- Biển số
- OF-44803
- Ngày cấp bằng
- 28/8/09
- Số km
- 54,895
- Động cơ
- 1,126,545 Mã lực
“Chánh quán Gia Miêu Ngọai trang Thanh Hóa”– Miếu nhà Nguyễn
Đây là nơi phát tích của nhà Nguyễn
Đất Gia Miêu sinh Nguyễn Công Duẩn, công thần khởi nghĩa Lam Sơn (1418 – 1427), được vua Lê Thái Tổ phong Thái bảo hoành công. Tiếp các đời con, cháu, chắt, chút (Nguyễn Đức Trung – Nguyên Văn Lang – Nguyễn Hoằng Dụ – Nguyễn Kim…) đều lần lượt làm đại thần trong triều.
Từ sau đời Lê Thánh Tông (1442 – 1497), nhà Hậu Lê suy yếu dần, đến đời Lê Chiêu Tông (khoảng 1516 – 1522) thì bị Mạc Đăng Dung tiếm quyền. An Thanh Hầu Nguyễn Kim (con Nguyễn Hoằng Dụ) dựng cờ phò Lê diệt Mạc, lập con vua Chiêu Tông là Lê Duy Ninh lên ngôi (Lê Trang Tông, 1533 – 1548) khởi đầu thời Lê Trung Hưng. Nguyễn Kim (1467 – 1545) được phong làm Thượng phụ Thái sư Hưng quốc công, mộ táng tại núi Thiên Tôn thuộc đất Gia Miêu.
Nguyễn Kim có ba người con. Người con gái tên Ngọc Bảo, lấy Dực quận công Trịnh Kiểm, tức chúa Trịnh sau này. Người con trai cả là Nguyễn Uông, bị Trịnh Kiểm sát hại. Người trai thứ là Đoan quận công Nguyễn Hoàng (1525 – 1613), tương truyền theo lời khuyên của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, xin đi trấn thủ xứ Thuận Hoá (1558). Từ đó các chúa Nguyễn – hậu duệ của Nguyễn Kim lập ra xứ Đàng trong mở mang đất nước từ Thuận Hoá xuống tận mũi Cà Mau. Năm 1802, người cháu đời thứ 11 của Nguyễn Kim là Nguyễn Phúc Ánh thống nhất hai xứ Đàng trong và Đàng ngòai thành nước Việt Nam như ngày nay. Sau khi lên ngôi, lấy niên hiệu là Gia Long, vua Gia Long và các vua Nguyễn sau đó xây dựng ở Gia Miêu một khu lăng miếu hết sức uy nghi đẹp đẽ để thờ phụng tổ tiên.
Đây là nơi phát tích của nhà Nguyễn
Đất Gia Miêu sinh Nguyễn Công Duẩn, công thần khởi nghĩa Lam Sơn (1418 – 1427), được vua Lê Thái Tổ phong Thái bảo hoành công. Tiếp các đời con, cháu, chắt, chút (Nguyễn Đức Trung – Nguyên Văn Lang – Nguyễn Hoằng Dụ – Nguyễn Kim…) đều lần lượt làm đại thần trong triều.
Từ sau đời Lê Thánh Tông (1442 – 1497), nhà Hậu Lê suy yếu dần, đến đời Lê Chiêu Tông (khoảng 1516 – 1522) thì bị Mạc Đăng Dung tiếm quyền. An Thanh Hầu Nguyễn Kim (con Nguyễn Hoằng Dụ) dựng cờ phò Lê diệt Mạc, lập con vua Chiêu Tông là Lê Duy Ninh lên ngôi (Lê Trang Tông, 1533 – 1548) khởi đầu thời Lê Trung Hưng. Nguyễn Kim (1467 – 1545) được phong làm Thượng phụ Thái sư Hưng quốc công, mộ táng tại núi Thiên Tôn thuộc đất Gia Miêu.
Nguyễn Kim có ba người con. Người con gái tên Ngọc Bảo, lấy Dực quận công Trịnh Kiểm, tức chúa Trịnh sau này. Người con trai cả là Nguyễn Uông, bị Trịnh Kiểm sát hại. Người trai thứ là Đoan quận công Nguyễn Hoàng (1525 – 1613), tương truyền theo lời khuyên của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm “Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân”, xin đi trấn thủ xứ Thuận Hoá (1558). Từ đó các chúa Nguyễn – hậu duệ của Nguyễn Kim lập ra xứ Đàng trong mở mang đất nước từ Thuận Hoá xuống tận mũi Cà Mau. Năm 1802, người cháu đời thứ 11 của Nguyễn Kim là Nguyễn Phúc Ánh thống nhất hai xứ Đàng trong và Đàng ngòai thành nước Việt Nam như ngày nay. Sau khi lên ngôi, lấy niên hiệu là Gia Long, vua Gia Long và các vua Nguyễn sau đó xây dựng ở Gia Miêu một khu lăng miếu hết sức uy nghi đẹp đẽ để thờ phụng tổ tiên.
Chỉnh sửa cuối: