Xin mời bạn đọc tham khảo bản dịch bài viết "Cải cách ruộng đất giữa những năm năm mươi" trích từ chương 3: Nefarious and Mythical Bloodbath trong cuốn sách "Counter-Revolutionary Violence: Bloodbaths in Fact and Propaganda" của hai giáo sư người Mỹ là Edward S. Herman và Noam Chomsky để thấy trang Boxit đã bôi nhọ lịch sử ra sao. Cũng cần phải nói thêm là cuốn sách này đã được xuất bản từ năm 1973, trước khi chiến tranh ở Việt Nam kết thúc.
Cải cách ruộng đất giữa những năm năm mươi
Trong một phát biểu vào ngày 3 tháng 11 năm 1969, tổng thống Nixon đã nói về việc Cộng Sản Bắc Việt giết hại hơn 50.000 người sau khi họ nắm quyền ở miền Bắc những năm năm mươi. Sáu tháng sau, trong một bài phát biểu vào ngày 30 tháng 4 năm 1970, ông ta lại tăng con số đó lên “hàng trăm ngàn”, hàng trăm ngàn người đã phải nếm trải sự tàn sát và sự dã man của Cộng Sản Bắc Việt. Sau đó một tuần, vào ngày 5 tháng 8 năm 1970, dường như là hoảng loạn trước phản ứng của công chúng về cuộc xâm lược Campuchia của ông ta, ngài Nixon đã viện dẫn đến hình ảnh “hàng triệu” thường dân có thể bị thảm sát nếu miền Nam Việt Nam bị sát nhập vào miền Bắc. Tiếp đó, trong sự trơ tráo vô liêm sỉ của buổi trả lời báo chí vào ngày 16 tháng 4 năm 1971, tổng thống Nixon tường thuật rằng “nửa triệu người, theo một ước lượng có cân nhắc nhất… đã bị Bắc Việt sát hại hay xử tử theo cách nào đó”. Rõ ràng là tính tin cậy có vấn đề khi có hàng loạt các con số khác nhau mỗi tuần về số nạn nhân, nhưng có ba yếu tố cơ bản trong việc thảo luận về huyền thoại tắm máu này.
Thứ nhất, bất kể là con số nào liên quan đến việc lạm dụng cải cách ruộng đất ở Bắc Việt, chúng rất ít hoặc không liên quan đến hành động trả thù việc hợp tác với Pháp. Ngay cả khi các nguồn tin dựa vào các nhà tuyên truyền chính thống thì các nạn nhân được xác định trước hết là địa chủ bị trừng phạt bởi các cáo buộc áp bức tá điền trong quá khứ, hơn là những người hợp tác với Pháp trong thời kỳ chiến tranh. Do đó, các âm mưu sử dụng giai đoạn này là bằng chứng cho một vụ tắm máu chắc chắn nhằm trả thù sự hợp tác với người Mỹ hay bất hợp tác trong thời kỳ tiếp tục kháng chiến là phóng đại.
