[Funland] Thoát Á Luận ( bản Full ) - Góc nhìn vĩ đại của Nhật bản

Greeno

Xe cút kít
Biển số
OF-22422
Ngày cấp bằng
14/10/08
Số km
15,922
Động cơ
619,608 Mã lực
Nơi ở
www.bodetam.vn
Website
www.bodetam.vn
Công ty Nhật ở VN, trưởng/phó các bộ phận không quá quan trọng thì thường là người VN (e biết các công ty Nhật làm trong lĩnh vực IT)
DN nào họ cũng tối ưu hoá lợi nhuận thôi, vấn đề là chúng ta học được gì từ người Nhật để áp dụng cho dân tộc Việt
 

mmxhung

Xe container
Biển số
OF-357522
Ngày cấp bằng
10/3/15
Số km
5,010
Động cơ
302,736 Mã lực
Đọc Thoát Á luận xong cháu cảm thấy bâng khuông quá. Cháu đã chịu ảnh hưởng lớn của tư tưởng Khổng giáo nên mặc dù tác giả Fukuzawa Yukichi đưa ra những luận điểm vô cùng xác đáng, nhưng cháu cảm thấy vẫn không thể áp dụng được cho xứ Đông Lào mình. Đem tư tưởng văn minh của phương Tây áp đặt cho một đất nước đang phát triển vẫn còn nghèo nàn lạc hậu liệu có được chấp nhận hay không. Đứa em gái cháu hiện đang định cư ở Mỹ cũng cho cháu biết nhiều điều văn minh của xứ cờ hoa nhưng cháu suy nghĩ kỹ lưỡng thấy nếu đem áp dụng ở Việt Nam chắc chắn sẽ bị ném đã không thương tiếc. Thế nên giờ này cháu vẫn ở Việt Nam chứ không sang đó vì cảm thấy mình không thuộc về xứ đó.
 

Ga_son

Xe điện
Biển số
OF-6072
Ngày cấp bằng
20/6/07
Số km
3,952
Động cơ
1,549,327 Mã lực
chung quy cũng chỉ gói gọn trong việc " xóa bỏ định kiến cũ, đón nhận cái mới " tuy nhiên vào thời đại đó suy nghĩ được như vậy thì thật là khâm phục!
 

NN minhchau

Xe tăng
Biển số
OF-110172
Ngày cấp bằng
23/8/11
Số km
1,521
Động cơ
402,400 Mã lực
Nơi ở
Lầu 5 góc và sô 10 phố downing
cả nhà iem đang hóng cách thoát Việt luận đây... ở mãi chỗ ô nhiễm với tham nhũng dư lày mệt mỏi lắm :(:(
 

GàCon9x

Xe tải
Biển số
OF-367369
Ngày cấp bằng
19/5/15
Số km
367
Động cơ
256,754 Mã lực
Like mạnh cho bài viết cảu cụ
 

Gatnuoc9

Xe máy
Biển số
OF-367251
Ngày cấp bằng
18/5/15
Số km
56
Động cơ
254,800 Mã lực
Đời sống tinh thần người Nhật rất khổ, tự tử nhiều. Xã hội trật tự nhưng buồn. Tiền tiết kiệm nhiều, về già tiêu vào du lịch thì cũng muộn.
e thấy họ vui vẻ đấy chứ, phim và các chuơng trình họ đều vui vẻ cười nói mà cụ
 

Greeno

Xe cút kít
Biển số
OF-22422
Ngày cấp bằng
14/10/08
Số km
15,922
Động cơ
619,608 Mã lực
Nơi ở
www.bodetam.vn
Website
www.bodetam.vn
e thấy họ vui vẻ đấy chứ, phim và các chuơng trình họ đều vui vẻ cười nói mà cụ
Không có thành công nào mà không có trả giá hay góc khuất cụ ạ, quan trọng là đại đa số người dân được hưởng những điều kiện sống, phúc lợi tốt
 

Greenfield

Đi bộ
Biển số
OF-40744
Ngày cấp bằng
16/7/09
Số km
7
Động cơ
467,760 Mã lực
Một dân tộc may mắn với những người sáng suốt vì đất nước
 

Quả_chuối

Xe tải
Biển số
OF-406326
Ngày cấp bằng
23/2/16
Số km
263
Động cơ
227,960 Mã lực
Nơi ở
Vườn rau
Bạn em đang làm thiết kế cho Nissan tại Nhật. Giờ làm thêm cũng loạn cào cào. Không muốn làm cũng phải làm nhá :(
Ở Nhật thời lấy chóa đâu ra sếp người Việt nhể :))
Bạn cụ Vịt là tay nào nhẽ em biết!? Bọn đấy chỉ giỏi lươn khươn câu giờ thôi :D
 
Chỉnh sửa cuối:

Hươngquê73

Xe tăng
Biển số
OF-374797
Ngày cấp bằng
23/7/15
Số km
1,362
Động cơ
256,850 Mã lực
Nhật bản ăn may thôi. Hay ho gì. Nói về thoát Á thì VN ta nghĩ ra trước Nhật bản mấy chục năm các cụ nhé. Đó là các nhà tư tưởng canh tân như Nguyễn Trường Tộ, Phan Thanh Giản ... Bản thân vua Tự Đức cũng có ý muốn canh tân nhưng do đen thôi, đỏ quên đi.
 

S320

Xe container
Biển số
OF-40504
Ngày cấp bằng
13/7/09
Số km
6,037
Động cơ
510,506 Mã lực
Sao em thấy như cụ ấy đang nói về chúng ta chứ ko phải nói về Chi na với hàn xẻng nhể????

Ngày nay, trong thời đại phương tiện giao thông tiện lợi, cả hai dân tộc không thể không nhìn thấy được sự hiện hữu của nền văn minh phương Tây. Nhưng họ lại cho rằng những điều mắt thấy tai nghe về nền văn minh phương Tây như vậy cũng không làm họ động tâm động não. Suốt hàng nghìn năm họ không hề thay đổi và vẫn quyến luyến với những phong tục tập quán cũ kĩ bảo thủ. Giữa thời buổi văn minh mới mẻ và đầy khí thế ngày nay mà khi bàn luận về giáo dục thì họ thường lên tiếng giữ gìn nền giáo dục Nho học (Hán học), bàn về giáo lý của trường học thì họ chỉ trích dẫn những lời giáo huấn “Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí”, và chỉ phô trương coi trọng hình thức bên ngoài giả tạo, thực chất họ coi thường chân lí và nguyên tắc, còn đạo đức thì hung hăng tàn bạo và vô liêm xỉ không lời nào tả xiết, đã vậy họ lại còn kiêu căng tự phụ.
 

S320

Xe container
Biển số
OF-40504
Ngày cấp bằng
13/7/09
Số km
6,037
Động cơ
510,506 Mã lực
Chuẩn ạ. Quan trọng là thằng hoa tiêu cụ nhể??? Noá đi nhầm đường cái là cả đoàn mịt mùng trong lầm lạc thôi ;))

Nhật bản ăn may thôi. Hay ho gì. Nói về thoát Á thì VN ta nghĩ ra trước Nhật bản mấy chục năm các cụ nhé. Đó là các nhà tư tưởng canh tân như Nguyễn Trường Tộ, Phan Thanh Giản ... Bản thân vua Tự Đức cũng có ý muốn canh tân nhưng do đen thôi, đỏ quên đi.
 

Hươngquê73

Xe tăng
Biển số
OF-374797
Ngày cấp bằng
23/7/15
Số km
1,362
Động cơ
256,850 Mã lực
Chuẩn ạ. Quan trọng là thằng hoa tiêu cụ nhể??? Noá đi nhầm đường cái là cả đoàn mịt mùng trong lầm lạc thôi ;))
Bản chất chung của phong kiến châu Á là hủ lậu, đóng cửa. Tuy nhiên mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh. Nhật bản may mắn không phải vì có thiên trị minh hoàng (ông này là vua bù nhìn chứ có quyền hành mịa gì) mà vì có sự hiện diện của Mỹ. Mà bọn Mỹ thì chúng chỉ chú trọng đến thông thương và chủ trương chống lại chủ nghĩa thực dân (đứng đầu là nước Anh). Nên bọn thực dân thèm nhỏ giải mà chã làm gì được Nhật bản, thậm chí chúng còn chia phe đánh nhau. Anh thì hỗ trợ nhóm Thiên hoàng còn Pháp thì hỗ trợ Mạc phủ. Được cái ông Thiên hoàng nhìn thấy cơ hội nghìn năm có một để thoát khỏi sự khống chế của Mạc Phủ nên ông ấy chủ xướng cải cách, chứ hay ho gì. Đến bây giờ thì ông ấy cũng mãi kiếp bù nhìn mà thôi.
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,469
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
Đọc Thoát Á luận xong cháu cảm thấy bâng khuông quá. Cháu đã chịu ảnh hưởng lớn của tư tưởng Khổng giáo nên mặc dù tác giả Fukuzawa Yukichi đưa ra những luận điểm vô cùng xác đáng, nhưng cháu cảm thấy vẫn không thể áp dụng được cho xứ Đông Lào mình. Đem tư tưởng văn minh của phương Tây áp đặt cho một đất nước đang phát triển vẫn còn nghèo nàn lạc hậu liệu có được chấp nhận hay không. Đứa em gái cháu hiện đang định cư ở Mỹ cũng cho cháu biết nhiều điều văn minh của xứ cờ hoa nhưng cháu suy nghĩ kỹ lưỡng thấy nếu đem áp dụng ở Việt Nam chắc chắn sẽ bị ném đã không thương tiếc. Thế nên giờ này cháu vẫn ở Việt Nam chứ không sang đó vì cảm thấy mình không thuộc về xứ đó.
Nguyễn Trường Tộ của Việt nam có kém gì đâu: đây là tư tưởng của ông này:
tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ bao quát trên mọi lĩnh vực, nó được chứng minh qua 58 bản điều trần mà ông gửi lên triều đình nhà Nguyễn trong vòng 8 năm, từ 1863 cho đến khi ông qua đời năm 1871. Tất cả được đúc kết từ việc tìm hiểu kinh nghiệm của nước ngoài cũng như học hỏi kiến thức hiện đại rồi vạch ra chương trình canh tân bao quát nhất, tâm huyết nhất. Một trong các phương án cải cách, Nguyễn Trường Tộ rất chú trọng đến vấn đề cải cách quân sự, đặc biệt là trong hoàn cảnh thực dân Pháp đã nổ súng tấn công vào Đà Nẵng năm 1858, mở đầu hoạt động chiến tranh xâm lược nước ta. Ngoài các kế sách nhằm tăng cường khả năng phòng thủ đất nước được trình bày rải rác trong các bản điều trần, Nguyễn Trường Tộ còn soạn thảo 7 văn bản riêng về lĩnh vực quân sự, thậm chí rất tỉ mỉ, chi tiết như kế hoạch thu hồi 6 tỉnh Nam Kỳ, kế hoạch đánh úp thành Gia Định…Trong Tế cấp bát điều (8 việc cần làm cấp bách) viết năm 1867, ông nêu nên việc hàng đầu là phải “gấp rút sửa đổi việc võ bị”. Về cơ bản, các đề xuất cải cách quân sự của Nguyễn Trường Tộ được thể hiện trên các mặt sau:
• Nhận thức đúng vai trò của quân sự: Nói đến quân sự là nói đến việc binh, võ bị; một yếu tố quan trọng hàng đầu của mỗi quốc gia, đây là lực lượng giữ gìn ổn định, bảo vệ đất nước, trấn áp các hoạt động chống đối, nội loạn. Theo Nguyễn Trường Tộ, “một quốc gia hữu sự, nếu không có vũ lực trấn áp thì cả quốc gia, quan quyền, dân thú, luật lệ, chính sự, pháp độ đều phải giao vào tay quân địch”. Vì thế “nếu nước ta không gấp rút sửa đổi theo mới, để cho võ bị càng suy, nhân tâm càng yếu thì lấy gì chống giặc, bảo vệ nhân dân”.
• Coi trọng quân sự: Nguyễn Trường Tộ phê phán mạnh mẽ tư tưởng “trọng văn khinh võ” bằng việc nêu ra hình ảnh: “văn ví như cái áo đẹp, võ như cái thức ăn để tẩm bổ khí huyết cường tráng. Người mà không có khí huyết thì chết. Dẫu có áo đẹp mà không tu bổ khí huyết cũng là vô dụng”.
• Xây dựng học thuyết quân sự, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới: Theo Nguyễn Trường Tộ phải thay đổi vì: “Thời đại nào có chế độ ấy. Con người sinh ra vào thời đại nào thì cũng chỉ đủ làm công việc của thời đại ấy mà thôi. Vậy thì người sinh ra vào thời xưa làm xong công việc của thời xưa, rồi dần dần thế đổi dời, làm sao có thể mỗi ôm giữ phép xưa mãi được”, “phép chiến đấu xưa nay khác xa nhau lắm”. Do đó “hãy đem các sách binh thư này…ra xét lại. Phàm sách nào, chỗ nào nghĩa lý không xác đáng, khí giới lỗi thời, kỹ thuật không hiệu nghiệm, địa thế không cho phép, khí hậu không hợp và tất cả những gì thi hành không kết quả phải bỏ hết, chỉ lựa chọn lấy những gì phù hợp với ngày nay, liên quan đến tình hình nước ta”. Từ việc tìm hiểu một cách cụ thể, Nguyễn Trường Tộ kết luận rằng: “Tôi đã đọc nhiều binh thư và sách vở linh tinh khác nói về binh sự thì thấy rằng chiến pháp của cổ nhân, ngày nay không còn thích dụng nữa”. Vì thế “hãy mời những người có tên tuổi, những người có kỹ xảo, biết quyền biến cùng nhau khảo cứu” để xây dựng học thuyết quân sự mới, “soạn thành sách binh thư mới và ban bố cho quan quân cùng học tập”.
• Đổi mới trang thiết bị quân sự, vũ khí chiến đấu mang tính hiện đại để có thể đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới. Sự lạc hậu về vũ khí chính là một nguyên nhân dẫn tới thất bại khi có chiến tranh, Nguyễn Trường Tộ nhận xét rất đúng: “người xưa làm cung tên để đánh giặc, sử dụng giỏi có thể thắng. Nhưng nay đem địch với đại pháo thì cung tên chỉ là trò chơi con nít mà thôi. Cho dẫu có tài bắn hay cũng khó tránh khỏi thua bại”. Muốn tránh điều đó “phải chế tạo các loại vũ khí mới lạ, có thể đối phó được với giặc, cất vào kho vũ khí để sử dụng khi cần thiết”.
• Xây dựng cơ sở quân sự, đóng giữ các nơi hiểm yếu, quan trọng vì thế trước tiên phải “xem xét thật kỹ địa hình”, sau đó xây dựng đồn lũy, nhất là “ở các cửa sông”. “Những đồn lũy mới cất ngày đêm phải có lính canh giữ cẩn mật như là khi có giặc vậy”. Nguyễn Trường Tộ còn đề xuất: “ở các cửa biển và tỉnh thành, kinh thành chỗ nào cần có tường hào thì đều xây hào ngay thẳng chỉnh tề”. Tại các nơi quan trọng, việc bố phòng, canh gác phải thực hiện chặt chẽ, nghiêm túc: “Tất cả những nơi cung vua, dinh quan, kho quân sự, cổng thành, đường sá và ở những chỗ quan yếu trong thành cũng như ngoài thành cần phải phòng thủ thì không kể mưa gió, ngày đêm phải canh gác nghiêm ngặt như là đang có giặc bao vây, tấn công vậy”.
• Nâng cao trình độ học vấn của quân lính: Muốn làm được điều đó phải có một nền giáo dục tốt, chính sách giáo dục phù hợp, nếu không “phong tục sẽ ngày một bại hoại, lòng người sẽ ngày một giả dối, phù phiếm, trống rỗng”. Ông viết: “Đại phàm bản tính người ta, nếu chỉ bằng vào tư chất thông minh của mình mà không chịu học tập thì so với người tầm thường nhưng có học vấn cứ phải thua họ rất xa”.
• Nâng cao chất lượng quân lính bằng việc “chọn lấy tráng binh tuổi từ 20 trở lên, chưa có gia đình. Ngoài ra phải thải bớt lính già yếu, bớt đi một nửa lính, lấy số lương cấp gấp đôi cho tráng binh còn lại”. Phải thường xuyên rèn luyện quân sự bởi “việc võ thực là rất khó. Học khó, hành khó” cho nên “học được cái gì, đem ra tập luyện cái ấy”. “Phàm là lính hãy để cho họ chuyên luyện tập mà không sai làm việc tạp dịch khác”. Việc thường xuyên diễn tập quân sự không chỉ nâng cao kỹ năng chiến đấu mà thông qua việc “diễn tập công khai, dân chúng có thể học tập để tuyển dụng sau này”.
• Đào tạo đội ngũ tướng lĩnh giỏi, vì “tướng như tai mắt, lính như chân tay. Mắt mù, tai điếc mà điều khiển được chân tay là chuyện chưa hề có”. Việc xây dựng đội ngũ tướng lĩnh tập chung vào chất lượng chứ không thiên về số lượng, bởi “quan võ có tài, dù nhiều việc cũng thừa thì giờ giải quyết, còn bất tài thì chính bản thân cũng không sắp xếp được, nói gì đến quản lý, điều khiển người khác. Cho nên phải thận trọng lựa chọn quan giỏi và thải bớt quan dở”, đồng thời “ thường kỳ phải khảo hạch kiến thức võ quan”.
• Coi trọng kỷ luật quân đội, tạo tính nghiêm minh, thống nhất, do đó khi “có ra lệnh cho cấp dưới thì đó cũng là bổn phận cấp dưới phải làm, mà làm cũng dễ” và “bởi vì điều cần yếu là binh lính phải một lòng tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh, chứ không cần nhiều sĩ quan kiềm chế họ”.
• Có chính sách đãi ngộ quân đội một cách xứng đáng, nếu “cho ăn không đủ no mà mong người ta không nề hà nguy hiểm, đãi lính như nô tù mà mong lính xả thân, coi nhẹ cái chết thì sao được”. Nguyễn Trường Tộ chỉ ra kinh nghiệm của nước ngoài khi cho biết “các tráng binh bên Tây được ăn uống ngon lành, suốt đời hưởng lộc. Khi tại ngũ có lương dư thừa chu cấp cho cha mẹ, vợ con, anh em”, “nếu vì nước hi sinh, vợ sẽ được lãnh lương suốt đời”. Còn các tướng lĩnh, “quan võ nếu lập công với quốc gia thì được thăng cấp, hưởng mãi số lương theo cấp đó…”.
• Tạo dựng mối quan hệ tốt giữa binh lính và tướng lĩnh. Nguyễn Trường Tộ phản đối thái độ coi thường người lính, “không nên bắt lính hầu hạ quan”, “không được sỉ nhục, ngược đãi binh lính”. Cần phải có sự đoàn kết, gắn bó vì “lính với cai đội, cai đội với tướng cũng như ngón tay với bàn tay, bàn tay với cánh tay, cánh tay với thân thể, có hòa hợp với nhau thì mới vận động được”. Do đó “binh lính có vui vẻ, hăng hái hay không là do lúc bình thường ta có tạo được tình cảm gắn bó ân nghĩa với nhau hay không”, “khi ra trận, khi gặp khó khăn thì quan và lính mới cùng chia sẻ vui buồn, dựa vào nhau”. Nếu không có sự đoàn kết, gắn bó thì “binh sĩ không có tinh thần chiến đấu, dù có phương pháp hay cũng trở thành bánh vẽ”, vì thế “không sợ giặc ngang tàng mà sợ lòng người rời rạc, lòng người rời rạc thì dù có thành trì bằng kim loại, có ao nước sôi cũng phải bỏ chạy. Ai ở đó mà chịu chết cho”.
• Học tập, tiếp thu những ưu điểm trong nghệ thuật quân sự của nước ngoài bằng cách “rước những người phương Tây giỏi về quân sự...phối hợp với võ quan ta để luyện tập cho quân sĩ mỗi ngày…”, hoặc “nên mời quan Tây giỏi võ bị để dạy cho quan ta”. “Ngoài ra cũng phải mua các sách binh pháp thủy bộ của phương Tây dịch ra để mà tham khảo học tập”.
• Coi trọng hoạt động tình báo vì “ta không thấu hiểu được tình hình thiên hạ, không hiểu rõ thời cơ của ta, của địch hư thực như thế nào, thành kiến thật kiên cố, không thể phá được”. Hoạt động tình báo rất quan trọng, “cài người của mình vào hàng ngũ địch để tìm hiểu tình hình của địch”, phải “lập mưu khéo léo ngăn chặn họ”, “tự mình phải hiểu rõ thế mạnh của ta, của người, nắm cho được cơ hội giao thiệp qua lại, từ đó để quyết định cho phù hợp…Đó là việc khó nhất trong các việc khó”. Tại những vùng địch kiểm soát ta phải “ngấm ngầm chuẩn bị lực lượng ngay trong địa bàn của địch, bí mật kết hợp với người sở tại để đánh úp địch”.

VỀ THƯƠNG NGHIỆP

Đối với thương nghiệp, Nguyễn Trường Tộ chỉ chủ trương giao lưu hàng hóa bằng ngoại thương cũng như nội thương.

Về ngoại thương, thì Hòa ước ngày 5-6-1862 ký kết giữa Triều đình vua Tự Đức với Pháp và Tây Ban Nha thì thương lái và thương thuyền của công dân hai nước này được tự do ra vào buôn bán ở cửa Hàn, cửa Ba Lạt và cửa Quảng Yên. Tuy nhiên có thể do nhà nước Việt Nam chưa muốn mở cửa cho người nước ngoài ra vào dòm ngó, nên đã không tổ chức ngoại thương, vì thế các hãng buôn của Pháp và Tây Ban Nha không thấy có gì để mua và không biết đem gì đến bán. Nguyễn Trường Tộ, trong nhiều văn bản gởi lên Triều đình Huế, luôn luôn nhấn mạnh đến nhu cầu mở rộng cửa biển cho tàu bè các nước vào buôn bán. Đó là một xu thế chung, một mình Việt Nam không thể cưỡng lại được.

Trong bài Dụ tài tế cấp bẩm từ (Di thảo số 5), ông nói: “Bọn hủ nho sao không biết thời thế biến chuyển; cứ câu nệ vào nghĩa lý sách vở, nói bừa bãi rằng: Triều đình mở cửa đón kẻ cướp vào? Sao không biết rằng lúc thời thế đã đến, thì không thể ngăn được, lúc thời thế đã lui thì không thể chặn được? (...) Cửa bể khắp các nước phương Đông… đã khai thông cả, thì tại sao một mình nước ta lại có thể đóng kín được?

