[Funland] Tại sao Nga lại có lãnh thổ Kaliningrad ?

boyben2011

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-311651
Ngày cấp bằng
14/3/14
Số km
776
Động cơ
304,129 Mã lực
Nơi ở
Běijiāng
Chính VNCH nó làm thay đổi lịch sử biên giới, lãnh thổ ở VN ta :

- Coi VNCH là 1 QG độc lập? hay là 1 thực thể ko thể tách rời của VN (so sánh tương đối nó cũng ko khác gì vấn đề Đài Loan-vs Trung Quốc ngày nay)
- Khi đó thế giới công nhận VNCH là 1 QG rồi nhé! có đg` biên giới, có chính phủ riêng,quân đội riêng....cũng mở lãnh sự tại các nc, cũng tham gia vào các tổ chức quốc tế

-Mất HS-TS cũng là do cái vấn đề "lờ mờ" của biên giới quốc gia-thực thể này. HS-TS là của đất nc VN hày là của nước VNCH? Thực ra mất ô Việt-Cộng ngây thơ khi đó cũng giống như mấy ô VNCH tin tưởng quá đáng vào đám ĐỒNG MINH USA nghĩ là nó sẽ chiếm hộ mình ai ngờ nó chiếm xong nó lấy làm của nó luôn :)) ko trả nữa

Cho nên các cụ dẹp hằn thù lịch sử sang 1 bên đi, nhiệm vụ của con cháu các cụ là ĐÒI LẠI QUÀ HS-TS nhá. Dù có chính thể nào đi chăng nữa cũng phải góp xây VN giàu mạnh, sánh vai các cường quốc 5 châu nhé, tuyệt đối ko đc đấu đá nhau nữa khổ con-khổ các cháu mình ra

Làm cái gì cũng phải để các con, các cháu mình tự hào,để chúng nó còn có NIỀM TIN mà đấu tranh nữa, ko có ngày chúng nó dâng mịe có nc VN này cho Tàu thì nguy. Nhìn bọn trẻ em đoán sau này các thế hệ 9x VN nó làm lãnh đạo nc VN này,chắc chúng nó sẽ dâng xương máu của cha ô cho Mỹ, cho Tàu mất.Chán

Đến mấy bố 5,6x làm lãnh đạo như lão # ....... còn tham nhũng khủng khiếp huống chi là bọn trẻ sau này nó tinh vi hơn nh`
 

Ngo Rung

Xe cút kít
Biển số
OF-73049
Ngày cấp bằng
16/9/10
Số km
15,176
Động cơ
473,842 Mã lực
Giờ mới để ý thớt này, tưởng bàn chuyện Tây, sau một hồi lài lôi về ta à? hay thật :))
 

boyben2011

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-311651
Ngày cấp bằng
14/3/14
Số km
776
Động cơ
304,129 Mã lực
Nơi ở
Běijiāng
Giờ mới để ý thớt này, tưởng bàn chuyện Tây, sau một hồi lài lôi về ta à? hay thật :))
Chính trị nó là vậy mà, cái lọ nó giọ vào cái chai, những vùng lãnh thổ chủ quyền do nhiều bên năm giữ ntn tất nhiên là phải dùng lí luận ở những nơi khác áp vào 1 cái tương đối chứ.Thế nó mới hay chứ, có mấy cái đảo tít tận châu Mỹ h vẫn thuộc Pháp kia kìa của nhóe :D

Ví dụ: LÃNH THỔ GUYANE giáp brazil đó, cũng thuộc Pháp đó hihi, sau này nếu e làm LĐ X thì yên tâm em sẽ đòi lại nó cho VN vì ở đó Dân H'Mông mình sống cũng nhiều đó :))
 
Chỉnh sửa cuối:

ducletrung

Xe container
Biển số
OF-165336
Ngày cấp bằng
6/11/12
Số km
6,116
Động cơ
406,001 Mã lực
Kệ bố nó, thế bác có biết tại sao lại phải gọi là Hàn Quốc không???
Nếu theo tiếng Anh thì gọi là South Korea và North Korea..Còn không hiểu vì sao South Korea phiên âm tiếng Việt lại thành Hàn Quốc ?
 
Chỉnh sửa cuối:

boyben2011

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-311651
Ngày cấp bằng
14/3/14
Số km
776
Động cơ
304,129 Mã lực
Nơi ở
Běijiāng
Nếu theo tiếng Anh thì gọi là South Korea và North Korea..Còn không hiểu vì sao phiên âm tiếng Việt lại thành Hàn Quốc ?
ĐẠI HÀN DÂN QUỐC chứ đâu, gọi theo cái thể chế, chính thể nhà nc đó chứ đâu
Đến bây h còn tranh cãi tiếng Anh dey ne: South Korea hay Korea Repulic ?
 

ducletrung

Xe container
Biển số
OF-165336
Ngày cấp bằng
6/11/12
Số km
6,116
Động cơ
406,001 Mã lực
Thế đảo Guam có phải bang của Hoa Kỳ không?
 

Lexus 717

Xe điện
Biển số
OF-109991
Ngày cấp bằng
22/8/11
Số km
3,844
Động cơ
417,388 Mã lực
Cảm ơn cụ ạ. Cái này em cũng tìm hiểu rồi. Khi đó ta yếu, nên bị các nước lớn mặc cả trên lưng. Nhưng miền Bắc mong mỏi thống nhất trong hòa bình, còn những người lãnh đạo miền Nam chắc chắn là không rồi. Đất nước trải qua nhiều đau thương để thống nhất. Là con dân Đại Việt cũng nên đặt tổ quốc là trên hết. Để dành căm hận đó cho ngoại xâm, đừng bới lên mà tạo cảnh huynh đệ tương tàn. Yêu nước thì nên làm giầu cho đất nước.
Cái này thì cụ nên nghiên cứu sâu thêm lịch sử xem thằng nào xé bỏ hiệp ước tuồn quân và vũ khí quấy rối lân bang, thậm chí còn cài cắm người để gây loạn cho lân bang đới.
 

bpq

Xe buýt
Biển số
OF-316494
Ngày cấp bằng
19/4/14
Số km
911
Động cơ
291,493 Mã lực
Kiến thức của bạn đã thể hiện rõ, bạn chỉ là con lừa đi theo lề phải thôi,
Không có bân bè vĩnh viễn không có kẻ thù vĩnh viễn

Vụ TQ chiếm Hoàng Sa năm 1974 thì chỉ có Liên Xô phản đối TQ còn Mỹ thì không lên tiếng .
 

bpq

Xe buýt
Biển số
OF-316494
Ngày cấp bằng
19/4/14
Số km
911
Động cơ
291,493 Mã lực
Cái này thì cụ nên nghiên cứu sâu thêm lịch sử xem thằng nào xé bỏ hiệp ước tuồn quân và vũ khí quấy rối lân bang, thậm chí còn cài cắm người để gây loạn cho lân bang đới.
lại nhảm ?
ông Diêm đã từ chối tổng tuyển cử thống nhất đất nước. VNCH & Mỹ không công nhận Hiệp định Giơnevơ

=> Hiệp định Giơnevơ đã hết giá trị thi hành

Chính VNCH đã tạo ra thêm nhiều kẻ thù bằng cách thực thi chính sách Tố Cộng - Diệt Cộng
cộng thêm việc thực thi những chính sách mất lòng dân đã đẩy phần lớn dân chúng về phía bên kia


Chế độ Diệm, theo Avro Manhattan trong “Vietnam, Why Did We Go ?”, đã bỏ tù hơn 300,000 người vì lý do chính trị. Theo ông Lê Nguyên Long, một lãnh tụ Quốc Dân **** ở miền Trung, thì hàng ngàn cán bộ của **** ông đã bị nhóm “Cần Lao ác ôn” (như ông Quận trưởng tên Thái ở Điện Bàn, Quảng Nam) vu cáo là Việt Cộng rồi bỏ tù theo luật 10/59. Trong Nam thì đội Phước kéo lê máy chém đi hành hình không biết bao nhiêu người kháng chiến yêu nước không-Công sản trong chiến dịch Tố Cộng của bộ trưởng Trần Chánh Thành. Ngoài ra còn hai nhà tù siêu chính phủ là “Chín hầm” ở Huế của ông Ngô Đình Cẩn không nằm trong hệ thống Tư pháp quốc gia , và trại biệt giam P42 của ông Ngô Đình Nhu, cũng bí mật không thuộc cơ quan nào của chính phủ cả, ở gần Sở thú Sài Gòn, đã nhốt biết bao nhiêu người chiến sĩ yêu nước nhưng không chịu được chế độ độc tài của Thục-Diệm-Nhu-Cẫn (như các cụ Nguyễn Xuân Chử, Xuân Tùng, Trần Văn Hương, Phan Bá Cầm, Phan Quang Đán, Nguyễn Văn Lực, Phan Khắc Sữu, …)
Theo quan sát của một số học giả, đường lối Cải cách điền địa mà Ngô Đình Diệm đề ra đã bị nông dân miền Nam phản đối dữ dội. Trong khi Việt Minh đã giảm thuế, xóa nợ và tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho nông dân nghèo, Ngô Đình Diệm đã đưa giai cấp địa chủ trở lại. Đến cuối thời Ngô Đình Diệm, 2% đại điền chủ sở hữu 45% tổng số ruộng trong khi 73% tiểu nông chỉ nắm giữ 15%.,[2] khoảng một nửa số người cày không có ruộng.[1] Hạn mức đất được quy định rất lớn (100 hecta), nên hiếm có địa chủ nào phải trả lại đất, số đất thu được cũng chủ yếu là chia cho người Thiên Chúa giáo di cư vào từ miền Bắc.[6] Đất của các Giáo xứ Công giáo thì còn được Ngô Đình Diệm thiên vị, cho miễn thuế và hạn mức. Nông dân phải trả lại đất cho địa chủ rồi phải trả tiền thuê đất và phải nộp thuế đất cho quân đội. Khế ước quy định mức tô tối đa là 25% nhưng trong thực tế thì mức nộp tô phổ biến là 40% hoa lợi[11] Điều này tạo ra một cơn giận dữ ở nông thôn, quân đội của Ngô Đình Diệm bị mắng chửi là "tàn nhẫn hệt như bọn Pháp". Kết quả là tại nông thôn, 75% người dân ủng hộ quân Giải phóng, 20% trung lập trong khi chỉ có 5% ủng hộ chế độ Ngô Đình Diệm.[14]
 
Chỉnh sửa cuối:

bocume

Xe tăng
Biển số
OF-31146
Ngày cấp bằng
12/3/09
Số km
1,405
Động cơ
767,485 Mã lực
Nơi ở
Hà Nội
Website
yogabau.vn
Đại hàn dân quốc cũng như là Trung hoa dân quốc để phân biệt bới Bắc sâm í mờ :D
Nếu theo tiếng Anh thì gọi là South Korea và North Korea..Còn không hiểu vì sao South Korea phiên âm tiếng Việt lại thành Hàn Quốc ?
ĐẠI HÀN DÂN QUỐC chứ đâu, gọi theo cái thể chế, chính thể nhà nc đó chứ đâu
Đến bây h còn tranh cãi tiếng Anh dey ne: South Korea hay Korea Repulic ?
Chắc là gọi thế để tránh dùng từ "Nam - Bắc" ấy mà
Thực tế hồi đầu mình gọi là BTT với NTT cơ mà, sau hinh như NTT đề nghị mình gọi là Đại Hàn dân quốc để nổi bật là nước độc lập k liên quan j đến BTT thì phải :))
 

T90i

Xe tăng
Biển số
OF-50667
Ngày cấp bằng
11/11/09
Số km
1,051
Động cơ
464,480 Mã lực
lại nhảm ?
ông Diêm đã từ chối tổng tuyển cử thống nhất đất nước. VNCH & Mỹ không công nhận Hiệp định Giơnevơ

=> Hiệp định Giơnevơ đã hết giá trị thi hành

Chính VNCH đã tạo ra thêm nhiều kẻ thù bằng cách thực thi chính sách Tố Cộng - Diệt Cộng
cộng thêm việc thực thi những chính sách mất lòng dân đã đẩy phần lớn dân chúng về phía bên kia
Cụ trích dẫn mấy cái tài liệu nhảm của chú tây kia làm gì, đọc bản tuyên bố của chính phủ VNCH giải thích về vấn đề tổng tuyển cử có hơn không. Em bảo thật cụ, nếu sau năm 1954 mà cho cả hai miền di chuyển tự do, thì đảm bảo đến năm 1960 chỉ còn các **** viên ở lại miền Bắc thội cụ ạ.

Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ngày 26 Tháng 4 năm 1958 về thắc mắc trong vấn đề tái thống nhất đất nước

