[Funland] Thảm hoạ tàu ngầm Kursk bị chìm hôm 12/8/2000

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
2. K-129 số hiệu 594 là tàu ngầm diesel nhưng mang tên lửa đạn đạo hạt nhân
K-129 (2).jpg

Từ những năm 1960, tàu ngầm có khả năng mang tên lửa đạn đạo hạt nhân đã trở thành một phần không thể thiếu của hải quân hai siêu cường Mỹ và Liên Xô. Do tầm hoạt động ngắn, những chiếc tàu ngầm đầu tiên của Liên Xô được thiết kế để trang bị vũ khí như vậy buộc phải trực chiến gần bờ biển kẻ thù tiềm tàng là Mỹ. Ngày 24/2/1968, tàu ngầm điện-diesel K-129 mang hai ngư lôi và ba tên lửa mang đầu đạn hạt nhân, do Đại tá Vladimir Kobzar chỉ huy, xuất phát thực hiện nhiệm vụ từ Vịnh Avacha ở Kamchatka.
Chuyến đi định mệnh
K-129 vừa trực chiến chỉ một tháng rưỡi trước đó, trở lại Thái Bình Dương lần này là do phải thay thế một chiếc tàu ngầm tương tự bị hỏng. Hành trình của K-129: bí mật đi về phía nam theo kinh tuyến 162 đến vĩ tuyến 40, và từ đó quay về hướng Đông - nơi có một khu vực mà máy bay tuần tra của Mỹ không bay tới. Lần đầu tiên tàu liên lạc vào ngày 26/2, chuyến đi diễn ra bình thường; lần tiếp theo, theo kế hoạch sẽ diễn ra vào ngày 8/3, nhưng không có liên lạc
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
K-129 (3).jpg

Xác chiếc K-129 đưới đáy Thái Bình Dương (ảnh của Mỹ chụp)
Các hoạt động tìm kiếm của Hải quân Xô Viết ngay lập tức được triển khai. Máy bay trinh sát đã hơn 280 lần xuất kích; vùng biển nơi được cho là tàu ngầm bị nạn đã được rà soát với một nhóm 30 tàu, bao gồm cứu hộ, nghiên cứu hải dương học và một tàu phá băng. Họ lấy mẫu nước, với hy vọng tìm ra dấu vết của phóng xạ, tìm kiếm những vết dầu loang trên bề mặt đại dương. Cuộc tìm kiếm được triển khai trong 73 ngày, nhưng khu vực có thể xảy ra thảm họa quá rộng lớn và Liên Xô không có bất kỳ phương tiện nào có năng lực tốt hơn để có thể làm sáng tỏ số phận của tàu ngầm mất tích.
Toàn bộ vụ việc được bảo mật nghiêm ngặt, không có thông cáo nào được đưa ra trên các phương tiện truyền thông. Mùa thu năm 1968, thân nhân của các thủy thủ được thông báo rằng người thân của họ đã hy sinh “khi đang làm nhiệm vụ”.
Liên Xô đã che giấu sự thật về sự biến mất của tàu ngầm với toàn thế giới, lặng lẽ xóa chiếc K-129 khỏi Hải quân. Tuy nhiên, bất chấp mọi nỗ lực của phía Liên Xô để giữ kín thảm kịch ở Thái Bình Dương, người Mỹ đã biết về vụ việc
 
Chỉnh sửa cuối:

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
K-129 (6).jpg

Sau khi phân tích các dữ liệu có được, các chuyên gia Mỹ ghi nhận một “âm thanh của một vụ nổ đơn” ở một vị trí có điều kiện với diện tích 30 dặm vuông rất gần với kinh tuyến thứ 180, 1.230 km từ Kamchatka và 1.100 km về phía Bắc của đảo san hô Midway. Theo những dữ liệu này, K-129 đã bị nạn ngày 7/3, một ngày trước phiên liên lạc tiếp theo.