Thứ hai, chế độ Bắc Việt bị bối rối bởi sự lạm dụng cải cách ruộng đất, họ đã công khai thừa nhận sai lầm, trừng phạt rất nhiều những quan chức đã tạo ra hay cho phép sự bất công, và triển khai cải cách hành chính để ngăn chặn sự tái diễn. Một cách ngắn gọn, chế độ Bắc Việt đã cho thấy khả năng phản ứng trước sự lạm dụng và kịp thời đáp ứng được lợi ích và nhu cầu của nông thôn. [191] Đó là “sự thật cay đắng” đối với giáo sư Samuel Huntington về “sự ổn định chính trị tương đối” của Bắc Việt, đối lập với miền Nam, dựa trên sự thật là “tổ chức của **** Cộng Sản vươn tới các khu vực nông thôn và cung cấp một kênh truyền thông về sự bất bình của nông thôn tới trung ương và phục vụ cho việc kiểm soát lãnh thổ của chính quyền”. [192] Thứ mà Huntington quên là lợi ích giai cấp không ngăn cản chế độ Bắc Việt phản ứng có tính xây dựng đối với sự bất bình của nông thôn. Ở miền Nam, như Jeffrey Race đã chỉ ra, ngay cả khi tầng lớp chóp bu phản cách mạng nhận được các tài liệu thể hiện sự bất bình của nông thôn mà những người nổi dậy cảm thấy họ có thể lợi dụng (cũng như cung cấp các chương trình phù hợp) thì “chính quyền không phát triển những chính sách thích hợp để ngăn chặn việc lợi dụng những vấn đề đã được đề cập trong tài liệu”. [193]
Thứ ba, tất nhiên quan trọng nhất đối với các mục tiêu hiện tại, nguồn căn bản của ước lượng bừa bãi về việc giết chóc trong cải cách ruộng đất ở miền bắc Việt Nam là các thành phần hợp tác với CIA hay bộ tuyên truyền Sài Gòn. Theo một người công giáo Việt Nam hiện sống ở Pháp, đại tá Nguyễn Văn Châu, người đứng đầu Cục Tâm Lý Chiến Trung Ương của quân đội Sài Gòn từ năm 1956 đến 1962, những con số của “vụ tắm máu” trong cải cách ruộng đất được cơ quan tình báo Sài Gòn “bịa đặt 100%”. Theo đại tá Châu, một chiến dịch bôi nhọ có hệ thống bằng cách sử dụng các tài liệu giả mạo đã được thực hiện suốt những năm 1950 để biện minh cho việc Diệm từ chối đàm phán với Hà Nội về việc chuẩn bị tổng tuyển cử thống nhất vào năm 1956. Theo Châu thì các tài liệu giả mạo được hỗ trợ bởi các nhân viên tình báo Anh và Mỹ, họ đã giúp thu thập các tài liệu đáng tin cậy nhưng có cơ sở hợp lý để đưa vào đó những giấy tờ giả mạo, chúng được “phân phát cho nhiều các nhóm chính trị khác nhau và cho các nhóm nhà văn cũng như nghệ sĩ, những người đó sử dụng tài liệu bị làm sai lệch để thực hiện chiến dịch tuyên truyền”.[194]
Nguồn thông tin chính gốc về cải cách ruộng đất trong suốt nhiều năm là tác phẩm của Hoàng Văn Chí, một địa chủ giàu có ở Bắc Việt, được bộ thông tin Sài Gòn, CIA và các nguồn chính thống Hoa Kỳ khác tuyển dụng và trợ cấp trong nhiều năm. [195] Mới đây, D. Gareth Porter đã thực hiện phân tích chi tiết đầu tiên về công trình đó và cho biết rằng kết luận của Chí dựa trên hàng loạt các lời nói dối, các tài liệu không tồn tại, cũng như các dịch thuật đầy thiên kiến và dối trá về các văn bản có thực. Ví dụ, Chí tuyên bố rằng nhà cầm quyền Bắc Việt đã đặt hạn mức tối thiểu là ba địa chủ bị xử tử ở mỗi làng, nhưng thực tế là họ đặt hạn mức tối đa là ba người có thể bị lên án và xét xử, chứ không phải bị xử tử. [196] Trong một đoạn khác Chí trích dẫn lời ông Giáp khi ông nói, “Sự tồi tệ vẫn tiếp diễn, tra tấn được coi là việc bình thường trong thời kỳ chỉnh đốn ****”, nhưng thực ra ông Giáp nói: “Thậm chí sự áp bức đã được sử dụng để chỉnh đốn ****”. Trong một đoạn khác được Chí trích dẫn như là bằng chứng về kế hoạch nhằm “cố ý khủng bố quá mức” đã được Porter chỉ ra là “trường hợp đơn giản về dịch thuật có định kiến nhằm mục đích tuyên truyền”. [197]