Trong bức thư đề ngày 7 tháng ba năm1958, được sử dụng với mục đích tuyên truyền – bởi vì văn bản được phát đi ngay lập tức bởi Đài phát thanh Hà Nội và Đài phát thanh Bắc Kinh – Nhà chức trách Hà Nội đưa đề nghị „thiết lập quan hệ bình thường“, đề nghị xem xét vấn đề tái thống nhất đất nước, hạn chế quân sự và giao thương giữa hai vùng.
Mặc dù đồng bào chúng tôi ở miền Nam và miền Trung Việt Nam đã được thông báo về tính chất lừa đảo của tuyền truyền cộng sản, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cũng phải có trách nhiệm giải thích cho đồng bào ở miền Bắc, những người đang bị cô lập với mọi thông tin xác thực và dư luận thế giới, các mâu thuẫn giữa tuyên bố và hành động của nhà chức trách Hà Nội cùng thực trạng bất lương về những cáo buộc của họ.
Vấn đề thống nhất đất nước và cuộc bầu cử chung
Xin nhớ rằng, Chính phủ chúng tôi đã luôn luôn bảo vệ sự thống nhất của đất nước. Trong Hội nghị Genève năm 1954, phái đoàn Việt Nam đã phản đối mạnh mẽ chống lại ý định của cộng sản Việt Nam. Phái đoàn chúng tôi đã chống việc chia ly tạm thời của đất nước. Chúng tôi đã đề xuất việc thu các đơn vị quân sự của cả hai bên vào một số khu vực hạn chế và sau đó tổ chức cuộc bầu cử tự do dưới sự kiểm soát của Liên Hiệp Quốc. Phái đoàn Cộng sản đã bác bỏ đề nghị trên, họ đòi hỏi chia đất nước từ vĩ tuyến 17 nhằm đạt dân số trội hơn miền Nam. Sau cuộc trốn chạy của hơn một triệu người tị nạn về miền Nam, tại miền Bắc vẫn còn hơn 13 triệu người so với 11 triệu người dân sinh sống trong miền Nam.
Nhờ vào chế độ công an trị và quân đội lớn hơn so với Việt Nam Cộng hòa, cộng sản tin rằng họ có thể ép dân chúng miền Bắc, dân số cao hơn, bỏ phiếu bầu cho họ ngõ hầu chế độ cộng sản có thể thống trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam và như thế, nền hoà bình trong vùng Đông Nam Á sẽ bị đe doạ.
Từ ý tưởng này người cộng sản đòi hỏi thực hiện một cuộc Phổ thông đầu phiếu tại Việt Nam, trong khi họ luôn từ chối các cuộc bầu cử tự do tại Đức và Đại Hàn, bởi vì trong hai quốc gia này dân số trong vùng họ kiểm soát ít hơn so với các khu vực tự do; do đó họ không có cơ hội để thực hiện ý đồ đen tối của mình.
Thái độ mâu thuẫn của cộng sản về vấn đề thống nhất đất nước ở các quốc gia bị phân chia cho thấy động cơ thầm kín của họ nhằm thực hiện những cuộc bầu cử không tự do và không thành thật.
Mặc dù nhà chức trách Hà Nội đòi hỏi cuộc bầu cử chung, nhưng họ lại không tổ chức một cuộc bầu cử tự do trong vùng tạm kiểm soát của mình để canh tân cái gọi là Quốc hội của họ. Quốc hội này bao gồm một số thành viên được chỉ định và một số thành viên được bầu trong sự hỗn loạn của năm 1946, hiện nay phải đối mặt với thực tế là một số thành viên đã bỏ chạy về miền Nam. Quy định vào Hiến pháp của họ, một bản Hiến pháp được hoàn thành không có sự tranh luận, trong một phiên họp chỉ kéo dài có một ngày, thì nhiệm vụ những đại biểu của Quốc hội này đã được chấm dứt từ hơn 8 năm nay rồi. Cộng sản Việt Nam do đó đã không tôn trọng hiến pháp của chính họ. Đồng thời họ đã thiết lập chế độ Cộng sản ở miền Bắc, mà không trưng cầu ý dân. Và họ không bao giờ trưng cầu dân ý vì họ biết rằng dân chúng sẽ không bao giờ chấp nhận cái chế độ này.
Chính phủ chúng tôi đã tiến hành một cuộc trưng cầu dân ý vào ngày 23 Tháng 10 năm 1955́, dựa theo đó chế độ cũ được bãi bỏ và chế độ Cộng hòa đã được thành lập. Sau đó chính phủ chúng tôi đã tổ chức cuộc bầu cử Quốc hội vào tháng 3 năm 1956 ở miền Trung và miền Nam Việt Nam. Quốc hội này đã soạn thảo và thông qua một bản Hiến pháp. Hiến Pháp này đã được công bố sau đó.
Những tổ chức dân chủ và các tiến bộ mà chính phủ chúng tôi đã đạt được trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội, đã được cảm thông của cả thế giới. Đến ngày hôm nay đã có 56 quốc gia công nhận chính phủ chúng tôi, duy trì quan hệ ngoại giao với chúng tôi, hoặc đã đề nghị chúng tôi được gia nhập Liên Hiệp Quốc. Nhà cầm quyền cộng sản ở miền Bắc chỉ được sự công nhận của khoảng 10 chính phủ cộng sản. Trong những năm gần đây, ảnh hưởng của Việt Nam Tự Do đã được tăng đáng kể: Nước chúng tôi hiện nay là thành viên của 33 tổ chức quốc tế và Sài Gòn được chọn là trụ sở của nhiều hội nghị quốc tế.
Do đó, rất kỳ lạ khi thấy những người có trách nhiệm phân chia đất nước, không dám tiến hành bầu cử trong vùng tạm kiểm soát của họ và sau đó lại đổ lỗi cho chính phủ chúng tôi từ chối thống nhất đất nước và từ chối bầu cử chung.
Vấn đề về giao thông đi lại giữa liên khu vực tự do
Nhà chức trách Hà Nội đã dấu không thông tin cho người dân miền Bắc biết, rằng người dân có quyền chọn lựa khu vực để sinh sống. Với chế độ khủng bố, họ đã ngăn cản các chuyến di tản của dân chúng miền Bắc; họ đã dùng bạo lực bắt giữ thân nhân những người đã di cư về miền Nam. Tại Ba-Làng và Lưu-Mỹ họ đã nổ súng đàn áp những người đã cố gắng đi đến khu vực tự do.
Họ cũng đã rút ngắn thời gian cho tự do giao thông liên vùng và tự do lựa chọn vùng sinh sống, qua việc qui định thời hạn vào ngày 19 Tháng 5 năm 1955. Sau thời gian này, chính phủ chúng tôi đã đề nghị gia hạn thời gian giao thông liên vùng tự do. Nhưng nhà chức trách Hà Nội muốn hủy bỏ càng nhanh càng tốt sự liên kết giữa hai khu vực, nhằm ngăn chặn các chuyến tỵ nạn về miền Nam và luôn bày tỏ ý đồ xấu xa này của họ. Do đó nhà chức trách Hà Nội đã chỉ gia hạn thời gian di tản thêm hai tháng, tức là đến ngày 20 Tháng 7 năm 1955, và trong hai tháng đó họ đã chỉ cung cấp một chiếc thuyền cho những người muốn về miền Nam.
Bất chấp mọi nỗ lực để ngăn cản việc di tản, bất chấp bị khủng bố và trù dập bằng bạo lực và cho dù thời hạn được di tản rất ngắn ngủi, nhưng gần một triệu đồng bào từ miền Bắc đã di cư về miền Nam thành công. Mặc dù đồng bào của chúng tôi ở phía bên kia vĩ tuyến 17 bị mất quyền tự do di chuyển ngay cả trong khu vực sinh sống của mình, ngày nay họ vẫn còn chạy trốn về miền Nam bằng cách vượt dẫy núi Trường Sơn[1], hoặc trong các chiếc thuyền mỏng manh dọc bờ biển. Một số người không may mắn bị rơi vào tay cộng sản và bị giết, hoặc đã bị tra tấn tàn nhẫn. Những người khác đã chết vì kiệt sức trong rừng sâu hoặc là nạn nhân của các cơn bão biển.
Hiện nay có 81 123 người và 1955 gia đình đã tự, hoặc qua đại diện của họ, làm đơn yêu cầu được di tản vào miền Nam. Yêu cầu của họ đã được giao cho Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến. Nhưng nhà chức trách Hà Nội phản đối những yêu cầu này.
Ngoài ra, còn có một số gia đình từ miền Trung và miền Nam Việt Nam đã đòi hỏi cho anh em, chồng con họ, những người đã bị cộng sản dùng bạo lực bắt cóc đưa về miền Bắc, phải được hồi hương. Tổng số đơn yêu cầu về việc này là 11.196, đã được chuyển tiếp đến Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến. Ngoài các đơn kiện này, còn có rất nhiều trường hợp khác được gửi trực tiếp đến Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến, và số lượng đơn của những trường hợp này không bao giờ được công bố. Qua sự phản đối, chống lại những yêu cầu của người dân được nêu trên, nhà chức trách Hà Nội phải gánh trách nhiệm về tình trạng đau đớn vì chia ly của các gia đình này. Sau khi cộng sản cấm đoán người dân tự do đi lại ngay cả trong khu vực miền Bắc Việt Nam và ngăn chặn những người muốn di tản đi xa, bây giờ thì họ lại rêu rao, tuyên truyền là „tự do đi lại“ và „khôi phục lại mối quan hệ bình thường“.
Vấn đề cắt giảm lực lượng quân sự
Từ 3 năm qua nhà chức trách Hà Nội luôn luôn cổ võ cho hòa bình. Nhưng hành động của họ luôn tương phản lớn với chủ đề tuyên truyền của họ.
Họ đã không dừng lại mà luôn tăng cường lực lượng quân sự và nâng cấp trang bị vũ khí kể từ sau khi lệnh ngừng bắn có hiệu lực và như vậy là vi phạm Hiệp định Genève do chính họ đã ký kết.
Cần quan tâm đến một giác thư của chính phủ Vương quốc Anh gửi cho Liên Xô ngày 9 Tháng 4 năm 1956. Là đồng chủ tịch của Hội nghị Genève, chính phủ Anh đã cáo buộc chính quyền Hà Nội, kể từ khi ngừng chiến đến nay họ đã tăng cường lực lượng quân sự từ 7 lên 20 sư đoàn.
Ngoại trưởng Pháp tháng 3 năm 1958 cho biết, rằng nhà chức trách Hà Nội đã gia tăng quân đội lên đến 350.000 quân và công an, cảnh sát lên tới 200.000 người.
Họ cũng đã nhập cảng vũ khí từ các nước cộng sản để tăng cường lực lượng quân sự của họ. Trong ba năm qua họ đã không tôn trọng Hiệp định Genève, bởi vì họ chưa bao giờ thông báo cho Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến về việc nhập cảng vũ khí vào Việt Nam.
Mâu thuẫn với thực tế, nhà chức trách Hà Nội tuyên bố rằng họ đã giảm lực lượng quân sự của họ xuống còn 80.000 người. Nhưng cho đến nay họ chưa bao giờ nói bất cứ điều gì về con số thực sự quân đội của họ, trước khi hoặc sau khi cái họ gọi là giảm quân. Họ không đưa ra bằng chứng về những lời tuyên bố của mình và không chấp nhận mọi cuộc điều tra.
Họ không có lý do duy trì một quân đội mạnh mẽ hơn Việt Nam Cộng Hòa. Đây là mối đe dọa cho nền hòa bình không những chỉ cho Việt Nam mà còn cho các nước ở trong vùng Đông Nam Á. Để có khả năng duy trì một quân đội to lớn như vậy, nhà chức trách BắcViệt áp đặt mức thuế cao và hệ thống „đấu tố“, với hệ thống này họ đã ép buộc những người vợ, những người con phải tố cáo cha mẹ và chồng mình đã „dấu vàng của nhân dân“. Những người này thậm chí đã phải tự đánh mình và cuối cùng họ bị xử tử ngay tai chỗ mà không thông qua một cuộc xét xử của toà án. Có thể nói rằng dân tộc chúng tôi phải chịu nhiều đau khổ với chính quyền miền Bắc hơn bất kỳ dân tộc nào khác trên thế giới này.
Ngược lại, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã luôn luôn phục vụ cho nền hòa bình kể từ hiệp định Genève. Để đảm bảo lực lượng lao động cần thiết cho việc tái thiết đất nước bị tàn phá bởi chiến tranh, chúng tôi đã giảm quân đội từ 242.000 xuống còn 150.000, đồng thời chúng tôi đã không bổ xung thay thế 180.000 binh lính của „Đội quân Viễn chinh“ Pháp. Cộng sản mong muốn duy trì Đội quân này lại ở Việt Nam. Vấn đề giảm lực lượng quân sự được phổ biến rộng rãi, điều này rất dễ kiểm chứng.
Nhân đây cũng xin nhắc lại lời tuyên bố long trọng của Chính phủ Quốc gia vào ngày 6 Tháng 4 năm 1956 là không tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào và không cho phép cài đặt căn cứ quân sự ngoại quốc trên lãnh thổ của mình.
Vấn đề trao đổi thương mại
Trong thư đề ngày 7 Tháng Ba nhà chức trách Hà Nội đã đề xuất việc trao đổi thương mại với miền Nam. Qua đánh giá đề nghị này và qua tin tức nhận được cho thấy rằng đồng bào miền Bắc mong muốn, cầu xin sự giúp đỡ của thân nhân hoặc bạn bè ở miền Nam, có thể một vài mét vải hoặc vài viên thuốc aspirin. Nền kinh tế miền Bắc do sự thống trị của **** Cộng sản đang ở dưới đáy vực sâu. Đề nghị của cộng sản không nhằm mục đích nâng cao đời sống của dân chúng miền Bắc. Do hệ thống độc quyền với chính sách nội thương và ngoại thương mà họ đã đề ra là mua sản phẩm nông nghiệp của dân chúng với giá rẻ mạt và bán lại những sản phẩm này với giá cao hơn đáng kể. Mục tiêu của họ chỉ là, thu thập sự phong phú của miền Nam vào ngân sách **** của họ. Nếu nhà chức trách miền Bắc muốn đề nghị của họ được duyệt xét thì điều kiện đầu tiên là họ phải đặt quyền lợi người dân lên trên lợi ích của ****. Đồng thời họ phải để cho dân chúng miền Bắc toàn quyền tự do thương mại và từ bỏ sự độc quyền kinh tế mà **** cộng sản đã chiếm đoạt từ trước đến giờ.
Vấn đề trao đổi thư từ và bưu thiếp.
Mặc dù cộng sản không đề cập đến đề tài này trong thư của họ đề ngày 7 tháng ba năm 58, nhưng họ đã nhiều lần đề nghị nối lại dịch vụ bưu chính giữa hai khu vực. Cho đến hôm nay, cộng sản đã sử dụng các bưu thiếp như một phương tiện tuyên truyền nhiều hơn so với những phong thư được đóng kín. Yêu cầu trao đổi thư từ của họ không ngoài mục đích nào khác là tăng cường chiến dịch đe dọa và ăn xin người dân miền Nam. Vì quyền lợi của dân chúng, Chính phủ Quốc gia không thể thực hiện đề nghị này, nhưng Chính phủ yêu cầu cộng sản khai triển trao đổi bưu thiếp một cách đơn giản để nhân dân của hai Miền có thể liên lạc được với nhau.
Sự thật được mô tả trên đây cho thấy bản chất lừa đảo của các đề nghị của cộng sản, chẳng hạn như tăng cường củng cố lực lượng quân sự của mình, lệnh cấm di chuyển giữa hai khu vực, các vụ giết người muốn di tản về miền Nam, họ đã gây ra những trở ngại để các thân nhân của các gia đình sống tản mác không tìm được nhau và lợi dụng việc trao đổi bưu thiếp nhằm vào mục đích tuyên truyền.
Mâu thuẫn giữa tuyên truyền và hành động của nhà chức trách Hà Nội thật đã rõ ràng. Từ nhiều năm qua thái độ của họ vẫn luôn như một. Để chứng minh thái độ của họ đã thay đổi, họ hãy thực hiện một số hành động cụ thể như sau:
1) Họ hãy để cho 92 319 người và 1955 gia đình thực hiện ý nguyện của mình là được di cư về miền Nam, đơn của những người và gia đình này đã nộp cho Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến, để những người này được đoàn tụ với gia đình của họ.
2) Họ nên giảm lực lượng quân sự của họ tương đương với miền Nam Việt Nam. Việc giảm bớt phải được xác nhận là đúng bởi một Ủy ban quốc tế hữu trách. Sau đó vấn đề giới hạn lực lượng quân đội của hai vùng mới được bàn thảo.
3) Họ cần phải xóa bỏ cái gọi là „Ủy ban Giải phóng miền Nam“, bằng cách từ bỏ khủng bố, giết dân cư của những làng mạc xa xôi hẻo lánh, phá hoại cơ sở Chính phủ nhằm cải thiện đời sống của người dân, đặc biệt trong lĩnh vực cải cách ruộng đất và nông nghiệp.
4) Họ phải từ bỏ sự độc quyền kinh tế của **** Cộng sản, để nhân dân miền Bắc Việt Nam được làm việc trong hoàn toàn tự do và qua đó, có thể tăng mức sống của họ hiện đã bị giảm xuống đến mức chưa từng có từ xưa đến nay.
5) Họ không được buộc dân chúng phải cất tiếng ca ngợi họ[2] trong các bưu thiếp. Họ nên giải tán ban biên tập công tác tuyên truyền phục vụ bưu thiếp. Họ không được trả thù những người nhận hoặc gửi bưu thiếp.
6) Họ phải tôn trọng các quyền tự do dân chủ trong khu vực của họ như ở miền Nam và nâng cao mức sống của dân chúng miền Bắc, ít nhất được tương đương với dân chúng miền Nam; họ không được dùng chế độ vô nhân đạo của họ để làm cho khoảng cách giữa hai vùng lớn hơn nữa.
Nếu khảo sát các sự kiện kỹ càng, ta sẽ nhận thấy bức thư ngày 7 Tháng Ba năm 58 của nhà chức trách Hà Nội có mục đích chủ yếu nhằm tuyên truyền và phá hoại, chống lại sự giúp đỡ của các quốc gia bạn. Cộng sản đã hành động theo đơn đặt hàng của Liên Xô và cộng sản Trung Quốc, trong lá thư trên đã chỉ trích gay gắt Mỹ và cáo buộc người Mỹ can thiệp vào nội bộ của miền Nam Việt Nam.
Thực tế hoàn toàn ngược lại với những cáo buộc của cộng sản: mối quan hệ Việt-Mỹ hoàn toàn bình đẳng dựa trên luật pháp quốc tế giữa hai nước, cùng tôn trọng chủ quyền của nhau. Tương tự sự liên kết giữa Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và các nước trong thế giới Tự do. Mục đích mối quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Hoa Kỳ chỉ nhằm bảo đảm nền hòa bình và tự do.
Mối quan hệ giữa nhà chức trách Hà Nội cùng giới thống trị Nga và Trung Quốc, thuộc một thể loại khác. Họ là một vệ tinh đối với giới cai trị. Họ là hạ cấp so với thượng cấp trong hệ thống phân cấp của một ****: **** Cộng sản Quốc tế. Sự phụ thuộc này không chỉ được thể hiện qua sự đồng nhất của các tổ chức chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội theo kiểu mẫu của cộng sản Liên Xô và Trung Quốc, mà sự lệ thuộc này còn thâm nhập ngay cả vào lĩnh vực tư tưởng: trong các nghị định và các quy định của họ nhà chức trách Hà Nội bắt buộc dân chúng miền Bắc phải học các hệ tư tưởng cộng sản và sống theo đường lối chính trị của Nga và Trung Quốc.
Ở miền Nam, không ai bị bắt buộc phải tôn thờ các nhà lãnh đạo ngoại quốc và treo hình ảnh họ trong nhà, ở đây không ai có thể tưởng tượng rằng họ có thể hành xử điều kỳ lạ nêu trên.
Ở miền Bắc, nhà chức trách ép buộc dân chúng phải sùng bái các các nhà lãnh đạo Nga và Trung Quốc, treo hình ảnh của họ ở nhà và trong những ngày lễ của Liên Xô. Đồng thời họ cấm đoán dân chúng không được phê bình ý thức hệ cộng sản, không được phê bình chính phủ và giới lãnh đạo các nước cộng sản.
Thái độ hèn hạ của nhà chức trách Hà Nội đối với cộng sản ngoại quốc đã hủy hoại đời sống của dân tộc Việt, và là trở ngại lớn nhất cho công cuộc thống nhất đất nước.
Hệ tư tưởng cộng sản hoàn toàn phản nghịch với truyền thống tâm linh của châu Á và tính chất quốc gia của dân tộc Việt Nam.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc bầu cử tự do, nhà chức trách Hà Nội phải hủy bỏ chế độ cộng sản mà họ đã áp đặt lên người dân miền Bắc.
Họ không nên nhắm mắt và tự bịt tai. Họ phải học hỏi để hiểu cho ra rằng, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và Dân tộc Việt Nam không bao giờ chấp nhận cuộc bầu cử không có sự tự do và chân thành.
Nguyễn Hội
sưu tầm và dịch từ văn bản tiếng Đức „Erklärung der Regierung der Republik Vietnam von 26. April 1958 über die Frage der Wiedervereinigung“ do văn phòng Sứ Thần VNCH tại CHLB Đức xuất bản năm 1958.
[1] bản tiếng Đức ghi là dẫy núi An Nam
[2] nguyên văn tiếng Đức là: Họ không được buộc dân chúng phải cất tiếng hát những bài ca tụng họ trong các bưu thiếp“
 

dtrung

Xe điện
Biển số
OF-8577
Ngày cấp bằng
20/8/07
Số km
3,088
Động cơ
582,403 Mã lực
lại nhảm ?
ông Diêm đã từ chối tổng tuyển cử thống nhất đất nước. VNCH & Mỹ không công nhận Hiệp định Giơnevơ

=> Hiệp định Giơnevơ đã hết giá trị thi hành


Chính VNCH đã tạo ra thêm nhiều kẻ thù bằng cách thực thi chính sách Tố Cộng - Diệt Cộng
cộng thêm việc thực thi những chính sách mất lòng dân đã đẩy phần lớn dân chúng về phía bên kia
Em pót 1 bài để các cụ tham khảo, chính xác thì VNCH và Mỹ không ký vào hiệp định Geneve, tức là họ không công nhận sự ràng buộc hiệp định này từ đầu rồi, hiệp định này chỉ có giá trị giữa Pháp và Việt Minh thôi:

-----------

Để nhìn lại thực chất của cuộc chiến tranh Việt nam phải nhìn lại Hiệp Định Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954. Sau chín năm chiến tranh triền miên (1946-1954), dân chúng Việt Nam rất khao khát hòa bình, nhưng giấc mơ hòa bình vẫn còn ngoài tầm tay của người Việt. Đất nước chia đôi, dân tộc chia đôi ! Người Việt ở cả hai phía nói chung, hoàn toàn không thể tự quyết định tương lai của chính mình, mà phải bị động trước những áp đặt của ngoại bang. Bất cứ một ngoại bang nào đến với Việt Nam cũng đều vì quyền lợi riêng tư của họ, chứ chẳng phải vì yêu thương hay giúp đỡ nước Việt Nam. Một số câu hỏi được đặt ra ngay tới tận ngày nay: Sau trận Điện Biên Phủ (7.5.1954), khi Pháp quyết định bỏ chạy khỏi Việt Nam, tại sao Việt Minh không thừa thắng xông lên, chiếm lấy tất cả Việt Nam mà lại chịu kỳ hiệp định chia đôi đất nước ? Ai vi phạm Hiệp định Genève ?

Vì sao ông Hồ Chí Minh không thừa thắng xông lên mà chịu ký Hiệp định Genève? Có nhiều lý do được đưa ra không ai biết chắc đúng hay sai. Nhiều người cho là miền bắc Việt Nam đã chịu áp lực của Liên Xô và Trung quốc. Các đàn anh này muốn kết thúc cuộc chiến ở Đông Dương, sau khi họ đã ký kết chấm dứt chiến tranh ở Hàn Quốc. Để làm áp lực, hai nước đàn anh hứa tiếp tục viện trợ với điều kiện bắc Việt Nam chịu đến bàn hội nghị ở Genève.

Tuy nhiên, cũng có người lại nói chính bắc Việt Nam muốn ký hiệp ước vì sợ đằng sau nước Pháp còn có Mỹ, phải ngưng chiến để không cho Mỹ có lý do can thiệp vào Việt Nam. Ông William J. Duiker, trong cuốn “The Communist Road to Power in Vietnam” kể rằng ông Hồ Chí Minh đã mất công thuyết phục cánh chủ chiến trong **** Cộng Sản, trong phiên họp Trung Ương **** vào Tháng Bảy năm 1954. Ông Hồ nói rằng những người trong Trung Ương **** muốn tiếp tục chiến tranh không nhìn thấy mối nguy là quân Mỹ có thể sẽ nhảy vào Việt Nam giúp chính phủ quốc gia của Bảo Đại, thay chỗ của Pháp. Đó là mối lo chính đáng của Hồ Chí Minh, con người có kinh nghiệm quốc tế nhiều hơn các lãnh tụ cộng sản khác.

Nhưng một câu hỏi thực tế là, lúc đó Việt Minh có đủ sứ tiến đánh tới toàn thắng, nếu Mỹ không can thiệp hay chăng? Tướng Navarre, người chỉ huy quân Pháp thời đó, cho biết rằng trong năm 1954 lực lượng Việt Minh đã cạn sức vì dồn hết sức vào chiến dịch Điện Biên Phủ. Để chiếm lấy một cứ điểm có 16,000 quân Pháp, Việt Minh đã huy động gần 50,000 quân chủ lực, 55,000 quân phụ lực, và 100,000 dân công tiếp tế cho chiến trường. Phía Pháp chết khoảng 1,500 quân, 4,000 bị thương; trong khi phía Việt Nam mất 25,000 người trong đó 10,000 người chết. Nhiều người phía Việt Minh thì cho là sau khi thắng trận ở Điện Biên Phủ, họ đủ sức sẵn sàng mở ra những cuộc hành quân ở vùng châu thổ sông Hồng Hà để tiêu diệt lực lượng Pháp và quân đội quốc gia. Tất nhiên họ không dự trù việc tham dự của Mỹ có thể xảy ra, và cũng không biết các điều kiện viện trợ của Liên Xô và Trung Cộng mà ông Hồ Chí Minh biết.

Ai vi phạm Hiệp định Genève? Chính phủ Ngô Đình Diệm lúc đó không chịu ký vào Hiệp Định Genève, cũng vì không muốn chịu trách nhiệm trước lịch sử việc tái diễn Hận Sông Gianh. Có thể nói không ai vi phạm cả vì Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam tức Hiệp Định Đình Chiến Genève chỉ có tính cách thuần túy quân sự, nói về việc rút quân, tập trung quân, thời hạn chuyển quân...mà hoàn toàn không đề cập đến giải pháp chính trị. Có nghĩa là không phải là một Hiệp định Hòa bình. Và điểm đặc biệt không có phái đoàn nào ký tên vào bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’ ngày 21.7.1954.

Để bỏ chạy an toàn, Pháp thỏa mãn những đòi hỏi về phía khối cộng sản, thỏa hiệp với cộng sản chia hai nước Việt Nam và ấn định lịch Tổng Tuyển Cử năm 1956, mà không cần đếm xỉa đến ý nguyện của chính phủ Quốc Gia Việt Nam. Pháp quyết ký Hiệp Định Genève (20.7.1954), để vĩnh viễn rút quân ra khỏi ba nước Đông Dương, không còn liên hệ gì đến Việt Nam. Như thế, Pháp dựa vào tư cách nào để ấn định lịch Tổng Tuyển Cử vào năm 1956 về tương lai chính trị nước Việt Nam? Lịch Tổng Tuyển Cử nầy lại không được các phái đoàn tham dự ký kết để bảo đảm thi hành.

Hội Nghị Genève về Đông Dương với 9 phái đoàn là ngũ cường Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, và bốn chính phủ liên hệ ở Đông Dương là Quốc Gia Việt Nam, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Việt Minh), Lào, Cambodge (Cambodia), bắt đầu ngày 8.5.1954, một ngày sau khi kết thúc trận Điện Biên Phủ. Phái đoàn Quốc Gia Việt Nam do Ngoại Trưởng Nguyễn Quốc Định cầm đầu khi Hội Nghị bắt đầu. Sau đó, để tăng cường, Quốc Gia Việt Nam gởi phó Thủ Tướng Nguyễn Trung Vinh làm Trưởng Đoàn, Nguyễn Quốc Định phụ tá. Khi Ngô Đình Diệm chấp chánh ngày 7.7.1954, thì tân Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ đến thay Nguyễn Trung Vinh. Phái đoàn Việt Minh do Phạm Văn Đồng lãnh đạo. Lúc đó ông Đồng đã được chỉ định làm Phó Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Sau gần 20 ngày hội họp tại Genève, ngày 26.5.1954, Pháp và Việt Minh thỏa thuận ngừng bắn ở Việt Nam, rút quân về những khu vực chỉ định. Ông Phạm văn Đồng đề nghị cách phân chia thật giản dị là chia hai nước Việt Nam ở vĩ tuyến 13. Việt Minh rút về Bắc, Pháp rút về Nam. Pháp chưa quyết định. Anh Quốc tán thành, Hoa Kỳ phản đối. Chính phủ Quốc Gia Việt Nam chủ trương thống nhất, không chia cắt. Tại Sài Gòn, Thủ Đô của chính phủ Quốc Gia Việt Nam, Quốc Dân Đại Hội họp phiên bất thường cũng trong ngày 26.5.1954, phản đối mạnh mẽ việc chia hai đất nước.

Kể từ 20.6.1954, các Ngoại Trưởng tạm nghỉ và về nước tham khảo ý kiến. Trong thời gian nghỉ họp, Châu Ân Lai về lại Trung Quốc. Ông mời Hồ chí Minh và Võ nguyên Giáp qua Liễu Châu (Liuzhou), thuộc Tỉnh Quảng Tây (Kwangsi hay Guangxi), hội họp từ ngày 3.7.1954. Trong cuộc gặp gỡ nầy, Châu Ân Lai khuyên Hồ chí Minh chấp nhận thượng sách là hòa để tránh mở rộng chiến tranh, vì nếu tiếp tục mở rộng chiến tranh, Hoa Kỳ sẽ can thiệp. Theo Châu Ân Lai, Việt Minh nên giải quyết riêng biệt chuyện Lào và Miên, đồng thời chia hai nước Việt Nam ở khoảng vĩ tuyến 16. Với kinh nghiệm chiến tranh Triều Tiên, Châu Ân Lai khuyên Việt Minh không nên đòi hỏi thái quá, khiến Pháp sẽ ở thế phải nhờ Hoa Kỳ can thiệp.
Cũng theo Châu Ân Lai, trong trường hợp Hoa Kỳ can thiệp vào chiến tranh Việt Nam, với binh lực hùng hậu, Hoa Kỳ sẽ có thể lật ngược tình thế như trong chiến tranh Triều Tiên trước đây. Về phía phái đoàn Việt Minh, trong Hội Nghị nầy, Võ nguyên Giáp cho biết nếu phải rút đi, thì chỉ rút những người làm công tác chính trị bị lộ diện, phần còn lại thì ở lại miền Nam chờ thời cơ, có thể khoảng 10,000 cán bộ. Hội Nghị Liễu Châu giữa Châu Ân Lai và Hồ chí Minh kết thúc sau phiên họp cuối cùng tối ngày 5.7.1954.