Chiến dịch Azorian
Tháng 7/1968, Hải quân Mỹ bắt đầu chiến dịch bí mật đầu tiên mang mật danh “Sand Dollar”. Từ căn cứ nổi tiếng Trân Châu Cảng, chiếc tàu ngầm độc đáo USS Halibut được thiết kế cho các hoạt động đặc biệt với các thiết bị sóng siêu âm, máy ảnh lặn và một phương tiện dưới nước với video và máy ảnh tĩnh, đã khởi hành đến khu vực do SOSUS xác định.
Tháng 8/1968, những gì còn lại của K-129 đã được phát hiện ở độ sâu hơn 5 km. Tọa độ chính xác của vị trí của K-129 vẫn là một bí mật nhà nước của Mỹ. Thân tàu bị biến dạng nghiêm trọng, phần đuôi nằm cách mũi tàu 100 m. USS Halibut đã chụp hơn 20.000 bức ảnh về con tàu xấu số, gửi đến trụ sở CIA ở Langley để phân tích.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
Việc Chính phủ Liên Xô không công bố K-129 bị đắm dẫn đến thực tế là nó trở thành “tài sản vô chủ”, do đó, bất kỳ quốc gia nào phát hiện ra chiếc tàu ngầm mất tích sẽ được coi là chủ sở hữu của nó. Đầu năm 1969, CIA đã bắt đầu thảo luận về khả năng bí mật trục vớt các thiết bị có giá trị từ tàu ngầm của Liên Xô từ đáy Thái Bình Dương. Trong Chiến tranh Lạnh, cả hai bên đã không tiếc công sức và nguồn lực của mình để tìm ra những bí mật quân sự của “kẻ thù tiềm tàng”.
Người Mỹ quan tâm thiết kế và vũ khí trên tàu (ICBM R-21 và đầu đạn ngư lôi), hệ thống liên lạc vô tuyến, mật mã, tài liệu, hệ thống chỉ định mục tiêu và định vị. Ban đầu, người Mỹ dự định mở thân tàu K-129 với sự hỗ trợ của các phương tiện dưới nước được điều khiển từ xa và lấy các thứ cần thiết từ tàu ngầm mà không cần trục vớt.
Năm 1970, tại một cuộc họp, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Melvin Laird, Cố vấn An ninh Quốc gia Henry Kissinger, và các chuyên gia Hải quân và CIA, người ta quyết định trục vớt K-129. CIA và Hải quân đã nhờ Quốc hội hỗ trợ tài chính, Quốc hội giao cho Tổng thống Nixon, và dự án AZORIAN đã trở thành hiện thực.
 

Hự.

Xe điện
Biển số
OF-426937
Ngày cấp bằng
3/6/16
Số km
2,687
Động cơ
281,792 Mã lực
Ý em là không biết info ngư lôi bị rơi trc khi lắp vào tàu có chính xác không ấy, chứ còn vũ khí hiện đại mà bị rơi thì rõ ràng là nguy hiểm nghiêm trọng rồi. Thứ nữa là chi tiết việc họ vẫn cố tình lắp để rồi bắn xoá dấu vết em hơi nghi ngờ bởi em làm việc với bọn Nga kha khá nên e hiểu cách làm việc của họ, rất nghiêm túc và nguyên tắc, nguyên tắc đến cứng nhắc ấy. Hai thiết bị đặt cạnh nhau, em lười đóng cọc nên cho nối đất chung vào 1 cọc, nó kiểm tra và kiên quyết bắt đóng nốt cái cọc kia để nối đất riêng từng thiết bị, đầu tiên e khó chịu vì nghĩ rằng ko cần thiết nhưng sau đó mới hiểu là nó đúng và phải làm thế…
Em cũng tiếp xúc với các bạn Nga, có thể ko nhiều như cụ nên cảm nhận em ko chính xác. Nhưng em thấy cái máy móc cứng nhắc của Nga nó hơi khác bọn Nhật hoặc Đức. Đấy là kiểu ko cần quan tâm đến sự vướng mắc của người xa lạ, chỉ cần việc của mình như nào thì cứ thế thì đúng hơn. Còn bạn bè, quen biết thì rất dễ vỗ vai tặc lưỡi. Em có ông anh làm xưởng Đức. Thân nhau chè chén suốt mà hết giờ làm để dụng cụ linh tinh thôi là nó nhắc kiểu rất ko thân thiện.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