Trong bài Khai hoang từ (Di thảo số 8 ), ông nói: “Ngày nay, nếu ta nhân có họ xin mà mở các cảng khẩu để thuyền bè các nước ra vào, ta ngồi mà thu thuế để tăng quốc dụng, như ở Trung Quốc. Có thuyền máy qua lại trên mặt biển thì bọn cướp biển dần dần sẽ tiêu”.

Trong một bản văn, có thể là bản văn cuối cùng trước khi từ trần, Nguyễn Trường Tộ sau khi điểm qua kinh nghiệm của Trung Quốc, Nhật Bản, Thái Lan... đã phải chua chát nhìn nhận rằng: “Chỉ riêng một mình nước ta thi hành đường lối khác, cho nên thiên hạ cho ta là một nước kỳ dị đệ nhất. Triều đình ta trong khoảng từ Gia Long, đến thời Minh Mạng hợp tác với người phương Tây, thường phái thuyền du hành các nước trở về dần dần được hưng thịnh. Nếu không có lệnh đóng cửa đuổi khách bạn ra, mà theo đường lối ấy cho tới ngày nay thì ta cũng có thể sánh vai dong duỗi cùng thiên hạ và người Pháp cũng không thể tác oai tác quái với chúng ta được”. (Di thảo số 55).

Về nội thương thì mối băn khoăn lớn của Nguyễn Trường Tộ là đường giao thông, vận chuyển hàng hóa. Bởi vì nước ta là một nước có chiều dài và lúc bấy giờ vận chuyển từ Bắc - Trung - Nam chủ yếu bằng đường biển. Mà vận chuyển bằng đường biển thì có hai đe dọa lớn là gió bão và cướp biển. Đó là chưa nói đến, khi xảy ra biến cố, thì tàu địch có thể phong tỏa như Pháp đã làm năm 1862. Việc giao lưu hàng hóa từ Bắc vào Nam bị tắc nghẽn. Nguyễn Trường Tộ đã thấy rất rõ điều đó.

Trong cuốn Tế cấp bát điều (Di thảo số 27, 15-11-1867) ông đã nói rằng: “Như về việc vận chuyển lương thực, Triều đình đã hết sức lo liệu mà vẫn chưa ổn. Phần nhiều một thạch lương thực đến được kinh đô đã phải hao hụt dọc đường mất năm sáu đấu. Đó là chưa nói đến nhiều vụ chìm ghe, bị đánh cướp. Các sản vật khác cũng vậy. Còn ghe thuyền của dân chìm mỗi năm không biết bao nhiêu mà kể. Dân nghèo thì nước cũng nghèo. Cái hại lớn đó đều do đường biển gây ra”.

Cũng trong cuốn Tế cấp bát điều, Nguyễn Trường Tộ đề nghị đào một con kênh từ Hải Dương đến Huế để tránh tai nạn của đường biển. Ông hứa là sẽ đảm nhận những chỗ khó đào. Ông nói: “Còn những chỗ trở ngại và cát đá khó đào xin cứ giao cho tôi. Tận dụng đủ cách thì núi cũng xuyên qua được, huống gì những nơi ứ tắc. Lúc trước tôi đã xem qua chỗ Nhà Hồ ở Quảng Trị thấy cũng có thể xuyên qua được. Chỉ có Hoành Sơn là tôi chưa xem kỹ. Nếu quan sát nghiên cứu kỹ hai nơi này mà thấy có thể đào được thì đào liền”.

Khoảng tháng 10 năm 1868, sau khi thấy triều đình không xét gì tới kế hoạch đào kênh của mình, Nguyễn Trường Tộ lại gởi lên Triều đình một văn bản nữa về việc “Tiễu trừ giặc biển” (Di thảo số 38 ). Ông lại nhận định rằng: “Sự tổn thất của công và của tư, kể có số vạn rồi, đường thương mại không thông, hóa vật ủng trệ, thật là một cái hại lớn cho sinh dân, năm này qua năm khác lại chẳng đã thiệt hại hàng ức triệu đó sao? Dân ven biển, những nhà buôn bán giàu sang là cửa bọng của cư dân thượng bạn hạ bạn thế mà mấy năm nay bị chúng cướp phá giết chóc không biết bao nhiêu nay đã trở thành nghèo túng...

Trong văn bản này, Nguyễn Trường Tộ vẫn cho rằng kế đào kênh là “Kế hay nhất”. Tuy nhiên để tiễu trừ giặc biển, ông đề nghị bốn biện pháp:

1. Thương lượng với người Pháp ở Sài Gòn để họ cho tàu tuần tiễu giúp dẹp dọn bọn cướp biển.

2. Đóng tiền cho hội bảo hiểm ở Sài Gòn để họ tiễu trừ giặc biển.

3. Mỗi tỉnh mua một hai thuyền máy để tự mình tiễu trừ giặc biển.

4. Bắt buộc các thuyền buôn của người Trung Quốc phải có giấy thông hành, để tránh nạn thuyền buôn thuyền giặc lẫn lộn.
VỀ TÀI CHÁNH

Tài chánh của Nhà nước phong kiến, thời Nguyễn Trường Tộ, chủ yếu nhờ vào thuế (thuế đinh và thuế điền).

Đối với Nguyễn Trường Tộ, thuế là nghĩa vụ của nhân dân đối với công việc chung của đất nước. Nhưng thuế phải công bằng và hợp lý.

Trong Tế cấp bát điều (Di thảo số 27, ngày 15-11-1867), ông nói: “Nước sở dĩ đứng vững được là nhờ binh lương. Binh để giữ nước, lương để nuôi binh. Thế mà trong dân gian còn nhiều người chưa hiểu lý lẽ ấy. Nếu có của cải mà không có quan binh bảo vệ thì quân giặc, kẻ trộm hoành hành, thân còn không giữ được, giữ sao được của cải. Dân đã không thể một mình bảo vệ được thân mạng, nhà cửa, của cải, thì bỏ ra một ít lương thuế nhờ lực lượng quốc gia bảo vệ sự nghiệp to lớn lâu dài của mình cho”.

Vì thế mà Nguyễn Trường Tộ, đề nghị đo đạc ruộng đất, kê khai dân số hàng năm để tránh thất thu và gian lận. Thất thu và gian lận đây không phải là do dân chúng mà chính là do lý hào.

Giải thích lý do tại sao phải đo đạc lại điền thổ, Nguyễn Trường Tộ nói: “Có nhiều nơi ruộng cao có thuế lại mất mùa không thu được gì cả, còn ruộng thấp không có thuế thì lại được mùa, thế mà chẳng bù sớt cho nhau tý nào (...) Lại có những bọn lý dịch lấy ruộng của dân tráo chỗ nọ đổi chỗ kia, để thu thuế của dân thì nhiều mà nộp lên quan thì ít (...) Như cậy là quá nửa số thuế lọt vào túi bọn lý dịch chẳng khác nào chúng có đất phong hầu để ăn lộc vậy. Lại có làng ở ven sông đất bị sông xói lở không cày cấy được, hoặc có nơi vốn đất bỏ hoang không khai khẩn được, thế mà vẫn bị bọn lý dịch chiếu lệ tăng thuế. Lại có nhiều ruộng lậu thuế không khám phá ra được bởi tài đắp vá quỷ quyệt của bọn lý dịch. Như vậy trong dân gian, kẻ giàu thì giàu thêm, người nghèo càng nghèo mạt...”.

Sở dĩ Nguyễn Trường Tộ đề nghị phải kê khai nhân khẩu hằng năm, một phần, là để tránh sự gian lận của bọn lý dịch kê khai thấp số dân trong xã để nộp lên cho Nhà nước ít, nhưng vẫn thu đủ của dân. Ông nói: “Bọn hương hào lý dịch ác ôn nhờ đó mà ăn cho no béo nên chúng mới gian dối đủ cách, chịu đánh đòn để mưu lợi riêng tư. Đến khi có người bất bình phát đơn kiện, bấy giờ quan mới trừng trị”.

Mỗi lần nêu chủ trương sửa sang lại biên cương, nắm rõ dân số, Nguyễn Trường Tộ đều nói rằng: “mục đích không phải để tăng thuế”.

Trong Tế cấp bát điều, điều thứ ba, Nguyễn Trường Tộ có đề nghị tăng thuế và đánh thuế thật nặng trên các sòng bạc, trên rượu, thuốc lá, các cuộc du ký vô bổ mang tính chất mê tín dị đoan, mục đích là để bài trừ các tệ nạn xã hội.

Ông cũng đề nghị đánh thuế nặng trên các hàng xa xỉ ngoại nhập, như trà tàu, tơ lụa nhập để bảo vệ hàng nội địa. Ông nói: “Nếu có thuyền Trung Quốc vào cảng thì phải đánh thuế trà riêng, còn các thứ tạp hóa khác đều theo thể lệ cũ, tuy vậy cũng phải tăng lên. Đối với các nước phương Tây, phàm hàng hóa nước ngoài, bất luận thứ hàng hóa gì đều phải phân biệt loại hàng qúy và hàng thường để thu thuế và phải thu cao hơn hàng trong nước. Còn những thứ không cần thiết cho đời sống, như đồ trang sức, xa xỉ thì phải đánh thuế gấp bội hơn nữa. Vậy xin ở các chợ tiệm nào có biển quan cho phép mới được bán trà. Như giá trà một quan phải nộp thuế một quan. Đã lấy thuế khi thuyền Trung Quốc vào cảng, lại còn lấy thuế khi bày bán ở chợ. Như thế cũng không quá đáng. Bởi vì uống trà tàu chỉ có hạng giàu có phong lưu mà thôi. Nước ta cũng có trà, uống cũng giải khát thanh tỳ được. Thế mà họ còn thừa tiền hoang phí thói phong lưu (…) Nước ta vốn có nhiều tơ lụa, thế mà nhiều người cho là không đẹp cứ tìm kiếm hàng Tàu, khiến dân ta không ra sức trồng dâu nuôi tằm, làm cho hàng tơ ngày một đắt giá (...) Tại sao hàng ta dù có tốt cũng xem thường, còn hàng Tàu dù có xấu cũng đua nhau khen đẹp? Tại sao lại khinh mình mà trọng người đến thế? (...) Nay xin cho các thứ vải vóc hàng may mặc trong nước đều xử lý theo lệ cũ. Còn tất cả các loại hàng Tàu hễ giá 10 quan thì đánh thuế 5 quan. Họ đã có tiền mua hàng đẹp thì cũng có tiền nạp 5 quan để dùng vào việc lợi ích quốc gia. Điều đó cũng không phải quá đáng”.

Nguyễn Trường Tộ cũng đề nghị là phải đánh thuế trên nhà giàu. Bởi vì nhà giàu chịu ơn Nhà nước hơn người nghèo, bởi vì “cướp cũng muốn cướp của nhà giàu, trộm cũng muốn trộm của nhà giàu”. Thế mà “trong sổ bộ trên quan một cùng đinh phải đóng thuế bao nhiêu, thì trong làng một tay đại phú cũng đóng từng đó thuế”. Về biện pháp, thì Nguyễn Trường Tộ “xin chia những người giàu làm ba hạng, nhà hạng nhất đóng thuế mỗi năm 100 quan, hạng nhì 50 quan, hạng ba 20 quan”.