Sau kỳ nghỉ, hội nghị Geneve họp tiếp, Tân Thủ Tướng Pháp là Mendès-France đích thân đến Genève để hội đàm với Ngoại Trưởng Liên Xô là Mikhailovich Molotov ngày 10.7, và Ngoại Trưởng Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là Châu Ân Lai trong hai ngày 12 và 13.7. Pháp, Liên Xô và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa thỏa thuận giải pháp chia hai nước Việt Nam. Pháp đòi chia ở vĩ tuyến 18. Trung Hoa đề nghị vĩ tuyến 16, rồi đổi vĩ tuyến 17. Sau đó, khi Châu Ân Lai gặp Phạm văn Đồng, đại biểu của Việt Minh, Châu Ân Lai áp đặt ý định của các cường quốc. Phạm văn Đồng đành chấp nhận. Đại Biểu Quốc Gia Việt Nam là Bác Sĩ Trần Văn Đỗ phản đối việc chia cắt đất nước bất cứ ở đâu. Cuối cùng, sau những tranh cãi và mặc cả vào buổi chiều ngày 20.7.1954, hiệp ước đình chiến được soạn thảo xong và ký kết sau 12 giờ đêm 20.7, qua sáng 21.7.1954 trong lúc đồng hồ ở trụ sở ký kết vẫn giữ nguyên ở 12 giờ đêm 20.7.1954. Danh xưng chính thức của Hiệp Định Genève là Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam. Hiệp Định nầy được viết bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt, có giá trị như nhau. Hai nhân vật chính ký vào hiệp ước đình chiến Genève là Henri Delteil, Thiếu Tướng, thay mặt Tổng Tư Lệnh Quân Đội Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương và Tạ quang Bửu, Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Các nước khác cùng ký vào Hiệp Định Genève còn có Anh, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Lào, Cambodia. Hai chính phủ Quốc Gia Việt Nam và Hoa Kỳ không ký vào bản Hiệp Định nầy. Sau khi Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam được ký kết, các phái đoàn họp tiếp ngày 21.7.1954 và ‘’thông qua’’ bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’. Đây chỉ là lời tuyên bố (Déclaration) của bảy phái đoàn, có tính cách dự kiến tương lai Việt Nam, và đặc biệt không có phái đoàn nào ký tên vào Bản Tuyên Bố nầy, nghĩa là Bản Tuyên Bố không có chữ ký. Khi chủ tịch phiên họp là Anthony Eden (Ngoại Trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, thì 7 phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Lào và Cambodge (Cambodia) trả lời miệng rằng ‘’đồng ý’’. Phái đoàn Hoa Kỳ và phái đoàn Quốc Gia Việt Nam không đồng ý, và tự đưa ra tuyên bố riêng của mình.

Bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’ gồm 13 điều, trong đó quan trọng nhất là điều 7. Điều nầy ghi rằng: ’Hội Nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau Tổng Tuyển Cử tự do và bỏ phiếu kín. Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng Tuyển Cử sẽ tổ chức vào tháng 7.1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc Tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám Sát và Kiểm Soát Quốc Tế đã nói trong Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự. Kể từ ngày 20.7.1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó’’.

Điều 7 của Bản Tuyên Bố được xem là dự kiến về một giải pháp chính trị trong tương lai, theo đó một cuộc Tổng Tuyển Cử sẽ có thể được tổ chức để thống nhất đất nước, mà sau nầy Bắc Việt dựa vào điều nầy để đòi hỏi Nam Việt tổ chức Tổng Tuyển Cử trên toàn quốc. Bắc Việt thường nói và viết rằng việc tổ chức Tổng Tuyển Cử giữa hai miền Bắc và Nam Việt Nam là theo quyết định của Hiệp Định Genève. Thật ra Hiệp Định Genève chỉ là một Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự (đình chiến) mà không đưa ra một giải pháp chính trị nào. Giải pháp chính trị về một cuộc Tổng Tuyển Cử giữa hai miền Bắc và Nam Việt Nam dự tính tổ chức vào năm 1956 nằm trong điều 7 của bàn ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’.

Trong Bản Tuyên Bố riêng của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam, Bác Sĩ Trần Văn Đỗ, Trưởng Phái Đoàn, giải thích vì sao phái đoàn Quốc Gia Việt Nam không ký kết Hiệp Định Genève. Sau khi phản đối việc chia cắt đất nước và việc đại diện quân đội Pháp tự ý ký kết Hiệp Định mà không đếm xỉa gì đến quyền lợi của quân đội Quốc Gia và nhân dân Việt Nam, Bản Tuyên Bố của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam viết: ‘’Vì thế cho nên chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội Nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp Định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội Nghị ghi nhận rằng chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống Nhất, Độc Lập, và Tự Do cho xứ sở’’. Vì phái đoàn Quốc Gia Việt Nam không ký vào Bản Hiệp Định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (Hiệp Định Genève) và nhất là không tham dự vào bản ‘’Tuyên bố cuối cùng’’, nên chính phủ Quốc Gia Việt Nam tự cho rằng không bị ràng buộc vào điều 7 của Bản Tuyên Bố nầy.

Nguồn: MXH (đã được biên tập).
 

Ngo Rung

Xe cút kít
Biển số
OF-73049
Ngày cấp bằng
16/9/10
Số km
15,176
Động cơ
473,842 Mã lực
Ôi rời!, đang từ Nga các cụ lại lôi nhau về bới móc cái thây ma nghẻo từ đời nào lên để vật nhau, khổ chết rồi còn không yên, cứ bới móc thế này làm sao mà siêu thoát được...mô phật <:-P
 

springsea

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-44950
Ngày cấp bằng
29/8/09
Số km
11,046
Động cơ
536,693 Mã lực
Bỏ qua tuyên truyền, có một thực tế là chỉ có dòng người di tản từ Bắc vô Nam và sau đó "đu càng", "bám thuyền" bỏ xứ. Chiều ngược lại là "cán bộ tập kết"
 

quattranck

Xe tải
Biển số
OF-353143
Ngày cấp bằng
31/1/15
Số km
363
Động cơ
267,640 Mã lực
Bỏ qua tuyên truyền, có một thực tế là chỉ có dòng người di tản từ Bắc vô Nam và sau đó "đu càng", "bám thuyền" bỏ xứ. Chiều ngược lại là "cán bộ tập kết"
Toàn người công giáo. Công giáo thì phò Chúa hơn đất nước. Tổ quốc với họ dưới Chúa một bậc
 

bpq

Xe buýt
Biển số
OF-316494
Ngày cấp bằng
19/4/14
Số km
911
Động cơ
291,493 Mã lực
Cụ trích dẫn mấy cái tài liệu nhảm của chú tây kia làm gì, đọc bản tuyên bố của chính phủ VNCH giải thích về vấn đề tổng tuyển cử có hơn không. Em bảo thật cụ, nếu sau năm 1954 mà cho cả hai miền di chuyển tự do, thì đảm bảo đến năm 1960 chỉ còn các **** viên ở lại miền Bắc thội cụ ạ.