Tuy vậy, người Mỹ không thể trục vớt con tàu ngay lập tức, vì họ không có phương tiện kỹ thuật cần thiết. Một chiến dịch đặc biệt, tuyệt mật với mật danh “Dự án Azorian” đã được thông qua, tính đến độ sâu mà K-129 bị chìm, khả năng thành công của chiến dịch ước tính khoảng 10%. Nhiều nguồn gọi chiến dịch này là “Jennifer”, trong khi từ mã này được sử dụng để chỉ căn phòng, nơi dự án được phát triển. Chiến dịch đã chuẩn bị trong 6 năm, thực hiện trực tiếp bắt đầu vào năm 1974, công việc dưới nước sâu được ngụy trang bởi thăm dò địa chất ngoài khơi cách bờ biển Hawaii 1.560 hải lý (2.890 km) bằng tàu chuyên dụng “Hughes Glomar Explorer”.
CIA chủ "Dự án Azorian", nhưng không thể chường mặt ra làm
Để tạo ra một lý do hợp lý cho việc lưu lại lâu tại một điểm trên Thái Bình Dương và đánh lạc hướng Liên Xô, CIA đã tìm đến tỷ phú lập dị và là nhà thám hiểm Howard Hughes - người nổi tiếng không chỉ vì hành vi kỳ quặc trong cuộc sống, mà còn trong các chủ trương kỹ thuật đôi khi mang tính cách mạng. Tại các cơ sở của Hughes, những tia laser đầu tiên, sau đó là những vệ tinh nhân tạo đầu tiên của Mỹ, hệ thống dẫn đường tên lửa, radar 3D …, đã được tạo ra.

Howard Hughes:là người chế tạo chế tạo chiếc Thuỷ phi cơ bằng gỗ
xem
Chính Công ty Howard Aircraft của ông đã chế tạo chiếc máy bay trinh sát OH-6 Cayuse, này là máy bay MD-500
OH-6A Cayuse (23).jpg

OH-6A Cayuse được chiến sĩ Quân Giải phóng gọi là "Cán gáo" hoặc "U ti ti" (chắc là từ Ultyility)
Từ năm 1965-1975, riêng Hughes Aircraft đã có hợp đồng với Bộ Quốc phòng Mỹ trị giá 6 tỷ USD. Hughes đồng ý trở thành bình phong cho dự án Azorian. Quyền lực và danh tiếng của Hughes lớn đến mức sau khi giới thiệu dự án, nhiều công ty cạnh tranh đã quan tâm nghiêm túc đến việc thăm dò tương tự.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
K-129 (7).jpg

Tàu chuyên dụng “Hughes Glomar Explorer”.
K-129 (4).jpg
K-129 (4a).jpg
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
Tàu chuyên dụng Hughes Glomar Explorer
K-129 (8).jpg
K-129 (9).jpg
K-129 (10).jpg
K-129 (11).jpg
K-129 (12).jpg
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
Do K-129 nằm ở độ sâu rất lớn, nên tàu “Hughes Glomar Explorer” được thiết kế và chế tạo đặc biệt cho hoạt động này, được trang bị các thiết bị độc đáo cho các hoạt động ở vùng biển cực sâu, có tổng lượng choán nước 50.000 tấn. Cuộc hành trình của Hughes Glomar Explorer tới khu vực xác tàu K-129 mất gần một năm. Người Mỹ phải lắp ráp gần 300 phân đoạn ống sắt, tổng cộng dài 5 km, cần thiết để treo tàu ngầm bị chìm. Liên Xô tất nhiên không thể không chú ý đến những sự kiện kỳ lạ diễn ra ở khu vực hoang dã của Thái Bình Dương.