Như thế đối với Nguyễn Trường Tộ, thuế cần được chấn chỉnh, nhưng đó chỉ là một nguồn thu có giới hạn nhất định mà thôi. Điều cần nhất là phải làm cho của cải thêm nhiều. Ông nói: “Có nhiều lối làm giàu, nếu đem ra thực hành trăm năm cũng chưa hết. Nhưng tôi chỉ đưa ra bốn cách cấp thiết trước tiên để cấp cứu trong nhất thời. Tạo vật để cho nước ta một địa lợi tốt để mà làm, thì Triều đình phải có người đứng ra xướng xuất cho dân theo”. Bốn cách làm giàu nói đây chính là cách khai thác bốn nguồn lợi nói trong Dụ tài tế cấp bẩm từ: Nguồn lợi về biển, nguồn lợi về rừng, nguồn lợi về đất đai, nguồn lợi về mỏ quặng.

Nhưng Triều đình đã không làm gì cả cho có của cải để chi dùng vào các chương trình phát triển đất nước. Có lúc Nguyễn Trường Tộ đề nghị là Triều đình vay tiền của nhân dân (như hình thức công trái của chúng ta ngày nay).

Để có tiền đào các con kênh cho thuyền bè qua lại, khỏi đi lòng vòng tốn kém, ông đề nghị: “Truyền rao cho các nhà giàu xuất tiền cho Nhà nước vay. Trước tiên tùy số tiền cho vay nhiều ít sẽ được ban khen. Sau đó tiền lời sẽ được trả khi kênh đào xong và lập trạm thuế. Mỗi năm, quan sở tại trả tiền lời cứ một vạn là một trăm quan. Khi nào số tiền lời được gấp đôi số tiền đã vay thì chấm dứt và không hoàn vốn lại” (Di thảo số 27).

Ông cũng đề nghị Triều đình vay tiền của các công ty nước ngoài để mua sắm khí giới, lập các nhà máy chế tạo súng đạn và hàng tiêu dùng. Ông nói: “Nước ta thời gian gần đây phải đánh Nam dẹp Bắc, của cải tích lũy đã cạn. Dân gian bị lụt lội, hạn hán, sâu rầy, làng xóm hư hao. Bên ngoài cướp biển hoành hành, đường buôn bán không thông. Bên trong sự cung đốn cho Nhà nước ngày một gia tăng, lòng dân rời rạc. Tất cả đều do nghèo thiếu của cải gây nên. Tôi thấy các nước phương Tây, nhiều nước vay tiền của các nhà buôn lớn để giải quyết các vấn đề cần gấp, sau đó sẽ từ từ hoàn lại. Nước càng lớn, nợ càng nhiều. Thế nhưng chưa ai bảo như vậy là yếu hèn hay sai lầm kế sách. Tôi xin có ý kiến là hãy sai người đến các đại thương gia ở Hương Cảng vay độ 8, 9 triệu quan (Tôi bảo đảm chắc chắn có thể vay được), mỗi năm ta sẽ trả tiền lời cho họ, hoặc giao ước ta sẽ trả hàng hóa cho họ rồi tính giá khấu trừ, hoặc cho họ lấy gỗ ở một hai khu rừng (Về lợi ích lâu dài của việc này, trước đây tôi đã bẩm ở trong bài “Khai hoang từ”), rồi hạn định mỗi năm trừ vào số tiền vốn là bao nhiêu. Khế ước sẽ được lập theo luật phương Tây, sau đó xin qua Anh ký chứng để bảo đảm vĩnh viễn khỏi lo ngại. Khi ta đã được một món tiền lớn đem về sẽ nhất tề bắt tay làm việc. Có vốn lớn chắc chắn sẽ có lợi lớn” (Di thảo số 44, ngày 10-4-1871).
5. VỀ CHÍNH TRỊ

Nguyễn Trường Tộ không phải là một nhà chính trị, hiểu theo nghĩa là người có một dự án chính trị cần được thực hiện bằng con đường chính quyền. Đọc các di thảo của Nguyễn Trường Tộ, chúng ta thấy là ông chủ trương không nhận bất cứ một chức vụ nào trong chính quyền. Nguyễn Trường Tộ chỉ là một nhà cải cách, nói đúng hơn là một người có những tư tường cải cách và muốn thực hiện những cải cách đó thông qua những người có chức có quyền. Chính vì thế mà ông đã gởi những đề nghị cải cách của ông lên Triều đình Huế và chỉ gởi cho những người có chức có quyền trong Triều đình Huế.

Với một hướng đi như thế, Nguyễn Trường Tộ chủ trương tôn trọng chế độ vua quan hiện hữu. Đối với các cuộc nổi dậy chống chế độ như vụ Lê Văn Phụng là một người công giáo, được các thừa sai Pháp và Tây Ban Nha ủng hộ. Nguyễn Trường Tộ không những không theo, mà còn chống đối, coi đó là phản nghịch, là Thắng Quảng (Xem di thảo số 3 ).

Nguyễn Trường Tộ đã nói rõ hơn lập trường của mình trong bài “Vua là quý, quan là trọng” (Di thảo số 13, tháng 5-1866). Ông đã viện dẫn tất cả lý lẽ của Đông, Tây để cổ vũ cho việc duy trì và củng cố trật tự xã hội hiện hữu.

Có lúc ông có vẻ hơi cường điệu khi nói rằng: “Người xưa có nói dân là gốc của nước. Nói như vậy cũng chưa đúng. Tôi cho rằng vua quan là gốc của nước. Vì không có vua quan thì chẳng bao lâu dân sẽ loạn, tranh nhau làm trưởng, giành giật lẫn nhau, tàn sát lẫn nhau, oán thù lẫn nhau. Cho nên nước dù có vua bạo ngược còn hơn không vua”.

Tuy nhiên cần đặt văn bản này trong bối cảnh lịch sử của nó. Nguyễn Trường Tộ là người biết tương đối rõ tình hình bất ổn của Triều đình. Trong bài Thiên hạ đại thế luận (Di thảo số 1, tháng 4-1863), ông đã nói: “Hiện nay tình hình trong nước rối loạn, Trời thì sanh tai biến để cảnh cáo, đất thì hạn hán tai ương, tiền của sức lực của dân đã kiệt quệ, việc cung ứng cho quân binh đã mệt mỏi, trong Triều đình quần thần chỉ làm trò hề cho vui lòng vua, che đậy những việc hư hỏng trong nước, ngăn chận những bậc hiền tài, chia đảng lập phái khuynh loát nhau, những việc như vậy cũng đã nhiều; ngoài các tỉnh thì quan tham lại nhũng xưng hùng xưng bá, tác phúc tác oai, áp bức tàn nhẫn kẻ cô thế, bòn rút mỡ dân, đục khoét tủy nước, việc đó đã xảy ra từ lâu rồi. Những kẻ hận đời ghét kẻ gian tà, những kẻ thất chí vong mạng, phần nhiều ẩn núp nơi thảo dã, chính là lúc Thắng Quảng thừa cơ nổi dậy”. Vua Tự Đức lại là thứ lập, nên sau những âm mưu lật đổ của Hồng Bảo (1854) và Hồng Tập (1864), luôn luôn sống trong một tâm trạng sợ sệt; trong đêm 16 rạng 17 tháng 9-1866, quân nổi dậy của Đoàn Trưng và Đoàn Trực đã vào tới tận cửa Hoàng gia... Nguyễn Trường Tộ thấy rõ ràng chính tình trạng rối ren lo sợ đó đã làm tê liệt mọi sáng kiến của Triều đình. Theo ông thì: “Bậc làm vua biết rõ cái thế trường cửu đã có, không có bụng nghi ngờ bề tôi ở dưới: kẻ làm dân biết cái lợi hại của việc trị việc loạn nên không có cái chí phạm thượng. Trên dưới tự mình không nghi cũng không ngờ lẫn nhau. Mọi việc gì đều có phó thác rõ ràng, người nhận lãnh vui lòng, không có điều gì tối tăm, lo lắng, cho nên dễ đi đến chỗ đúng đắn, dễ bày tỏ, dễ cởi mở, dễ phân giải, tất cả đều do thật lòng tin tưởng nhau, cho nên dù có sự bất bình cũng tin nhau, không nỡ trách cứ hà khắc. Được như vậy là đều do không nghi kỵ gì nhau mà ra. Nếu đã nghi thì hại đến lòng tin. Không tin tưởng thì đa kỵ, đa kỵ thì lụy hại đến trí khôn; trí bị tổn hại thì dễ bị hỏng việc; việc hỏng thì sinh hại, hại sinh thì có lắm chuyện lo buồn; lo buồn nhiều thì tâm loạn rồi sinh ra lắm sự sợ hãi; sợ hãi nhiều thì khí chất kém đi mà sinh ra nhu nhược; nhu nhược thì mọi việc chần chừ do dự không dám quyết đoán...” (Di thảo số 13).

Do đó mà Nguyễn Trường Tộ mong có một sự ổn định về chính trị. Có lẽ Nguyễn Trường Tộ không đặt vấn đề lựa chọn chế độ chính trị, quân chủ hay dân chủ, dân chủ tư sản hay dân chủ nhân dân, như chúng ta quen nói ngày nay. Ông chỉ thấy là cần có một người nắm giềng mối quốc gia. Và người đứng đầu quốc gia đó phải phục vụ lợi ích của toàn dân: “Vua có bổn phận của vua, quan có bổn phận của quan, dân có bổn phận của dân. Người quý kẻ tiện không cướp đoạt của nhau (...) Nếu biết dựa vào nhau và nhờ vào thế của nhiều người, sao cho mọi người đều coi trọng việc công và lòng người đều tôn kính bề trên, như Giả Nghị nói: Gieo vào lòng người sự tôn kính, thì thiên hạ không có loạn. Vì rằng danh đã định, vị đã lập, lý đã chính, thế đã đồng, các nước đều như vậy cả, lẽ nào một nước ta lại có thể trái với các nước, đứng riêng một mình được sao?

Nói tóm lại là, về chính trị, Nguyễn Trường Tộ không đề nghị thay đổi gì cả. Ông chỉ muốn củng cố trật tự xã hội hiện hữu. Trong Tế cấp bát điều (Di thảo số 27, 15-11-1867), ông có đề nghị sát nhập một số tỉnh huyện để tinh giản biên chế và tăng lương cho các viên chức, như chúng ta nói ngày nay. Ông nói: “Hãy xem tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có thể lớn bằng một lần rưỡi nước ta. Hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây hợp lại có thể gấp đôi nước ta. Một huyện của Trung Quốc có thể tương đương một tỉnh nước ta. Trên thế giới có nhiều nước phân chia tỉnh huyện còn lớn hơn của Trung Quốc nữa (...) vậy xin gấp rút xét xem địa thế, hợp hai ba tỉnh làm một tỉnh, hoặc ba bốn huyện làm một huyện, lấy số lương dư ra cấp thêm cho các quan hiện chức. Họ đã được cấp lương tiền đầy đủ để giúp họ giữ được thanh liêm, bấy giờ nếu họ không thanh liêm mới có thể trách. Tôi tính lương tri huyện mỗi ngày không quá ba, bốn thạch (mỗi thạch khoảng 60 - 70 đồng tiền), như vậy nuôi một người còn không đủ huống chi nuôi một gia đình nhà quan. Đã biết rõ thiếu hụt mà cứ đem lời suông khuyên người ta thanh liêm, như thế là ngầm để cho người ta tham nhũng (...) Tôi thấy lương bổng một năm, tính hết tất cả các khoản của một Lục bộ đại thần nước ta không bằng hai ngày rưỡi lương của một nguyên soái nước Pháp. Một ngày lương của một Tổng đốc nước Anh tương đương một năm lương của một quan đại thần nước ta. Vì vậy người phương Tây có nói: “Các quan lại nước Nam, trừ những người quá tham ô không nói, còn bao nhiêu những người khác thường thường sau khi xong công việc họ nhận lãnh của biếu xén, tạ ơn, điều đó cũng không đáng trách” (...) Các nước ngoài nghe quan lại nước ta lương bổng ít ỏi như vậy họ rất chê cười và tựa hồ họ không thể hiểu nổi tại sao lại có thể như thế được. Vì vậy tôi xin đề nghị lấy những của cải phù phiếm xa hoa trong dân gian để thêm lương cho các quan binh. Đó là lý do hết sức chính đáng (các nước phương Tây cũng tăng thu bằng cách đó để cấp thêm cho quan binh). Nếu vậy mà họ còn tham ô, mới có thể trách được”.

Để quản lý quốc gia, Nguyễn Trường Tộ, trong Tế cấp bát điều, điều thứ 5 và 7, đề nghị vẽ bản đồ cương giới cũng như điều tra dân số và làm thống kê về tất cả mọi mặt sinh hoạt của đất nước. Ông nói: “Nay xin vẽ bản đồ tất cả các xứ trong nước. Về địa phận mỗi tỉnh, huyện, xã, thôn, phường, sách, động, trang phải đo đạc lại hết cho phù hợp bốn bên, xa gần, rộng hẹp, đồng thời mô tả tình thế mặt đất, như tôi đã nói ở trên, rồi ghi chú rõ ràng vào bản đồ cả nước. Trong bản đồ phải có thuyết minh để thấy rõ các mối liên lạc. Vẽ bản đồ phải thực hiện nhiều loại, có loại vẽ phân tích ra từng phần, có loại vẽ tổng hợp chung tất cả các phần vào một (như lối vẽ của Tây phương), nhưng nói chung các bản đồ đều phải lấy độ số bằng dặm vuông để dễ suy đoán (khoản nay tôi có biết ít nhiều).

(…)

“Nay xin lập sổ bộ thống kê lại đầy đủ không luận trai gái, già trẻ. Việc này giao trách nhiệm cho tri huyện và tổng lý phải ghi rõ ràng trình lên. Như chính quán bao nhiêu, ngụ cư bao nhiêu, người học chữ bao nhiêu, làm thợ bao nhiêu, buôn bán bao nhiêu, bao nhiêu người không có nghề nhất định, bao nhiêu người mồ côi cha mẹ, góa vợ góa chồng, bao nhiêu người tàn tật, bao nhiêu quan, binh, chức, sắc bao nhiêu người làm thầy thuốc, thầy bói số. Mỗi năm đều ghi rõ ở dưới là còn tiếp tục hành nghề cũ hay đã đổi nghề thác. Cũng phải ghi rõ mỗi nhà sinh được bao nhiêu trai gái, chết vì lý do gì
”.

Nguyễn Trường Tộ cũng đề nghị lập thêm bộ Nông nghiệp, bộ Ngoại giao (trước chỉ có 6 bộ: Bộ Binh, Bộ Lại, Bộ Lễ, Bộ Công, Bộ Hình, Bộ Hộ). Ông cũng đề nghị là Tòa án phải được độc lập: Nhà vua chỉ có quyền ân xá, chứ không có quyền kết án.
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,469
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
5. VỀ CHÍNH TRỊ

Nguyễn Trường Tộ không phải là một nhà chính trị, hiểu theo nghĩa là người có một dự án chính trị cần được thực hiện bằng con đường chính quyền. Đọc các di thảo của Nguyễn Trường Tộ, chúng ta thấy là ông chủ trương không nhận bất cứ một chức vụ nào trong chính quyền. Nguyễn Trường Tộ chỉ là một nhà cải cách, nói đúng hơn là một người có những tư tường cải cách và muốn thực hiện những cải cách đó thông qua những người có chức có quyền. Chính vì thế mà ông đã gởi những đề nghị cải cách của ông lên Triều đình Huế và chỉ gởi cho những người có chức có quyền trong Triều đình Huế.

Với một hướng đi như thế, Nguyễn Trường Tộ chủ trương tôn trọng chế độ vua quan hiện hữu. Đối với các cuộc nổi dậy chống chế độ như vụ Lê Văn Phụng là một người công giáo, được các thừa sai Pháp và Tây Ban Nha ủng hộ. Nguyễn Trường Tộ không những không theo, mà còn chống đối, coi đó là phản nghịch, là Thắng Quảng (Xem di thảo số 3 ).

Nguyễn Trường Tộ đã nói rõ hơn lập trường của mình trong bài “Vua là quý, quan là trọng” (Di thảo số 13, tháng 5-1866). Ông đã viện dẫn tất cả lý lẽ của Đông, Tây để cổ vũ cho việc duy trì và củng cố trật tự xã hội hiện hữu.

Có lúc ông có vẻ hơi cường điệu khi nói rằng: “Người xưa có nói dân là gốc của nước. Nói như vậy cũng chưa đúng. Tôi cho rằng vua quan là gốc của nước. Vì không có vua quan thì chẳng bao lâu dân sẽ loạn, tranh nhau làm trưởng, giành giật lẫn nhau, tàn sát lẫn nhau, oán thù lẫn nhau. Cho nên nước dù có vua bạo ngược còn hơn không vua”.

Tuy nhiên cần đặt văn bản này trong bối cảnh lịch sử của nó. Nguyễn Trường Tộ là người biết tương đối rõ tình hình bất ổn của Triều đình. Trong bài Thiên hạ đại thế luận (Di thảo số 1, tháng 4-1863), ông đã nói: “Hiện nay tình hình trong nước rối loạn, Trời thì sanh tai biến để cảnh cáo, đất thì hạn hán tai ương, tiền của sức lực của dân đã kiệt quệ, việc cung ứng cho quân binh đã mệt mỏi, trong Triều đình quần thần chỉ làm trò hề cho vui lòng vua, che đậy những việc hư hỏng trong nước, ngăn chận những bậc hiền tài, chia đảng lập phái khuynh loát nhau, những việc như vậy cũng đã nhiều; ngoài các tỉnh thì quan tham lại nhũng xưng hùng xưng bá, tác phúc tác oai, áp bức tàn nhẫn kẻ cô thế, bòn rút mỡ dân, đục khoét tủy nước, việc đó đã xảy ra từ lâu rồi. Những kẻ hận đời ghét kẻ gian tà, những kẻ thất chí vong mạng, phần nhiều ẩn núp nơi thảo dã, chính là lúc Thắng Quảng thừa cơ nổi dậy”. Vua Tự Đức lại là thứ lập, nên sau những âm mưu lật đổ của Hồng Bảo (1854) và Hồng Tập (1864), luôn luôn sống trong một tâm trạng sợ sệt; trong đêm 16 rạng 17 tháng 9-1866, quân nổi dậy của Đoàn Trưng và Đoàn Trực đã vào tới tận cửa Hoàng gia... Nguyễn Trường Tộ thấy rõ ràng chính tình trạng rối ren lo sợ đó đã làm tê liệt mọi sáng kiến của Triều đình. Theo ông thì: “Bậc làm vua biết rõ cái thế trường cửu đã có, không có bụng nghi ngờ bề tôi ở dưới: kẻ làm dân biết cái lợi hại của việc trị việc loạn nên không có cái chí phạm thượng. Trên dưới tự mình không nghi cũng không ngờ lẫn nhau. Mọi việc gì đều có phó thác rõ ràng, người nhận lãnh vui lòng, không có điều gì tối tăm, lo lắng, cho nên dễ đi đến chỗ đúng đắn, dễ bày tỏ, dễ cởi mở, dễ phân giải, tất cả đều do thật lòng tin tưởng nhau, cho nên dù có sự bất bình cũng tin nhau, không nỡ trách cứ hà khắc. Được như vậy là đều do không nghi kỵ gì nhau mà ra. Nếu đã nghi thì hại đến lòng tin. Không tin tưởng thì đa kỵ, đa kỵ thì lụy hại đến trí khôn; trí bị tổn hại thì dễ bị hỏng việc; việc hỏng thì sinh hại, hại sinh thì có lắm chuyện lo buồn; lo buồn nhiều thì tâm loạn rồi sinh ra lắm sự sợ hãi; sợ hãi nhiều thì khí chất kém đi mà sinh ra nhu nhược; nhu nhược thì mọi việc chần chừ do dự không dám quyết đoán...” (Di thảo số 13).

Do đó mà Nguyễn Trường Tộ mong có một sự ổn định về chính trị. Có lẽ Nguyễn Trường Tộ không đặt vấn đề lựa chọn chế độ chính trị, quân chủ hay dân chủ, dân chủ tư sản hay dân chủ nhân dân, như chúng ta quen nói ngày nay. Ông chỉ thấy là cần có một người nắm giềng mối quốc gia. Và người đứng đầu quốc gia đó phải phục vụ lợi ích của toàn dân: “Vua có bổn phận của vua, quan có bổn phận của quan, dân có bổn phận của dân. Người quý kẻ tiện không cướp đoạt của nhau (...) Nếu biết dựa vào nhau và nhờ vào thế của nhiều người, sao cho mọi người đều coi trọng việc công và lòng người đều tôn kính bề trên, như Giả Nghị nói: Gieo vào lòng người sự tôn kính, thì thiên hạ không có loạn. Vì rằng danh đã định, vị đã lập, lý đã chính, thế đã đồng, các nước đều như vậy cả, lẽ nào một nước ta lại có thể trái với các nước, đứng riêng một mình được sao?

Nói tóm lại là, về chính trị, Nguyễn Trường Tộ không đề nghị thay đổi gì cả. Ông chỉ muốn củng cố trật tự xã hội hiện hữu. Trong Tế cấp bát điều (Di thảo số 27, 15-11-1867), ông có đề nghị sát nhập một số tỉnh huyện để tinh giản biên chế và tăng lương cho các viên chức, như chúng ta nói ngày nay. Ông nói: “Hãy xem tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc có thể lớn bằng một lần rưỡi nước ta. Hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây hợp lại có thể gấp đôi nước ta. Một huyện của Trung Quốc có thể tương đương một tỉnh nước ta. Trên thế giới có nhiều nước phân chia tỉnh huyện còn lớn hơn của Trung Quốc nữa (...) vậy xin gấp rút xét xem địa thế, hợp hai ba tỉnh làm một tỉnh, hoặc ba bốn huyện làm một huyện, lấy số lương dư ra cấp thêm cho các quan hiện chức. Họ đã được cấp lương tiền đầy đủ để giúp họ giữ được thanh liêm, bấy giờ nếu họ không thanh liêm mới có thể trách. Tôi tính lương tri huyện mỗi ngày không quá ba, bốn thạch (mỗi thạch khoảng 60 - 70 đồng tiền), như vậy nuôi một người còn không đủ huống chi nuôi một gia đình nhà quan. Đã biết rõ thiếu hụt mà cứ đem lời suông khuyên người ta thanh liêm, như thế là ngầm để cho người ta tham nhũng (...) Tôi thấy lương bổng một năm, tính hết tất cả các khoản của một Lục bộ đại thần nước ta không bằng hai ngày rưỡi lương của một nguyên soái nước Pháp. Một ngày lương của một Tổng đốc nước Anh tương đương một năm lương của một quan đại thần nước ta. Vì vậy người phương Tây có nói: “Các quan lại nước Nam, trừ những người quá tham ô không nói, còn bao nhiêu những người khác thường thường sau khi xong công việc họ nhận lãnh của biếu xén, tạ ơn, điều đó cũng không đáng trách” (...) Các nước ngoài nghe quan lại nước ta lương bổng ít ỏi như vậy họ rất chê cười và tựa hồ họ không thể hiểu nổi tại sao lại có thể như thế được. Vì vậy tôi xin đề nghị lấy những của cải phù phiếm xa hoa trong dân gian để thêm lương cho các quan binh. Đó là lý do hết sức chính đáng (các nước phương Tây cũng tăng thu bằng cách đó để cấp thêm cho quan binh). Nếu vậy mà họ còn tham ô, mới có thể trách được”.

Để quản lý quốc gia, Nguyễn Trường Tộ, trong Tế cấp bát điều, điều thứ 5 và 7, đề nghị vẽ bản đồ cương giới cũng như điều tra dân số và làm thống kê về tất cả mọi mặt sinh hoạt của đất nước. Ông nói: “Nay xin vẽ bản đồ tất cả các xứ trong nước. Về địa phận mỗi tỉnh, huyện, xã, thôn, phường, sách, động, trang phải đo đạc lại hết cho phù hợp bốn bên, xa gần, rộng hẹp, đồng thời mô tả tình thế mặt đất, như tôi đã nói ở trên, rồi ghi chú rõ ràng vào bản đồ cả nước. Trong bản đồ phải có thuyết minh để thấy rõ các mối liên lạc. Vẽ bản đồ phải thực hiện nhiều loại, có loại vẽ phân tích ra từng phần, có loại vẽ tổng hợp chung tất cả các phần vào một (như lối vẽ của Tây phương), nhưng nói chung các bản đồ đều phải lấy độ số bằng dặm vuông để dễ suy đoán (khoản nay tôi có biết ít nhiều).

(…)

“Nay xin lập sổ bộ thống kê lại đầy đủ không luận trai gái, già trẻ. Việc này giao trách nhiệm cho tri huyện và tổng lý phải ghi rõ ràng trình lên. Như chính quán bao nhiêu, ngụ cư bao nhiêu, người học chữ bao nhiêu, làm thợ bao nhiêu, buôn bán bao nhiêu, bao nhiêu người không có nghề nhất định, bao nhiêu người mồ côi cha mẹ, góa vợ góa chồng, bao nhiêu người tàn tật, bao nhiêu quan, binh, chức, sắc bao nhiêu người làm thầy thuốc, thầy bói số. Mỗi năm đều ghi rõ ở dưới là còn tiếp tục hành nghề cũ hay đã đổi nghề thác. Cũng phải ghi rõ mỗi nhà sinh được bao nhiêu trai gái, chết vì lý do gì
”.

Nguyễn Trường Tộ cũng đề nghị lập thêm bộ Nông nghiệp, bộ Ngoại giao (trước chỉ có 6 bộ: Bộ Binh, Bộ Lại, Bộ Lễ, Bộ Công, Bộ Hình, Bộ Hộ). Ông cũng đề nghị là Tòa án phải được độc lập: Nhà vua chỉ có quyền ân xá, chứ không có quyền kết án.
. DÙNG QUỐC ÂM

Để cho nền giáo dục được phổ biến dễ dàng và rộng rãi trong nhân dân, Nguyễn Trường Tộ chủ trương phải có quốc âm, tức là chữ viết mà đọc lên ai cũng hiểu, dẫu không biết đọc cũng hiểu. Chứ chữ viết chính thức của nước ta lúc bấy giờ là chữ Nho, chữ Hán, mà “về phát âm đã không theo đúng giọng Trung Quốc, cũng không phải tiếng phổ thông của nước ta. Âm vận của chữ này chỉ có ai học mới biết, không học thì nghe cũng như vịt nghe sấm mà thôi”. Tuy nhiên để có chữ viết theo chữ quốc âm, ông đề nghị “cứ lấy chữ Hán chuyển đọc ra quốc âm, không cần học nghĩa... Thí dụ như chữ “thực phạn” thì đọc là “ăn cơm”...

Ông nói: “Nay lấy chữ Hán đọc ra quốc âm, thì khi đọc lên ai nghe cũng hiểu, có phải vừa dễ dàng vừa bớt được bao nhiêu phiền phức không? Tôi tính quốc âm ta ước chừng hơn một vạn tiếng, trong đó chỉ có lối ba ngàn tiếng không thể viết như chữ Hán. Trường hợp đó ta dùng những chữ Hán tương tự rồi thêm hiệp vần vào một bên mà thôi. Còn sáu, bảy ngàn tiếng đã viết được như chữ Hán thì cứ viết, chỉ đọc như quốc âm thôi. Đó gọi là “chữ Hán quốc âm” (…) Như vậy người học sau này chỉ học mặt chữ thôi, không phải tốn nhiều công phu học cái tiếng chẳng phải Hán, chẳng phải ta, có phải giải quyết được dễ dàng những việc khẩn cấp mà thu được lợi ích rất lớn không? Bởi vì sự học có công dụng lớn cho quốc dân. Khi sự học tập phải khó khăn rắc rối thì cả nước phải chịu sự khó khăn ấy đời nọ đến đời kia chứ đâu phải chuyện nhỏ”.

Ông cũng đề nghị là “gộp hết tiếng ta lại chia thành môn loại, làm tự điển, trước tiên ban hành trong các cơ quan chính quyền và trường học cho người học dễ dàng sử dụng. Khi nào chữ Hán đã được đọc thành âm tiếng ta rồi thì bất cứ ai biên chép việc công việc tư đều phải dùng thứ chữ đã ban hành, không được thay đổi. Còn các nhà văn, ai muốn dùng chữ Hán theo âm Nho tùy ý, nhưng trong công việc làm thì phải dùng thứ chữ Triều đình đã ban hành”.

Nguyễn Trường Tộ là người công giáo. Ông thừa biết rằng chữ quốc ngữ, theo mẫu tự La tinh, được sử dụng phổ biến trong giới công giáo từ thế kỷ 17-18, là một mẫu tự đơn giản và dễ học hơn “chữ Hán quốc âm” nhiều. Nhưng ông đã không đề nghị lấy chữ Quốc ngữ làm chữ viết cho cả nước. Có lẽ ông đã giải thích điều đó khi ông nói: “Chả lẽ nước ta không có ai giỏi có thể lập ra một thứ chữ viết tiếng ta hay sao? Vì ta dùng chữ Nho đã lâu nên không cần thay đổi tất cả, sợ làm cho người ta lạ tai lạ mắt”.

Nguyễn Trường Tộ cũng đã không nói gì đến chữ Nôm là một thứ Quốc âm được hình thành từ thời Phùng Hưng (Bố Cái Đại Vương) thế kỷ thứ 8, và phát triển với Hàn Thuyên, Nguyễn Sĩ Cố, Chu Văn An, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu... Chữ Nôm cũng được sử dụng rộng rãi trong giới công giáo từ thế kỷ 17-18.... Chữ Nôm nói đúng ra cũng còn phức tạp. Bởi vì một chữ Nôm thường được cấu tạo bằng hai chữ Hán, một chữ lấy âm để chỉ cách đọc và một chữ lấy nghĩa. Thí dụ muốn đọc hay viết chữ Đá nghĩa là hòn đá phải biết chữ Đa (nghĩa là nhiều) và chữ Thạch (nghĩa là hòn đá). Chữ Nôm viết chữ Đá là hòn đá gồm hai phần: Một bên chữ Đa để chỉ cách phát âm, một bên chữ Thạch để nói nghĩa.

Trong việc sử dụng “chữ Hán quốc âm”, Nguyễn Trường Tộ đã tách biệt giữa âm và ngữ trong cách ghi nhận tiếng nói và Nguyễn Trường Tộ đã chọn cách ghi âm. Theo ông, hệ thống chữ viết không gì khác hơn là những ký hiệu ghi nhận âm thanh của tiếng nói, không cần mang dấu hiệu của ý nghĩa trong các ký hiệu đó. Ký hiệu chỉ cần giản dị và chỉ là phương tiện để ghi nhớ tiếng nói mà thôi.

Như chúng ta biết tiếng Trung Quốc cũng như tiếng ta trên cơ bản là tiếng đơn âm. Đơn âm đòi hỏi có dấu giọng. Trong khi tiếng Trung Quốc chỉ có 4 thanh: Bình, Thượng, Khứ, Nhập thì tiếng ta có lợi điểm đến 6 giọng: 0, \, /,.,?, ~, Nguyễn Trường Tộ đã biết lợi dụng thế mạnh đó của tiếng Việt để chủ trương dùng chữ viết theo lối ký âm mà không sợ trùng âm như trường hợp tiếng Trung Quốc. Chính vì thế mà Nguyễn Trường Tộ đã gọi là chữ Quốc âm. Chữ Quốc âm là thứ chữ ghi âm thanh tiếng nói của nước mình. Cũng do đủ âm mà chúng ta đã sử dụng được mẫu tự Latinh làm chữ quốc ngữ của nước ta, trong lúc Triều Tiên, Nhật Bản và Trung Quốc do thiếu âm mà qua nhiều thử nghiệm vẫn là ước mơ chưa thực hiện được.
ĐỜI SỐNG VĂN HÓA

Nguyễn Trường Tộ đề nghị lập nhà in, xuất bản sách báo, để nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân, nhưng đồng thời cũng phải kiểm soát, hạn chế, cấm đoán các loại sách nọc độc. Ông nói: “Xin đem các tập Ngự chế và các sách của Hàn Lâm, sách nào hợp với thời vụ ra ban hành. Còn kinh, sử, tử, truyện chỉ dùng để khảo nghiệm một vài việc mà thôi. Và cũng xin đặt lệ cho các hiệu sách trong nước, nếu muốn khắc bản in, phải theo qui định của Triều đình cho sách nào in trước, sách nào in sau. Ngoài ra cần ấn hành một tờ nhật báo đăng tải các chiếu, chỉ, sớ, dụ, những việc làm của những bậc có tiếng tăm, những công vụ quốc gia hiện thời, cho học sinh đọc để biết công việc trong nước. Đó cũng là một ích lợi lớn, (ích lợi ấy rộng rãi như mưa móc thấm nhuần, không thể chỉ ra từng cái được, làm sẽ thấy ngay).

“Còn như những tiểu thuyết, truyện hoang đường, bùa chú, sấm vĩ, những chuyện ngông láo không kiêng dè và những chuyện truyền miệng về đoán định cơ trời khí số, lưu truyền trong dân gian của Trạng Trình, Trạng Lượng, làm hư hỏng lòng người rất nhiều, gây dao động bất an trong dân chúng (tôi rất đau lòng nhức óc đụng chạm với người ta và phải vất vả với nhiều người về những chuyện này lắm). Những chuyện đó không được truyền thuật, đàm luận hoặc in ra xuất bản.

“Tôi thấy bên Trung Quốc có nhiều người thấy chuyện đó là bậy, bèn quyên tiền mua những sách ấy đốt đi. Ý nghĩ của họ tốt, nhưng việc làm của họ chỉ đáng một chén nước dập tắt sao nổi một xe củi, nào có bổ ích gì? Chỉ cấm ngặt họa may mới diệt được gốc mà khiến cho lòng người chú trọng vào cái học thiết thực cho những công việc hiện tại. Như thế mới có thể dần dần tiến tới chỗ tốt đẹp và ích lợi
” (Di thảo số 27).

Nguyễn Trường Tộ là một người có một óc quan sát rất sắc bén. Không có chuyện bất công, sai, trái, dầu nhỏ dầu lớn nào mà ông có thể bỏ qua. Có nhiều việc được coi như thông thường, đương nhiên nhưng ông đã vạch ra yêu cầu sửa đổi.