Tuyên bố của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ngày 26 Tháng 4 năm 1958 về thắc mắc trong vấn đề tái thống nhất đất nước

Trong bức thư đề ngày 7 tháng ba năm1958, được sử dụng với mục đích tuyên truyền – bởi vì văn bản được phát đi ngay lập tức bởi Đài phát thanh Hà Nội và Đài phát thanh Bắc Kinh – Nhà chức trách Hà Nội đưa đề nghị „thiết lập quan hệ bình thường“, đề nghị xem xét vấn đề tái thống nhất đất nước, hạn chế quân sự và giao thương giữa hai vùng.
Mặc dù đồng bào chúng tôi ở miền Nam và miền Trung Việt Nam đã được thông báo về tính chất lừa đảo của tuyền truyền cộng sản, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cũng phải có trách nhiệm giải thích cho đồng bào ở miền Bắc, những người đang bị cô lập với mọi thông tin xác thực và dư luận thế giới, các mâu thuẫn giữa tuyên bố và hành động của nhà chức trách Hà Nội cùng thực trạng bất lương về những cáo buộc của họ.
Vấn đề thống nhất đất nước và cuộc bầu cử chung
Xin nhớ rằng, Chính phủ chúng tôi đã luôn luôn bảo vệ sự thống nhất của đất nước. Trong Hội nghị Genève năm 1954, phái đoàn Việt Nam đã phản đối mạnh mẽ chống lại ý định của cộng sản Việt Nam. Phái đoàn chúng tôi đã chống việc chia ly tạm thời của đất nước. Chúng tôi đã đề xuất việc thu các đơn vị quân sự của cả hai bên vào một số khu vực hạn chế và sau đó tổ chức cuộc bầu cử tự do dưới sự kiểm soát của Liên Hiệp Quốc. Phái đoàn Cộng sản đã bác bỏ đề nghị trên, họ đòi hỏi chia đất nước từ vĩ tuyến 17 nhằm đạt dân số trội hơn miền Nam. Sau cuộc trốn chạy của hơn một triệu người tị nạn về miền Nam, tại miền Bắc vẫn còn hơn 13 triệu người so với 11 triệu người dân sinh sống trong miền Nam.
Nhờ vào chế độ công an trị và quân đội lớn hơn so với Việt Nam Cộng hòa, cộng sản tin rằng họ có thể ép dân chúng miền Bắc, dân số cao hơn, bỏ phiếu bầu cho họ ngõ hầu chế độ cộng sản có thể thống trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam và như thế, nền hoà bình trong vùng Đông Nam Á sẽ bị đe doạ.
Từ ý tưởng này người cộng sản đòi hỏi thực hiện một cuộc Phổ thông đầu phiếu tại Việt Nam, trong khi họ luôn từ chối các cuộc bầu cử tự do tại Đức và Đại Hàn, bởi vì trong hai quốc gia này dân số trong vùng họ kiểm soát ít hơn so với các khu vực tự do; do đó họ không có cơ hội để thực hiện ý đồ đen tối của mình.
Thái độ mâu thuẫn của cộng sản về vấn đề thống nhất đất nước ở các quốc gia bị phân chia cho thấy động cơ thầm kín của họ nhằm thực hiện những cuộc bầu cử không tự do và không thành thật.
Mặc dù nhà chức trách Hà Nội đòi hỏi cuộc bầu cử chung, nhưng họ lại không tổ chức một cuộc bầu cử tự do trong vùng tạm kiểm soát của mình để canh tân cái gọi là Quốc hội của họ. Quốc hội này bao gồm một số thành viên được chỉ định và một số thành viên được bầu trong sự hỗn loạn của năm 1946, hiện nay phải đối mặt với thực tế là một số thành viên đã bỏ chạy về miền Nam. Quy định vào Hiến pháp của họ, một bản Hiến pháp được hoàn thành không có sự tranh luận, trong một phiên họp chỉ kéo dài có một ngày, thì nhiệm vụ những đại biểu của Quốc hội này đã được chấm dứt từ hơn 8 năm nay rồi. Cộng sản Việt Nam do đó đã không tôn trọng hiến pháp của chính họ. Đồng thời họ đã thiết lập chế độ Cộng sản ở miền Bắc, mà không trưng cầu ý dân. Và họ không bao giờ trưng cầu dân ý vì họ biết rằng dân chúng sẽ không bao giờ chấp nhận cái chế độ này.
Chính phủ chúng tôi đã tiến hành một cuộc trưng cầu dân ý vào ngày 23 Tháng 10 năm 1955́, dựa theo đó chế độ cũ được bãi bỏ và chế độ Cộng hòa đã được thành lập. Sau đó chính phủ chúng tôi đã tổ chức cuộc bầu cử Quốc hội vào tháng 3 năm 1956 ở miền Trung và miền Nam Việt Nam. Quốc hội này đã soạn thảo và thông qua một bản Hiến pháp. Hiến Pháp này đã được công bố sau đó.
Những tổ chức dân chủ và các tiến bộ mà chính phủ chúng tôi đã đạt được trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội, đã được cảm thông của cả thế giới. Đến ngày hôm nay đã có 56 quốc gia công nhận chính phủ chúng tôi, duy trì quan hệ ngoại giao với chúng tôi, hoặc đã đề nghị chúng tôi được gia nhập Liên Hiệp Quốc. Nhà cầm quyền cộng sản ở miền Bắc chỉ được sự công nhận của khoảng 10 chính phủ cộng sản. Trong những năm gần đây, ảnh hưởng của Việt Nam Tự Do đã được tăng đáng kể: Nước chúng tôi hiện nay là thành viên của 33 tổ chức quốc tế và Sài Gòn được chọn là trụ sở của nhiều hội nghị quốc tế.
Do đó, rất kỳ lạ khi thấy những người có trách nhiệm phân chia đất nước, không dám tiến hành bầu cử trong vùng tạm kiểm soát của họ và sau đó lại đổ lỗi cho chính phủ chúng tôi từ chối thống nhất đất nước và từ chối bầu cử chung.
Vấn đề về giao thông đi lại giữa liên khu vực tự do
Nhà chức trách Hà Nội đã dấu không thông tin cho người dân miền Bắc biết, rằng người dân có quyền chọn lựa khu vực để sinh sống. Với chế độ khủng bố, họ đã ngăn cản các chuyến di tản của dân chúng miền Bắc; họ đã dùng bạo lực bắt giữ thân nhân những người đã di cư về miền Nam. Tại Ba-Làng và Lưu-Mỹ họ đã nổ súng đàn áp những người đã cố gắng đi đến khu vực tự do.
Họ cũng đã rút ngắn thời gian cho tự do giao thông liên vùng và tự do lựa chọn vùng sinh sống, qua việc qui định thời hạn vào ngày 19 Tháng 5 năm 1955. Sau thời gian này, chính phủ chúng tôi đã đề nghị gia hạn thời gian giao thông liên vùng tự do. Nhưng nhà chức trách Hà Nội muốn hủy bỏ càng nhanh càng tốt sự liên kết giữa hai khu vực, nhằm ngăn chặn các chuyến tỵ nạn về miền Nam và luôn bày tỏ ý đồ xấu xa này của họ. Do đó nhà chức trách Hà Nội đã chỉ gia hạn thời gian di tản thêm hai tháng, tức là đến ngày 20 Tháng 7 năm 1955, và trong hai tháng đó họ đã chỉ cung cấp một chiếc thuyền cho những người muốn về miền Nam.
Bất chấp mọi nỗ lực để ngăn cản việc di tản, bất chấp bị khủng bố và trù dập bằng bạo lực và cho dù thời hạn được di tản rất ngắn ngủi, nhưng gần một triệu đồng bào từ miền Bắc đã di cư về miền Nam thành công. Mặc dù đồng bào của chúng tôi ở phía bên kia vĩ tuyến 17 bị mất quyền tự do di chuyển ngay cả trong khu vực sinh sống của mình, ngày nay họ vẫn còn chạy trốn về miền Nam bằng cách vượt dẫy núi Trường Sơn[1], hoặc trong các chiếc thuyền mỏng manh dọc bờ biển. Một số người không may mắn bị rơi vào tay cộng sản và bị giết, hoặc đã bị tra tấn tàn nhẫn. Những người khác đã chết vì kiệt sức trong rừng sâu hoặc là nạn nhân của các cơn bão biển.
Hiện nay có 81 123 người và 1955 gia đình đã tự, hoặc qua đại diện của họ, làm đơn yêu cầu được di tản vào miền Nam. Yêu cầu của họ đã được giao cho Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến. Nhưng nhà chức trách Hà Nội phản đối những yêu cầu này.
Ngoài ra, còn có một số gia đình từ miền Trung và miền Nam Việt Nam đã đòi hỏi cho anh em, chồng con họ, những người đã bị cộng sản dùng bạo lực bắt cóc đưa về miền Bắc, phải được hồi hương. Tổng số đơn yêu cầu về việc này là 11.196, đã được chuyển tiếp đến Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến. Ngoài các đơn kiện này, còn có rất nhiều trường hợp khác được gửi trực tiếp đến Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến, và số lượng đơn của những trường hợp này không bao giờ được công bố. Qua sự phản đối, chống lại những yêu cầu của người dân được nêu trên, nhà chức trách Hà Nội phải gánh trách nhiệm về tình trạng đau đớn vì chia ly của các gia đình này. Sau khi cộng sản cấm đoán người dân tự do đi lại ngay cả trong khu vực miền Bắc Việt Nam và ngăn chặn những người muốn di tản đi xa, bây giờ thì họ lại rêu rao, tuyên truyền là „tự do đi lại“ và „khôi phục lại mối quan hệ bình thường“.