Theo báo cáo của phía Mỹ, trong quá trình trục vớt, thân thuyền bị sập, chỉ phần khoang mũi được vớt lên; phần còn lại một lần nữa bị vực thẳm nuốt chửng. Mặc dù thông tin chính thức vẫn được giữ kín, các nhà nghiên cứu tin rằng tên lửa đạn đạo, sách mã và các thiết bị khác vẫn ở dưới cùng, vì vậy người ta tin rằng các mục tiêu của hoạt động đã không hoàn toàn đạt được. Tuy nhiên, hài cốt của 6 thành viên thủy thủ đoàn, hai quả ngư lôi mang đầu đạn hạt nhân và một số đối tượng khác mà tình báo Mỹ quan tâm đã được tìm thấy trong phần được vớt lên.
Người Mỹ đã chôn cất các thủy thủ tàu ngầm Nga theo thông lệ - phủ cờ của Hải quân Liên Xô lên quan tài và cử Quốc ca Liên Xô. Ngoài ra, Quốc ca Mỹ vang lên, cũng như những lời cầu nguyện - Tin lành và Chính thống giáo, một lễ tang dân sự được phục vụ bằng hai ngôn ngữ - tiếng Anh và tiếng Nga; các thủy thủ Liên Xô được chôn cất với tất cả theo nghi thức nhà binh.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
Theo luật pháp quốc tế, ngay sau khi Liên Xô công khai K-129 bị nạn, nơi tàu ngầm an nghỉ dưới đáy biển sẽ được quy định là nơi chôn cất quân nhân. Trong trường hợp này, sẽ không thể chạm vào đống đổ nát. Liên Xô vào thời điểm đó không chính thức công nhận việc mất tàu, do đó, người Mỹ có mọi quyền định đoạt phần còn lại của con tàu theo cách họ thấy phù hợp. Từ chối công khai những hỏng hóc và thất bại, Liên Xô đã tạo điều kiện cho Mỹ thực hiện một dự án kỹ thuật hàng hải Azorian có một không hai. Chiến dịch Azorian được công khai một năm sau đó, vào tháng 2/1975, khi tờ Los Angeles Times đăng một bài về Dự án Jennifer, tên thật của chiến dịch được biết đến vào năm 2010.
Tháng 10/1992, tại một cuộc họp ở Moscow, Giám đốc CIA Robert Gates đã trao cho Tổng thống Nga Boris Yeltsin một đoạn băng ghi lại nghi lễ an táng thi thể các tàu ngầm Liên Xô thuộc biên chế K-129. Azorian đã ngốn của Mỹ 6 năm làm việc và gần 4 tỷ USD vào giai đoạn không phải là êm ả của Chiến tranh Lạnh. Mỹ đã có được một con át chủ bài quan trọng trong Chiến tranh Lạnh, và dự án Azorian đã trở thành một thành tựu nổi bật của kỹ thuật hải quân thế kỷ XX.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
Nguyên nhân thảm kịch
Người Mỹ cho nguyên nhân của thảm họa là do động cơ trên tàu tên lửa R-21 hoạt động không bình thường. Giả thiết chính thức của Liên Xô cho rằng, con tàu bị đắm trong khi sạc ắc-quy do trục trặc kỹ thuật của van cung cấp không khí cần thiết cho động cơ diesel. Vụ nổ nhiên liệu tên lửa đã xảy ra ở độ sâu do nhiều trục trặc phát sinh trên con tàu bị trục trặc kỹ thuật. Một giả thiết khác cho rằng K-129 bị nạn do va chạm với một tàu khác, có thể là tàu ngầm Mỹ đang truy đuổi nó, được những người theo thuyết âm mưu, ủng hộ.