Như về “nhiêu sinh” là những người hễ đi học là được miễn thuế đinh, miễn xâu, miễn lính. Ông nói: “Chính tôi trông thấy có nhiều người khuyên nhau rằng: Hãy ráng học chữ nghĩa, dù không đỗ đạt làm quan cũng được miễn lính tráng, miễn xâu thuế, thong thả suốt đời như đàn bà (…). Theo thống kê tỉnh Nghệ An, số khóa sinh đến vài ba nghìn người mà số nhiêu sinh trong dân chúng còn gấp bội hơn nữa. Trong số đó những người sau này ra làm việc nước nhiều lắm vài ba trăm người là cùng, còn lại là khóa sinh, nhiêu sinh cho đến già. Một tỉnh mà đã có lắm người nhàn như thế, hợp cả nước con số sẽ đến một tỉnh nhỏ”. (Di thảo số 27).

Trong văn bản Về cải cách phong tục (Di thảo số 47, ngày 29- 4-1871) Nguyễn Trường Tộ đã lưu ý Triều đình về những việc rất nhỏ nhưng là những việc quan trọng đối với một dân tộc muốn có nếp sống văn hóa mới: Như vệ sinh chung quanh nhà quan cũng như nhà dân ở nơi đô thị, vệ sinh dọc đường sá, không đổ rác, không phóng uế bừa bãi. Ông cũng chống lại luật lệ không cho dân đi xe, đi giày.
 

atlas06

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-451932
Ngày cấp bằng
9/9/16
Số km
4,469
Động cơ
232,230 Mã lực
Tuổi
38
CÔNG TÁC XÃ HỘI

Dưới triều phong kiến nhà Nguyễn, việc chăm lo cho những người bất hạnh trong xã hội, như nuôi trẻ mồ côi, giúp đỡ người tàn tật già yếu neo đơn, nghèo đói, nếu có cũng không có hiệu quả và không thành hệ thống. Nguyễn Trường Tộ nhận xét: “Tôi thấy hiện nay Triều đình có xuất công quỹ lập viện tế bần để nuôi người nghèo khổ. Nhưng vì người thừa hành không làm hết nhiệm vụ, nên chỉ có danh nghĩa mà thực tế những người nghèo khổ được hưởng sự cứu giúp chẳng bao nhiêu”. (Di thảo số 27).

Ở các nước phương Tây, cho tới cuối thế kỷ 19, các công tác xã hội thường do các giáo hội đảm trách. Người Pháp, ngay sau khi vừa mới thiết lập cơ sở ở Sài Gòn, đã xin mời các nữ tu dòng Thánh Phaolô tới lo lập viện mồ côi. Chính Nguyễn Trường Tộ đã góp phần xây dựng cơ sở của dòng Thánh Phaolô vào những năm 1862-1864, nên ông luôn luôn nghĩ tới việc nhờ Giáo hội Công giáo góp phần vào các công cuộc xã hội ở nước ta.

Trong cuối bài về Học tập thực dụng trong nhân dân (Di thảo số 18; 1-9-1866), ông đề nghị ở mỗi tỉnh lập một viện dục anh giao cho giám mục quản lý. Ông xin đứng ra thu xếp việc này. Ông nói: “Nước ta hiện nay đang bận nhiều việc lớn chưa thể thực hiện hết và cũng khó chọn được người đứng ra làm việc này. Nhưng thiết nghĩ bỏ phí mất một người tức phí mất một phần của đất nước”.

Trong Tế cấp bát điều, điều thứ 8, Nguyễn Trường Tộ lại đề nghị:

“Nếu Triều đình cho rằng việc này nên làm thì sẽ nhờ các giám mục mời người đến, ở mỗi tỉnh một nhà nuôi trẻ, không bao lâu sẽ thấy kết quả ngay. Giả như các giám mục có giao ước trước một cách rõ ràng rằng: “Nếu các trẻ mồ côi lớn khôn sẽ được mang về Tây làm dân bên ấy , tôi nghĩ những trẻ mồ côi của ta không người nuôi nấng sớm muộn cũng chết thì để họ nuôi lấy cũng được. Huống chi nhà nuôi trẻ dù lập ở đâu, bọn trẻ con khi lớn khôn sẽ phân tán tại các nơi đó. Dân là dân của ta, có người bỏ tiền công ra nuôi dạy, xưa chúng là người bỏ rơi mà sau được nên người. Những người làm mẹ nuôi chúng nhiều người ở mãi đến già chết trên xứ ta. Như thế đủ chứng tỏ tấm lòng từ thiện của họ như thế nào!”.

Cũng trong Tế cấp bát điều, điều thứ 7, khi nói về điều tra dân số, kê khai hộ khẩu, Nguyễn Trường Tộ cũng đề nghị lọc ra những kẻ bất lương, để đem đi lao động cải tạo, bảo vệ trật tự an ninh xã hội. Ông nói:

“Những bọn tù tội ăn của Nhà nước, thì phải làm việc, không nên để chúng ở không. Vì ăn ở không là gốc của mọi tội lỗi. Cứ xem những người thường phạm thì biết chúng đều là những kẻ ăn chơi biếng nhác, không muốn làm việc, hoặc đam mê hát xướng, hoặc không có chuyện gì cần thiết mà cứ bôn tẩu ngược xuôi, cho đến những bọn côn đồ đàn đúm nhau bài bạc rượu chè rồi sinh sự điêu ngoa bày mưu kiện tụng, cho đến những bọn bói khoa, xem phong thủy, bùa chú. Lại có những kẻ mượn cớ dạy học kiếm ăn thế mà lặn lội không sót một chỗ nào, lời nói và hành động của họ gây nhiều tai hại và rối loạn trong dân chúng.

“Vậy sau khi đã kiểm tra nhân số một cách rõ ràng chắc chắn rồi, hãy tầm nã rộng rãi những bọn này tập trung lại quản thúc gắt gao, tổ chức thành đội ngũ, cấp phát áo cơm, rồi sung vào làm việc binh dịch. Phải bắt chúng cực nhọc thể xác, khốn đốn tinh thần, chúng mới hồi đầu tỉnh ngộ. Hoặc dời cả gia đình chúng đến những bìa rừng xa xôi để khai phá đất đai, phá núi mở đường. Nếu làm được sẽ cho chúng được quyền hưởng dụng vĩnh viễn (...)

“Những chỗ sát biên giới phía Tây nước ta cũng nên dần dần chỉnh đốn lại. Những làng nào, xã nào có dân nghèo không kế sinh nhai thường bỏ đi làng khác và những bọn vô lại đầu gành xó chợ đều phải lùa đi hết ra khỏi làng. Tôi thấy trong dân có những hạng người làng xóm không ưa, do từ mặc cảm đó họ gây nhiều tội lỗi. Nếu những người này chết hoặc đi đâu cho khuất mắt thì ai cũng mừng. Lại có nhiều bọn ăn cắp móc túi. Phố chợ nào cũng có bọn này, bọn nào có địa phận ấy. Có bọn còn câu kết ăn chia với hương hào làm cho dân chợ khổ mà dân những chỗ buôn bán lại còn khổ hơn. Bọn người bất nhân này đã là giặc dã man đối với dân chúng, sao không dẹp yên đi, đưa hết bọn chúng ra ngoài biên giới cho hợp với ý muốn của dân! Hãy chọn trong bọn chúng những tay quá quắt nhất mà không nhà không cửa, tập trung quản thúc bắt đi làm các dịch vụ công cộng như đào kênh, vỡ đất, trồng cây, v.v... Đó là phương pháp hay nhất. Đối với bản thân chúng được lợi ích vì cải tạo tư tưởng hành động, dân chúng thì được yên ổn và quốc gia thì được lợi ích không thể kể hết”.
NGOẠI GIAO

Vấn đề ngoại giao, chủ yếu là vấn đề đối phó với cuộc xâm lược của Pháp, vốn là mối bận tâm lớn và liên lỉ của Nguyễn Trường Tộ: Hầu như trong bản văn nào của ông gởi lên Triều đình Huế, từ 1861 cho đến năm 1871, cũng đều trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến vấn đề này. Bởi vì nếu thế ngoại giao không ổn và việc thu xếp với Pháp không xong, thì không thể nào tiến hành canh tân, phát triển đất nước được.

Đối với Nguyễn Trường Tộ vấn đề canh tân phát triển đất nước là vấn đề hàng đầu. Do đó Nguyễn Trường Tộ chủ trương mở rộng giao thương với các nước và tạm hòa với Pháp, tạm nhượng bộ Pháp.

TẠM NHƯỢNG BỘ PHÁP

Chủ trương này của Nguyễn Trường Tộ (tạm hòa với Pháp, tạm nhượng bộ Pháp), từ năm 1861 cho đến năm 1871 là nhất quán: Khi Pháp chỉ đòi nhượng cho chúng một cửa khẩu để tàu bè qua lại (năm 1861), ông khuyên Triều đình nên nhượng; khi Pháp đã chiếm ba tỉnh miền Đông với Hòa ước 5-6-1862, ông cũng khuyên Triều đình chấp nhận; sau khi Pháp chiếm trọn 6 tỉnh Nam kỳ (1863), ông cũng đề nghị với Triều đình Huế phải tạm chịu vậy.

Ngay trong văn bản đầu tiên, bài Nghị hòa (Hòa từ), gởi cho Nguyễn Bá Nghi năm 1861 cũng như trong bài Thiên hạ đại thế luận (Di thảo số 1) gởi Triều đình Huế năm 1863, Nguyễn Trường Tộ đã nói:

“Nay có đánh họ cũng không đi, hòa họ cũng không đi. Họ chỉ xin mình một miếng đất mà thôi. Nếu cứ kiên quyết không cho, họ sẽ lập mưu cướp hết, từ khách quay lại làm chủ, như thế là tiếc một mảnh đất mà đem cả nước trao cho họ. Nếu biết rõ, họ đã đến là không đi, họ ỷ thế vào những nước khác, thì đánh với họ tức là mất cái lớn không đáng mất mà còn tỏ ra mất đó là vì bất lực, không hợp tình, không kêu nài gì được, chi bằng hòa mà mất cái nhỏ không thể không mất mà còn tỏ ra mình ngoại giao biết điều và là việc hợp tình hợp lý có hơn không?

(…)

“Nhượng một tấc đất mà nhân dân được lợi vô cùng. Như thế chẳng phải là làm việc chung cho thiên hạ đó sao? Người xưa cũng làm như thế thôi. Không thể bỏ cách đó mà theo khác được. Thế là xoay chuyển một cái mà kẻ sống người chết đều chịu ơn, thật là sáng rõ, rõ như ánh sáng lửa rọi, chẳng còn hình tích gì đáng nghi nữa cả. Dân đã yên, sau sẽ khiến kẻ hiền tài vượt biển sang các nước lớn học cách đánh trận giữ thành, học tập trí xảo của thiên hạ, giao thiệp với họ lâu dài, mới biết lường sức đo tài, biết hết tình trạng của họ. Học cho tinh vi mới sinh kỹ xảo, rất mực kỹ xảo mới mạnh, bấy giờ sẽ dưỡng uy súc nhuệ, đợi thời hành động, mất ở phía Đông thì lấy ở phía Tây cũng chưa muộn gì”
. (Xem di thảo số 1).

