Chiến tranh phá hoại lần 2:
Từ năm 1965 , Bác Hồ đã nhắc nhở Phòng không - Không quân phải chú ý đối tượng B-52, Bác đã nói: "Mỹ chỉ chịu thua khi thua trên bầu trời Hà Nội" . Từ năm 1965 Quân chủng đã cơ động Trung đoàn tên lửa 238 vào Vĩnh Linh (Quảng Bình) để nghiên cứu đánh B-52. (Ngày 17-9-1967, Trung đoàn tên lửa 238 đã bắn hạ một B-52 ở Nam giới tuyến 170 Bắc, rơi ngoài biển). Từ năm 1970 - 1971, bộ đội ra đa cũng đã tăng cường lực lượng vào phía Nam. Đưa Trung đoàn ra đa 291 vào Quân khu 4, đưa đại đội 3 trinh sát nhiễu sát nhập vào Trung đoàn ra đa 290; mở đội hình ra đa sang phía Tây để nghiên cứu phát hiện B-52, bảo đảm dẫn đường cho MIG21 ta đánh B-52 trên đường vận chuyển 559. Cơ quan tác chiến, khoa học quân sự và kỹ thuật các binh chủng và Quân chủng cũng đã tổ chức thành từng đoàn xuống các trận địa ra đa, tên lửa để nghiên cứu cách phát hiện và đánh B-52.
Từ 30-3-1972, quân đội ta tiến công chiến lược trên khắp miền Nam từ Quảng Trị đến Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Cơ đồ Việt Nam hóa chiến tranh của Ni xơn có nguy cơ bị thất bại hoàn toàn. Mỹ huy động không quân và hải quân chi viện quân ngụy ở miền Nam và đánh phá trở lại miền Bắc: 1400 máy bay chiến thuật (40% KQCT), 193 B-52 (45% B-52) và 14 tàu sân bay (CVA) (3/4 tàu hạm đội 7; điều 20 B-52 từ Mỹ sang Utapao, 12 Fl11 Tacklee (Thái Lan), 21 F4D từ Philippin sang Đà Nẵng; đưa 3 phi đoàn của thủy quân lục chiến vào Đà Nẵng và 6 hàng không mẫu hạm (CVA) vào biển Đông Việt Nam để thực hiện "Mỹ hóa chiến tranh bằng không quân"; dùng không quân làm hỏa lực chính để chi viện quân ngụy ngăn chặn ta tiến công Quảng Trị - Huế.
Sau thất bại của cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất bằng không quân chiến thuật, không quân Mỹ đã không ngừng nghiên cứu cải tiến vũ khí, trang bị và thủ đoạn tập kích đường không, đặc biệt là mở cuộc tập kích đường không chiến lược bằng B-52 vào khu vực hỏa lực phòng không mạnh Hà Nội, Hải Phòng.
- Về tên lửa tự dẫn chống ra đaAGM 45A đã cải tiến (AGM 45D) mở rộng cửa sóng và độ nhạy thu để đánh trúng cả ra đa quay tròn (6 vòng/phút của P35, P37) ở cánh sóng phụ và sử dụng tên lửa ARM 78, 79 có sức công phá mạnh hơn. (chiến tranh phá hoại lần thứ nhất tháng 5-1967 địch đánh vào Hà Nội phóng 70 quả AGM 45A chỉ một quả trúng một đài ra đa pháo, và không đánh trúng P35, P37).
- Về vũ khí không thả bom Walleye (VTTH) nữa mà bắt đầu chiếu và thả bom la-de khá chính xác vào cầu và công trình nhà máy...
Đặc biệt là thủ đoạn gây nhiễu điện tử với trang bị kỹ thuật cao và chiến thuật phức tạp hơn nhất là trong tổ chức đội hình B-52 đánh vào Hà Nội, Hải Phòng:
Mỗi trận đánh bằng B-52 địch tổ chức như sau:
- Trước khi B-52 vào 10 - 15 phút địch gây nhiễu ngoài đội hình bằng EB-66B/C/E. Từng chiếc bay khu vực có 1 - 2 chiếc F yểm hộ, khống chế ta ở 2 hướng Tây Nam và Đông Bắc cách biên giới phía Tây và bờ biển phía Đông 50 - 80km. ở mỗi hướng địch dùng tới 2 - 3 EB-66 trang bị 15 máy trinh sát và 12 máy phát nhiễu) trinh sát và phát nhiễu ra đa dải tần rộng và nhiễu thông tin rãnh siêu cao tần (VHF). EB-66 kết hợp với EC- 121 cảnh giới phát hiện MIG và tên lửa của ta để chỉ điểm cho F cường kích đánh phá.
- Đội hình B-52 có cường kích yểm hộ, đều đeo máy gây nhiễu (trong đội hình). B-52D/G trang bị tới 15 máy phát nhiễu tích cực dải tần rộng (40 - 10.500MHz) công suất lớn P = 100W gây nhiễu cả ra đa cảnh giới, dẫn đường, đài điều khiển tên lửa, ra đaMIG theo các chế độ chặn ngắm, quét và 2 máy nhiễu tiêu cực (ALE 24.27). (Mỗi máy ALE đeo 450 bó kim loại) và 1 máy thả pháo sáng ALE 20 để đối phó với tên lửa nhiệt của MIG ta.