Một tuần sau khi tàu K-129 Liên Xô mất tích, tàu ngầm Mỹ USS Swordfish đã đến căn cứ hải quân Nhật Bản Yokosuka. Ngay sau đó, một bức ảnh xuất hiện trên một trong những tờ báo địa phương cho thấy một số hư hỏng trong vùng bánh lái của con tàu. Các thủy thủ Liên Xô chắc chắn rằng đó là do va chạm (rất có thể là vô ý) với K-129. Những sự cố kiểu này thực sự không phải là hiếm trong Chiến tranh Lạnh. Các tàu ngầm của Mỹ và Liên Xô, khi truy đuổi nhau, đôi khi tiếp cận ở khoảng cách gần.
Tuy nhiên, liệu tàu Swordfish của Mỹ có thể gây ra thiệt hại thảm khốc như vậy cho tàu Liên Xô khi đã cập bờ chỉ với một chiếc kính tiềm vọng bị uốn cong, vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi. Theo giải thích chính thức, USS Swordfish đã va chạm với một tảng băng trôi, cách nơi xác tàu K-129 nằm vài nghìn hải lý. Hơn nửa thế kỷ sau tai nạn của K-129, nguyên nhân của thảm kịch vẫn là chủ đề của nhiều cuộc tranh luận.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
Dự án Jenifer
Cái tên Jenifer được đặt cho dự án để chỉ những nỗ lực của Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) nhằm trục vớt tàu ngầm Liên Xô K-129. Ngày 24-2-1968, con tàu rời căn cứ ở Kamchatka (Nga) để tuần tra chiến đấu, mang theo tên lửa đạn đạo hạt nhân phóng dưới nước công suất lớn và hai ngư lôi hạt nhân. Lượng vũ khí này đủ để gây ra “Ngày tận thế” quy mô nhỏ.
K-129 có thể di chuyển dưới nước với tốc độ 12 hải lý mỗi giờ, hoạt động liên tục trong 60 ngày, lặn sâu tối đa 30m. Ngày 8-3 năm đó, chiếc tàu ngầm bỗng mất liên lạc. Bộ tổng tư lệnh Hải quân Liên Xô và Bộ tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương đã phát động chiến dịch tìm kiếm-cứu nạn 2 tháng ở khoảng cách hơn 1.000 dặm tính từ Kamchatka, với độ sâu lên tới 500 – 600m. Chiến dịch tìm kiếm đã không mang lại kết quả, Bộ chỉ huy quân sự Liên Xô thừa nhận con tàu gặp nạn và vụ việc được giữ bí mật. Có tổng cộng 98 thủy thủ trên tàu tử nạn.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
Sau đó, Hoa Kỳ đã vào cuộc. Họ sốt sắng muốn nắm giữ những bí mật quân sự của Liên Xô, nhằm có được cỗ máy mật mã và những đầu đạn hạt nhân. Tàu hải dương học Mizar của Hải quân Mỹ, được trang bị những máy móc thiết bị tiên tiến, đã đến khu vực xảy ra tai nạn. Nhờ con tàu này mà người ta đã tìm thấy 2 con tàu chạy bằng năng lượng hạt nhân bị chìm của Mỹ. Vào cuối tháng thứ 2 của chiến dịch tìm kiếm, K-129 đã được phát hiện nằm cách không xa khu vực Hawaii. Từ các bức ảnh, có thể thấy rõ ở mạn trái giữa khoang thứ 2 và thứ 3 có một lỗ thủng
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
Chi tiết về dự án Jennifer được nói đến trong cuốn sách “Những chiến dịch bí mật trong thế kỷ XX: Từ lịch sử của các cơ quan đặc biệt” của tác giả Vladimir Biryuk. Theo đó, Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ đã bắt đầu hoạt động ráo riết. Tổng ngân sách của dự án không được tiết lộ, nhưng có nhiều khoản đã được chi tiêu, trong đó có việc đóng 2 chiếc tàu độc đáo sử dụng công nghệ “có một không hai”. Tính bí mật được đặt ở mức cao nhất, thậm chí những người thợ còn không biết mục đích của những con tàu mà họ đang đóng. Lượng choán nước của một chiếc trong đó như Glomar Explorer là 36 nghìn tấn, với chi phí lên đến 350 triệu USD. Chiếc tàu này trông giống như cỗ máy ngoài hành tinh trong phim khoa học viễn tưởng nhất.