Trong một văn bản viết giữa tháng 9-1871 (Di thảo số 52), ông lại nói:

“Nay việc khẩn cấp nhất của ta là trước hết phải giữ cho được cái gì chưa mất, còn việc mưu thu hồi 6 tỉnh là việc sau. Muốn giữ cái chưa mất, thì phải gấp rút thừa cơ, mà canh tân chính là căn bản để mưu thu hồi và giữ gìn. Nếu không canh tân để tiến bộ, thì dù có tạm thu hồi được, vá hôm nay mai lại rách, rốt cuộc cũng không thể không có chuyện xảy ra. Nếu nhất luật canh tân để tiến bộ thì việc giữ không khó, mà việc mưu thu hồi không chóng thì chày cũng có thể hy vọng được”.
http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=13703.40
 
Chỉnh sửa cuối:

nocex

Xe buýt
Biển số
OF-416726
Ngày cấp bằng
14/4/16
Số km
869
Động cơ
-105,999 Mã lực
Dài quá, em đọc từ từ:D
 

stevejob

Xe buýt
Biển số
OF-80477
Ngày cấp bằng
17/12/10
Số km
909
Động cơ
421,740 Mã lực
cụ chủ có bản full download ko ạ?
 

Leo Lee

Xe tăng
Biển số
OF-349459
Ngày cấp bằng
5/1/15
Số km
1,592
Động cơ
279,560 Mã lực
Người Nhật nguyên tắc Về tính nguyên tắc của người Nhật thì có rất nhiều chuyện bi hài. Ví dụ như trong bóng đá chẳng hạn. Ai cũng biết, bóng đá, bên cạnh kỷ luật chiến thuật còn có sự ngẫu hứng, sáng tạo của cầu thủ. Các cầu thủ Nhật Bản đôi khi chỉ làm được một nửa.

Có lần, ông Zico - lúc đó là huấn luyện viên trưởng đội tuyển Nhật Bản nhịn không được hỏi một cầu thủ sau một trận thua không đáng có trong khuôn khổ Giải vô địch bóng đá thế giới 2006 (World Cup 2006): "Tại sao trong pha bóng đó, bóng chỉ cách cậu có 1,2 bước chân, chỉ cần dấn lên là có thể làm nên chuyện mà cậu không làm !?".

Cầu thủ đó trả lời rằng: "Vì theo sơ đồ chiến thuật, khu vực đó đã ngoài vị trí được phân công của tôi". Ông Zico chỉ còn biết giơ cả hai tay...kêu trời.


Tính nguyên tắc của người Nhật được thể hiện mọi, mọi lúc, đặc biệt là trong công việc. Khi làm việc, cái gì đã là nguyên tắc thì cứ thế mà làm, không có ngoại lệ, thậm chí "Lục thân bất nhận".

Nếu bạn có phải giải quyết một thủ tục nào đó mà bị thiếu một thứ giấy tờ, tốt nhất đừng trình bày, kể lể dài dòng mất thời giờ mà nên quay về hoàn thành đầy đủ những thứ theo quy định, chắc chắn sẽ được giải quyết.

Hoặc nếu bạn trọ tại một khách sạn mà có quy định không tiếp khách trong phòng mà có người đến thăm, cho dù có là vợ hoặc chông của bạn chăng nữa thì cũng chỉ ngồi ở sảnh mà trò chuyện thôi. Chỉ cần vượt qua giới hạn là bị nhắc nhở ngay.

Tính nguyên tắc của người Nhật còn thể hiện ở sự tuân thủ pháp luật một cách tự giác. Ví dụ việc chấp hành tín hiệu giao thông chẳng hạn. Cho dù đêm khuya thanh vắng, không một bóng người, đèn đỏ vẫn là đèn đỏ, phải đỗ lại. Kể cả ô tô, xe máy, người đi bộ đều chấp hành nghiêm chỉnh.

Với sự tôn trọng pháp luật như vậy, Nhật Bản trở thành một trong những nước trật tự trị an tốt nhất, an toàn nhất trên thế giới. Xét cho cùng, tính nguyên tác này hoàn toàn văn minh và đáng học tập.

Người Nhật không ăn trộm

Có thể bạn ngạc nhiên, nhưng đấy là sự thật. Trộm ở đây là đột nhập nhà riêng để ăn trộm tài sản, và Nhật Bản có lẽ là một trong số rất, rất ít các nước, không có hiện tượng này. Thông thường trộm đột nhập để lấy tiền, vàng, nữ trang, ti vi, máy tính ... Nhưng nếu trộm mà đột nhập vào nhà người Nhật thì không những không lấy được gì mà có khi lại còn giúp cho chủ nhà.

Thật đấy! Bởi lẽ, tiền, vàng thì họ không để ở nhà mà gửi ở ngân hàng, còn ti vi, máy tính... thì có lấy cũng không bán được mà đem vứt đi thì phải trả phí vứt rác có khi lên tới hàng trăm USD, rồi lại còn bị coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội và sẽ bị nghiêm phạt. Nhân nói tới chuyện vứt rác phải trả tiền, tôi nhớ tới một chuyện rất buồn cười mà chính mắt mình trong thấy.

Số là, hôm đó tôi ra bãi xe cũ tại cảng Yokohama (cách thủ đô Tokyo khoảng 85 km về phia Tây) để tìm tư liệu viết bài. Tôi thấy có một người đàn ông trạc tuổi trung niên chạy một chiếc xe Honda Bently (loại này ở Việt Nam bấy giờ đắt lắm) còn khá mới vòng quanh bãi xe máy cũ đến cả chục vòng. Đang hơi ngạc nhiên thì thấy người này đột nhiên tăng ga rồi nhảy khỏi xe còn chiếc xe thì lao thằng vào bãi rác. Không cần hỏi cũng hiểu người này đi ... vứt xe trộm. Thế đấy, vứt xe trộm chứ không phải lấy xe trộm.

Theo thống kê của Cảnh sát Nhật Bản, từ năm 1985 đến nay không có vụ ăn trộm nào do người Nhật gây ra. Vẫn có những vụ đột nhập nhà riêng ăn trộm nhưng phần lớn thủ phạm là người nước ngoài đang sinh sống tại Nhật. Còn những vụ đột nhập nhà riêng do người Nhật gây ra thì không phải là để ăn trộm mà vì những mục đích khác.

Người Nhật sòng phẳng và thật thà

Ở Nhật,1 Yên chẳng mua được gì, nhưng khi mua bán một cái gì đó mà phải trả lại tiền thừa thì 1 Yên cũng được trả một cách cẩn thận. Cũng không ai chê 1 Yên là vô giá trị khi được trả lại mà không lấy. Đó là văn hóa.

Nếu bạn là nhân viên bán hàng siêu thị, xin đừng ngạc nhiên khi thấy một khách hàng Nhật Bản thắc mắc hoặc tỏ ra bất mãn khi bạn trả họ khoản tiền thừa khoảng 500~1000 đồng bằng ... kẹo như ở một số siêu thị của nước ta đã từng làm. Bởi, trong suy nghĩ của họ như vậy là không sòng phẳng.

Còn tính thật thà không tham của rơi của người Nhật,bản thân tôi đã chiêm nghiệm tới hai lần.

Lần thứ nhất là khi tôi mua nước ở máy bán hàng tự động. Do trời rét, mặc nhiều áo nên khi cất ví vào túi tôi đã đánh rơi mà không biết. Sau đó, tôi thấy có một người cứ lẽo đẽo theo sau cho đến khi tôi về đến tận cửa nhà mới bước vượt lên và hỏi có phải tôi đánh rơi ví hay không. Sau khi kiểm tra, xác nhận được đúng là ví của mình, tôi nhận lại và, theo thông lệ Nhật Bản, tôi định chia cho người đó một nửa số tiền có trong ví nhưng người đó kiên quyết không lấy mà chỉ yêu cầu tôi viết cho một giấy chứng nhận là... đã nhận lại ví của mình.

Lần thứ hai là một hôm tôi đi mua đồ về, nấu cơm xong mới nhớ là mình phải gọi một cuộc điện thoại mà danh thiếp của người cần gọi để trong ví. Tìm mãi không thấy ví đâu tôi mới nhớ mang máng là hình như để quên ở siêu thị nơi mình vừa mua đồ. Quay lại chỉ để cầu may thôi chứ trong thâm tâm thì tin mười mươi là mất rồi. Nhưng, "ngạc nhiên chưa..." cái ví của tôi vẫn còn đó trên cái bàn dùng để xếp đồ trong siêu thị. Khi tôi cầm lấy ví thì từ bốn phía có bốn nhân viên an ninh tiến tới yêu cầu tôi chứng minh đó là ví của mình. Điều này thì quá dễ vì trong ví của tôi luôn có Thẻ Nhà báo. Và sau đó tôi lại phải ký một văn bản chứng nhận là mình đã... tìm thấy ví của chính mình.

Qua câu chuyện của các nhân viên an ninh tôi mới biết là họ đã phát hiện ra chiếc ví ngay sau khi tôi rời siêu thị nhưng họ để nguyên với hy vọng là tôi sẽ quay lại. Việc yêu cầu tôi chứng minh đấy là ví của mình chỉ là thủ tục. Lúc đó tôi rất ngạc nhiên: tại sao một siêu thị tấp nấp những người mà không ai động đến cái ví dầy cộp trong rất ngon lành. Thú thật là lúc đó trong ví có khoản tiền tương đương khoảng 2000 USD - một con số không nhỏ với bất cứ ai.

Về sau hỏi ra mới biết sự thật thà không tham của rơi của người Nhật phần lớn là do bản chất của họ nhưng cũng có điều kiện cả đấy.

Bởi vì, khắp mọi nơi đều được giám sát bằng camera. Không chỉ trong siêu thị mà ngay cả trên đường phố cũng vậy. Nhiều khi thấy tiền, đồng hồ, nhẫn, dây chuyền... rơi trên đường mà không ai nhặt. Hỏi ra mới biết nguyên nhân chính là do trên đường có camera nên mọi hoạt động được ghi lại. Nếu nhặt được của rơi mà sau một thời gian nhất định không đem đến đồn cảnh sát để nộp sẽ bị coi là vi phạm pháp luật. Mà đem đến nộp thì mất thời gian, lại giống tôi, phải ký một loạt biên bản. Chi bằng cứ để nguyên chỗ, biết đâu khổ chủ quay lại và tìm thấy có phải tốt hơn không!

Từ chuyện này tôi lại liên tưởng tới những vụ trộm đồ tại các siêu thị Nhật Bản của người Việt Nam. Thật dại dột! Trông cả một siêu thị mênh mông, không người trông coi, có vẻ hớ hênh vậy thôi nhưng có camera giám sát cả đấy. Tôi biết có người sau khi trộm đồ tại một siêu thị tới ... 21 lần mới bị bắt. Không phải là không bị phát hiện ngay từ lần đầu mà bởi vì phải tới lần thứ 21 thì số tiền ăn cắp mới đủ mức... để truy tố.

Có lẽ bởi tính thật thà, sòng phẳng này mà người Nhật chúa ghét ăn cắp, theo đó người Việt Nam đang lao động tại một số vùng của Nhật Bản bắt đầu chịu thành kiến do hành động của "những con sâu bỏ rầu nồi canh".

Đôi điều hiểu biết lượm lặt được trên đây
Có 1 cái cụ chém gió, bóng đá ko có chuyện giới hạn khu vực phân công hoạt động kiểu cụ nói, nghe vô lí, tự cầu thủ điều chỉnh được việc họ phải làm, chả có ai đá bóng như cụ mô tả cả, chắc cụ chưa đá bóng bao h
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top