Ước lượng về 700.000 hay 5% dân số Bắc Việt, là nạn nhân của cải cách ruộng đất mà hiện nay Chí khẳng định là “ước đoán”, dựa trên kinh nghiệm về làng của ông ta, nơi có 10 người chết trên tổng số 200 người dân, mặc dù chỉ có duy nhất một người thực sự bị xử tử. [198] Do Chí đã được chứng minh là sẵn sàng nói dối, con số người chết trong cải cách ruộng đất mà ông ta đưa ra khó có thể là sự thật, [199] nhưng phép ngoại suy của ông ta trong ví dụ về toàn bộ Bắc Việt Nam, thậm chí ngay cả khi Chí khẳng định rằng không phải là phổ biến, đã không được thảo luận. Mặc dù vô giá trị về mặt khoa học, và chắc chắn là bịa đặt nhằm mục đích tuyên truyền, “ước đoán” của Chí đã phục vụ tốt suốt nhiều năm trong việc cung cấp các ước lượng có căn cứ và “có cân nhắc”, không chỉ cho các lãnh đạo chính trị và các kênh truyền thông của họ mà cho cả các nghiên cứu nghiêm túc về chiến tranh. Bernard Fall đã bị Chí lôi kéo, và Frances Fritzgerald trong tác phẩm đầy ảnh hưởng của bà ta “Fire in the Lake" tiếp nối Fall đã đưa ra một “ước đoán có cân nhắc” rằng “khoảng năm mươi ngàn người ở mọi tầng lớp kinh tế đã bị sát hại” trong cuộc cải cách ruộng đất. [200] Do họ có danh tiếng là những người chống chiến tranh, Fall và Fritzgerald đã đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc dựng lên một huyền thoại được phổ biến liên tục suốt ba thập kỷ.[201]
Dựa trên một phân tích về các thống kê chính thức và các tài liệu đáng tin cậy, cộng với ước lượng của chính quyền Diệm vào năm 1959, Porter [202] đã kết luận rằng phạm vị thực tế của việc xử tử trong cải cách ruộng đất có thể nằm trong khoảng từ 800 đến 2.500 người. Đó là một con số đáng chú ý, mặc dù giới hạn tối đa của việc xử tử trong ước lượng của Porter thấp hơn rất nhiều so với sự thảm sát bừa bãi chỉ trong một chiến dịch Speedy Express được mô tả phía trên – và người dân Bắc Việt không vinh danh trách nhiệm của **** trong việc lạm quyền.
Danh mục tài liệu tham khảo của tác giả từ [191] đến [202]
[191] This system of responsiveness extends into the military sphere, helping to explain the "astonishing" fighting capacity and "almost incredibly resilient morale" of DRV soldiers, who benefit from a system of "morale restitution. designed to lend great emotional and physical support to its members," a system which "anticipates and alleviates possible future morale troubles." Kellen, op. cit., p.9. 192] In R. N. Pfeffer, ed., No More Vietnams? , Harper and Row (1968), p.227.
[193] Race, op. cit., pp.182-183, note 22.
[194] Diane Johnstone, "'Communist Bloodbath' in North Vietnam is Propaganda Myth, says former Saigon Psychological Warfare Chief," St. Louis Post-Dispatch (September 24,1972).
[195] The analysis that follows is based on D. Gareth Porter, The Myth of the Bloodbath: North Vietnam's Land Reform Reconsidered, International Relations of East Asia, Interim Report No.2, Cornell (1972).
[196] Ibid., pp.26-28.
[197] Ibid., pp.44-45.
[198] "Figure on N. Vietnam's Killing 'Just a Guess,' Author Says," The Washington Post (September 13,1972).
[199] Late 1954 was also a period of famine in much of North Vietnam, affecting the very area in which Chi had lived, which further compromises his inferences drawn from a count of village deaths by starvation.
[200] Fire in the Lake, Little, Brown, 1972, p.223. Fitzgerald gives no footnote reference for this "conservative estimate," but she relies heavily on Fall and her language here is similar to his.
[201] Michael Harrington writes that he and other "socialist cadre . . . knew that Ho and his comrades had killed thousands of peasants during forced collectivization in North Vietnam during the '50s (a fact they themselves had confessed). Dissent (Spring 1973). In fact, the only known "confessions" are the fabrications that had been exposed many months earlier, and neither Harrington nor other western observers "know" what took place during the land reform. U.S. government propagandists can rest unperturbed, despite the exposures of earlier fabrications.
[202] Porter, Op. cit., p.55.]