Dự án sử dụng đội ngũ nhân lực lên đến 4.000 người và được tỷ phú Howard Hughes tài trợ một phần. Ngoài ra, nó còn được đích thân Tổng thống Mỹ Richard Nixon giám sát.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
Công tác trục vớt tàu ngầm K-129 được bắt đầu triển khai vào năm 1974 và tiếp tục vào năm 1975. Các tàu Liên Xô theo dõi quá trình thực hiện, nhưng không thể làm gì được. Tàu Glomar Explorer của Mỹ đã phát hiện được một tàu ngầm của Liên Xô bị chìm và bắt đầu trục vớt nó vào tháng 7-1975. Khi công việc hoàn thành được 99%, thì con tàu bị thủng một lỗ theo chiều dọc và lại chìm xuống đáy biển. Người Mỹ không lấy được những tên lửa hạt nhân, nhưng họ đã trục vớt được một phần khoang mũi tàu, nơi còn có những quả ngư lôi. Tuy nhiên, hoàn toàn không có máy mật mã nào được tìm thấy. Ngoài ra, người Mỹ còn vớt được thi thể của 6 thủy thủ Liên Xô và cải táng trên biển theo đúng nghi thức truyền thống của Hải quân Liên Xô. Khu chôn cất nằm cách vị trí tai nạn tàu ngầm 90 dặm về phía tây nam.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
Giai đoạn 2 của chiến dịch
Không chính thức thừa nhận tàu ngầm gặp nạn, Bộ tư lệnh Liên Xô đã ra lệnh tuần tra nơi phát hiện ra nó với quyền được phép chiến đấu nhằm ngăn chặn việc trục vớt các bộ phận còn lại. Cuộc tuần tra diễn ra trong 6 tháng.
Các nhà ngoại giao bắt đầu vào cuộc. Tuy nhiên, người Mỹ nhanh chóng bác bỏ những lập luận của Liên Xô. Họ cho rằng, vì không có tuyên bố chính thức nào về việc tàu ngầm bị chìm, nên tài sản dưới đáy biển không thuộc về ai cả và ai cũng có thể trục vớt nó. Tình hình càng lâm vào bế tắc, và cả hai bên đều làm ra vẻ như không có chuyện gì xảy ra. Tuy nhiên, Washington vẫn quyết định tạm ngừng công việc.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
Nguyên nhân xảy ra thảm kịch
Nguyên nhân xảy ra tai nạn tàu ngầm vẫn chưa được biết đến. Giả thuyết phổ biến nhất được cho là tàu ngầm Swordfish của Mỹ đi phía sau đã vô tình đâm vào chiếc K-129. Giả thuyết này được củng cố bởi thông tin cho rằng, một chiếc tàu ngầm lớp này từ khu vực hoạt động của K-129 đã trở về căn cứ với những vết hỏng hóc và sau đó được đưa đi sửa chữa. Trong khi đó, Hải quân Liên Xô chính thức ủng hộ giả thuyết cho rằng, việc con tàu bị chìm khi đang nạp ắc quy là do trục trặc kỹ thuật van an toàn và chìm xuống độ sâu rất lớn.
Một số chuyên gia cho rằng, khi đang nạp ắc quy thì khí hydro phát nổ, mà nguyên nhân là do hỏng hệ thống thông gió. Vụ nổ đã gây ra một lỗ thủng. Tuy nhiên, sự thật về vụ tai nạn vẫn sẽ không bao giờ được biết đến.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
Âm thanh rợn người dưới đáy biển
Ngày 24.2.1968, tàu ngầm K-129, số hiệu 722 rời căn cứ Rybachiy ở Kamchatka. Tàu được chỉ huy bởi thuyền trưởng Vladimir I. Kobzar. Sau khi rời căn cứ, tàu ngầm K-129 bắt đầu lặn sâu để kiểm tra máy móc, sau đó nổi lên và liên lạc với trung tâm chỉ huy báo cáo mọi thứ đều ổn.