Từ năm 1965 , Bác Hồ đã nhắc nhở Phòng không - Không quân phải chú ý đối tượng B-52, Bác đã nói: "Mỹ chỉ chịu thua khi thua trên bầu trời Hà Nội" . Từ năm 1965 Quân chủng đã cơ động Trung đoàn tên lửa 238 vào Vĩnh Linh (Quảng Bình) để nghiên cứu đánh B-52. (Ngày 17-9-1967, Trung đoàn tên lửa 238 đã bắn hạ một B-52 ở Nam giới tuyến 170 Bắc, rơi ngoài biển). Từ năm 1970 - 1971, bộ đội ra đa cũng đã tăng cường lực lượng vào phía Nam. Đưa Trung đoàn ra đa 291 vào Quân khu 4, đưa đại đội 3 trinh sát nhiễu sát nhập vào Trung đoàn ra đa 290; mở đội hình ra đa sang phía Tây để nghiên cứu phát hiện B-52, bảo đảm dẫn đường cho MIG21 ta đánh B-52 trên đường vận chuyển 559. Cơ quan tác chiến, khoa học quân sự và kỹ thuật các binh chủng và Quân chủng cũng đã tổ chức thành từng đoàn xuống các trận địa ra đa, tên lửa để nghiên cứu cách phát hiện và đánh B-52.
Từ 30-3-1972, quân đội ta tiến công chiến lược trên khắp miền Nam từ Quảng Trị đến Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Cơ đồ Việt Nam hóa chiến tranh của Ni xơn có nguy cơ bị thất bại hoàn toàn. Mỹ huy động không quân và hải quân chi viện quân ngụy ở miền Nam và đánh phá trở lại miền Bắc: 1400 máy bay chiến thuật (40% KQCT), 193 B-52 (45% B-52) và 14 tàu sân bay (CVA) (3/4 tàu hạm đội 7; điều 20 B-52 từ Mỹ sang Utapao, 12 Fl11 Tacklee (Thái Lan), 21 F4D từ Philippin sang Đà Nẵng; đưa 3 phi đoàn của thủy quân lục chiến vào Đà Nẵng và 6 hàng không mẫu hạm (CVA) vào biển Đông Việt Nam để thực hiện "Mỹ hóa chiến tranh bằng không quân"; dùng không quân làm hỏa lực chính để chi viện quân ngụy ngăn chặn ta tiến công Quảng Trị - Huế.
Sau thất bại của cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất bằng không quân chiến thuật, không quân Mỹ đã không ngừng nghiên cứu cải tiến vũ khí, trang bị và thủ đoạn tập kích đường không, đặc biệt là mở cuộc tập kích đường không chiến lược bằng B-52 vào khu vực hỏa lực phòng không mạnh Hà Nội, Hải Phòng.
- Về tên lửa tự dẫn chống ra đaAGM 45A đã cải tiến (AGM 45D) mở rộng cửa sóng và độ nhạy thu để đánh trúng cả ra đa quay tròn (6 vòng/phút của P35, P37) ở cánh sóng phụ và sử dụng tên lửa ARM 78, 79 có sức công phá mạnh hơn. (chiến tranh phá hoại lần thứ nhất tháng 5-1967 địch đánh vào Hà Nội phóng 70 quả AGM 45A chỉ một quả trúng một đài ra đa pháo, và không đánh trúng P35, P37).
- Về vũ khí không thả bom Walleye (VTTH) nữa mà bắt đầu chiếu và thả bom la-de khá chính xác vào cầu và công trình nhà máy...
Đặc biệt là thủ đoạn gây nhiễu điện tử với trang bị kỹ thuật cao và chiến thuật phức tạp hơn nhất là trong tổ chức đội hình B-52 đánh vào Hà Nội, Hải Phòng:
Mỗi trận đánh bằng B-52 địch tổ chức như sau:
- Trước khi B-52 vào 10 - 15 phút địch gây nhiễu ngoài đội hình bằng EB-66B/C/E. Từng chiếc bay khu vực có 1 - 2 chiếc F yểm hộ, khống chế ta ở 2 hướng Tây Nam và Đông Bắc cách biên giới phía Tây và bờ biển phía Đông 50 - 80km. ở mỗi hướng địch dùng tới 2 - 3 EB-66 trang bị 15 máy trinh sát và 12 máy phát nhiễu) trinh sát và phát nhiễu ra đa dải tần rộng và nhiễu thông tin rãnh siêu cao tần (VHF). EB-66 kết hợp với EC- 121 cảnh giới phát hiện MIG và tên lửa của ta để chỉ điểm cho F cường kích đánh phá.
- Đội hình B-52 có cường kích yểm hộ, đều đeo máy gây nhiễu (trong đội hình). B-52D/G trang bị tới 15 máy phát nhiễu tích cực dải tần rộng (40 - 10.500MHz) công suất lớn P = 100W gây nhiễu cả ra đa cảnh giới, dẫn đường, đài điều khiển tên lửa, ra đaMIG theo các chế độ chặn ngắm, quét và 2 máy nhiễu tiêu cực (ALE 24.27). (Mỗi máy ALE đeo 450 bó kim loại) và 1 máy thả pháo sáng ALE 20 để đối phó với tên lửa nhiệt của MIG ta.