xe M113.
Lúc 10 giờ 45 ngày 30 tháng 4 năm 1975, các xe tăng số 843 do đại đội trưởng Bùi Quang Thận chỉ huy và số 390 do chính trị viên Vũ Đăng Toàn chỉ huy đã húc đổ cánh cổng Dinh Độc Lập.
Ngay sau đó, trung úy Bùi Quang Thận- đại đội trưởng đã cắm lá cờ bách chiến, bách thắng của dân tộc lên nóc Dinh Độc Lập, báo hiệu giờ khắc hoàn toàn giải phóng miền Nam (tr 293, 294- sđd).
Tóm lại, trong suốt quá trình tham gia chiến đấu ở chiến trường miền Nam- đại đội xe tăng 4 đã luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, lập được những chiến công xuất sắc, xứng đáng với truyền thống anh hùng của quân đội, của binh chủng Tăng Thiết giáp.
2- Đơn vị luôn chấp hành nghiêm mọi chủ trương, chính sách của **** và Nhà nước. Cán bộ, chiến sĩ có ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm minh và tinh thần đoàn kết tốt. Trong quá trình công tác, chiến đấu ở chiến trường miền Nam đã có 8 chiến sĩ của đại đội hy sinh và hàng chục người bị thương song cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị vẫn giữ vững ý chí chiến đấu, khắc phục mọi khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ.
3- Trong điều kiện hết sức khó khăn, ác liệt ở chiến trường cán bộ chiến sĩ trong đại đội đã luôn chủ động, sáng tạo tìm mọi biện pháp để bảo đảm tốt trang bị kỹ thuật. Là đơn vị trang bị xe cũ nhưng đã tổ chức tốt các đợt hành quân, đưa được 100% trang bị và người vào tham gia chiến đấu.
4- Chi bộ **** của đơn vị thường xuyên đạt trong sạch, vững mạnh, giữ vững vai trò lãnh đạo trong đơn vị. Trong 4 năm đã phát triển được hàng chục **** viên. Các **** viên của chi bộ luôn phát huy được vai trò tiền phong, gương mẫu của mình.
II- CÁC HÌNH THỨC KHEN THƯỞNG ĐÃ ĐƯỢC NHẬN
- Tập thể đại đội: Huân chương Quân công Giải phóng hạng Nhất vì những thành tích đã đạt được trong cuộc Tổng tiến công nổi dậy năm 1975 theo Quyết định số 148 ngày 10 tháng 02 năm 1976 của HĐCV Chính phủ Cách mạng lâm thời CH Miền Nam Việt Nam.
- 100% số xe của đại đội tham gia cuộc Tổng tiến công nổi dậy năm 1975 được tăng Huân chương Quân công và Huân chương Chiến công giải phóng các loại.
- 100% cán bộ, chiến sĩ trong đại đội tham gia cuộc Tổng tiến công nổi dậy năm 1975 được tặng Huân chương Quân công và Huân chương Chiến công giải phóng các loại.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG CHỈ HUY ĐẠI ĐỘI 4
TRUNG ĐOÀN XT 203
ĐẠI ĐỘI TRƯỞNG CHÍNH TRỊ VIÊN
Bùi Quang Thận - Vũ Đăng Toàn
Và đây, lễ Lễ đón danh hiệu AHLLVT của c4, được tổ chức vào dịp kỷ niệm 58 năm ngày thành lập Lữ đoàn 203.