Con tàu chuyển sang trạng thái hạn chế liên lạc để làm nhiệm vụ tuần tra bí mật như thường lệ. Theo kế hoạch, tàu ngầm K-129 sẽ liên lạc với trung tâm chỉ huy khi nó vượt qua kinh tuyến 180 độ và xa hơn nữa khi nó đến khu vực tuần tra.
Tuy nhiên, K-129 đã bỏ lỡ hai lần liên lạc định kỳ theo kế hoạch ban đầu. Đến giữa tháng 3.1968, các chỉ huy Hải quân Liên Xô ở Kamchatka lo lắng việc K-129 đã bỏ lỡ 2 lần liên lạc vô tuyến định kỳ.
Ngay lập tức, họ yêu cầu bộ phận thông tin phát đi thông điệp cho phép K-129 mở liên lạc thông thường, bỏ qua chế độ im lặng và liên lạc với sở chỉ huy. Sau khi không có phản hồi nào từ tàu K-129, sở chỉ ở Kamchatka quyết định liên lạc khẩn cấp với tàu K-129, nhưng vẫn bặt vô âm tính.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
Sở chỉ huy ở Kamchatka phát đi thông báo khẩn, tàu ngầm K-129 đã mất tích vào tuần thứ 3 của tháng 3.1968. Một chiến dịch tìm kiếm quy mô lớn được triển khai núp bóng dưới hình thức tập trận.
Việc Hải quân Liên Xô triển khai lực lượng bất thường được tình báo Mỹ phân tích có khả năng là phản ứng trước một vụ mất tích tàu ngầm. Các cơ sở của hệ thống giám sát âm thanh dưới nước (SOSUS) của Mỹ ở Bắc Thái Bình Dương được cảnh báo và yêu cầu xem xét lại bản ghi ngày 8.3 để kiểm tra xem có tín hiệu bất thường nào không.
Dữ liệu sóng âm từ 4 địa điểm của hệ thống SOSUS đã xác định được một sự kiện tiền năng, một địa điểm cách nơi hải quân Liên Xô đang tìm kiếm hàng trăm dặm.
Theo Bruce Rule - cựu nhà phân tích âm thanh thuộc Văn phòng Tình báo Hải quân Mỹ, hệ thống SOSUS ở Bắc Thái Bình Dương đã ghi nhận một tín hiệu âm thanh bất thường vào ngày 8.3.1968.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
55,222
Động cơ
1,131,913 Mã lực
Đến ngày 11.3.1968, mạng lưới SOSUS tiếp tục ghi nhận âm thanh bất thường khác, có thể là một vụ nổ, tiếp đó là một loạt những âm thanh rợn người khác, giống như tiếng người la hét.
Nhờ hệ thống SOSUS kết hợp với phương pháp đạc tam giác, Hải quân Mỹ đã xác định được địa điểm nghi chìm tàu ngầm ở 40 độ vĩ Bắc, 180 độ kinh Đông.
Hải quân Liên Xô không có sự hỗ trợ của SOSUS nên không thể xác định chính xác nơi tàu ngầm gặp nạn. Họ tập trung tìm kiếm ở địa điểm cách nơi tàu ngầm K-129 chìm tới hàng trăm hải lý.
Sau thời gian tìm kiếm bất thành do xác định sai vị trí, Hải quân Liên Xô đã dừng chiến dịch tìm kiếm tàu ngầm K-129.
Một vụ nổ đã xảy ra?
Khoảng tháng 8.1968, tàu ngầm USS Halibut đã xác định được vị trí tàu ngầm K-129 chìm ở độ sâu 4.900 m. Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ nhận thấy cơ hội lớn để thu hồi tên lửa hạt nhân SS-N-5 của Liên Xô một cách bí mật.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top