Vấn đề cắt giảm lực lượng quân sự
Từ 3 năm qua nhà chức trách Hà Nội luôn luôn cổ võ cho hòa bình. Nhưng hành động của họ luôn tương phản lớn với chủ đề tuyên truyền của họ.
Họ đã không dừng lại mà luôn tăng cường lực lượng quân sự và nâng cấp trang bị vũ khí kể từ sau khi lệnh ngừng bắn có hiệu lực và như vậy là vi phạm Hiệp định Genève do chính họ đã ký kết.
Cần quan tâm đến một giác thư của chính phủ Vương quốc Anh gửi cho Liên Xô ngày 9 Tháng 4 năm 1956. Là đồng chủ tịch của Hội nghị Genève, chính phủ Anh đã cáo buộc chính quyền Hà Nội, kể từ khi ngừng chiến đến nay họ đã tăng cường lực lượng quân sự từ 7 lên 20 sư đoàn.
Ngoại trưởng Pháp tháng 3 năm 1958 cho biết, rằng nhà chức trách Hà Nội đã gia tăng quân đội lên đến 350.000 quân và công an, cảnh sát lên tới 200.000 người.
Họ cũng đã nhập cảng vũ khí từ các nước cộng sản để tăng cường lực lượng quân sự của họ. Trong ba năm qua họ đã không tôn trọng Hiệp định Genève, bởi vì họ chưa bao giờ thông báo cho Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến về việc nhập cảng vũ khí vào Việt Nam.
Mâu thuẫn với thực tế, nhà chức trách Hà Nội tuyên bố rằng họ đã giảm lực lượng quân sự của họ xuống còn 80.000 người. Nhưng cho đến nay họ chưa bao giờ nói bất cứ điều gì về con số thực sự quân đội của họ, trước khi hoặc sau khi cái họ gọi là giảm quân. Họ không đưa ra bằng chứng về những lời tuyên bố của mình và không chấp nhận mọi cuộc điều tra.
Họ không có lý do duy trì một quân đội mạnh mẽ hơn Việt Nam Cộng Hòa. Đây là mối đe dọa cho nền hòa bình không những chỉ cho Việt Nam mà còn cho các nước ở trong vùng Đông Nam Á. Để có khả năng duy trì một quân đội to lớn như vậy, nhà chức trách BắcViệt áp đặt mức thuế cao và hệ thống „đấu tố“, với hệ thống này họ đã ép buộc những người vợ, những người con phải tố cáo cha mẹ và chồng mình đã „dấu vàng của nhân dân“. Những người này thậm chí đã phải tự đánh mình và cuối cùng họ bị xử tử ngay tai chỗ mà không thông qua một cuộc xét xử của toà án. Có thể nói rằng dân tộc chúng tôi phải chịu nhiều đau khổ với chính quyền miền Bắc hơn bất kỳ dân tộc nào khác trên thế giới này.
Ngược lại, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã luôn luôn phục vụ cho nền hòa bình kể từ hiệp định Genève. Để đảm bảo lực lượng lao động cần thiết cho việc tái thiết đất nước bị tàn phá bởi chiến tranh, chúng tôi đã giảm quân đội từ 242.000 xuống còn 150.000, đồng thời chúng tôi đã không bổ xung thay thế 180.000 binh lính của „Đội quân Viễn chinh“ Pháp. Cộng sản mong muốn duy trì Đội quân này lại ở Việt Nam. Vấn đề giảm lực lượng quân sự được phổ biến rộng rãi, điều này rất dễ kiểm chứng.
Nhân đây cũng xin nhắc lại lời tuyên bố long trọng của Chính phủ Quốc gia vào ngày 6 Tháng 4 năm 1956 là không tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào và không cho phép cài đặt căn cứ quân sự ngoại quốc trên lãnh thổ của mình.
Vấn đề trao đổi thương mại
Trong thư đề ngày 7 Tháng Ba nhà chức trách Hà Nội đã đề xuất việc trao đổi thương mại với miền Nam. Qua đánh giá đề nghị này và qua tin tức nhận được cho thấy rằng đồng bào miền Bắc mong muốn, cầu xin sự giúp đỡ của thân nhân hoặc bạn bè ở miền Nam, có thể một vài mét vải hoặc vài viên thuốc aspirin. Nền kinh tế miền Bắc do sự thống trị của **** Cộng sản đang ở dưới đáy vực sâu. Đề nghị của cộng sản không nhằm mục đích nâng cao đời sống của dân chúng miền Bắc. Do hệ thống độc quyền với chính sách nội thương và ngoại thương mà họ đã đề ra là mua sản phẩm nông nghiệp của dân chúng với giá rẻ mạt và bán lại những sản phẩm này với giá cao hơn đáng kể. Mục tiêu của họ chỉ là, thu thập sự phong phú của miền Nam vào ngân sách **** của họ. Nếu nhà chức trách miền Bắc muốn đề nghị của họ được duyệt xét thì điều kiện đầu tiên là họ phải đặt quyền lợi người dân lên trên lợi ích của ****. Đồng thời họ phải để cho dân chúng miền Bắc toàn quyền tự do thương mại và từ bỏ sự độc quyền kinh tế mà **** cộng sản đã chiếm đoạt từ trước đến giờ.
Vấn đề trao đổi thư từ và bưu thiếp.
Mặc dù cộng sản không đề cập đến đề tài này trong thư của họ đề ngày 7 tháng ba năm 58, nhưng họ đã nhiều lần đề nghị nối lại dịch vụ bưu chính giữa hai khu vực. Cho đến hôm nay, cộng sản đã sử dụng các bưu thiếp như một phương tiện tuyên truyền nhiều hơn so với những phong thư được đóng kín. Yêu cầu trao đổi thư từ của họ không ngoài mục đích nào khác là tăng cường chiến dịch đe dọa và ăn xin người dân miền Nam. Vì quyền lợi của dân chúng, Chính phủ Quốc gia không thể thực hiện đề nghị này, nhưng Chính phủ yêu cầu cộng sản khai triển trao đổi bưu thiếp một cách đơn giản để nhân dân của hai Miền có thể liên lạc được với nhau.
Sự thật được mô tả trên đây cho thấy bản chất lừa đảo của các đề nghị của cộng sản, chẳng hạn như tăng cường củng cố lực lượng quân sự của mình, lệnh cấm di chuyển giữa hai khu vực, các vụ giết người muốn di tản về miền Nam, họ đã gây ra những trở ngại để các thân nhân của các gia đình sống tản mác không tìm được nhau và lợi dụng việc trao đổi bưu thiếp nhằm vào mục đích tuyên truyền.
Mâu thuẫn giữa tuyên truyền và hành động của nhà chức trách Hà Nội thật đã rõ ràng. Từ nhiều năm qua thái độ của họ vẫn luôn như một. Để chứng minh thái độ của họ đã thay đổi, họ hãy thực hiện một số hành động cụ thể như sau:
1) Họ hãy để cho 92 319 người và 1955 gia đình thực hiện ý nguyện của mình là được di cư về miền Nam, đơn của những người và gia đình này đã nộp cho Ủy hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến, để những người này được đoàn tụ với gia đình của họ.
2) Họ nên giảm lực lượng quân sự của họ tương đương với miền Nam Việt Nam. Việc giảm bớt phải được xác nhận là đúng bởi một Ủy ban quốc tế hữu trách. Sau đó vấn đề giới hạn lực lượng quân đội của hai vùng mới được bàn thảo.
3) Họ cần phải xóa bỏ cái gọi là „Ủy ban Giải phóng miền Nam“, bằng cách từ bỏ khủng bố, giết dân cư của những làng mạc xa xôi hẻo lánh, phá hoại cơ sở Chính phủ nhằm cải thiện đời sống của người dân, đặc biệt trong lĩnh vực cải cách ruộng đất và nông nghiệp.
4) Họ phải từ bỏ sự độc quyền kinh tế của **** Cộng sản, để nhân dân miền Bắc Việt Nam được làm việc trong hoàn toàn tự do và qua đó, có thể tăng mức sống của họ hiện đã bị giảm xuống đến mức chưa từng có từ xưa đến nay.
5) Họ không được buộc dân chúng phải cất tiếng ca ngợi họ[2] trong các bưu thiếp. Họ nên giải tán ban biên tập công tác tuyên truyền phục vụ bưu thiếp. Họ không được trả thù những người nhận hoặc gửi bưu thiếp.
6) Họ phải tôn trọng các quyền tự do dân chủ trong khu vực của họ như ở miền Nam và nâng cao mức sống của dân chúng miền Bắc, ít nhất được tương đương với dân chúng miền Nam; họ không được dùng chế độ vô nhân đạo của họ để làm cho khoảng cách giữa hai vùng lớn hơn nữa.
Nếu khảo sát các sự kiện kỹ càng, ta sẽ nhận thấy bức thư ngày 7 Tháng Ba năm 58 của nhà chức trách Hà Nội có mục đích chủ yếu nhằm tuyên truyền và phá hoại, chống lại sự giúp đỡ của các quốc gia bạn. Cộng sản đã hành động theo đơn đặt hàng của Liên Xô và cộng sản Trung Quốc, trong lá thư trên đã chỉ trích gay gắt Mỹ và cáo buộc người Mỹ can thiệp vào nội bộ của miền Nam Việt Nam.
Thực tế hoàn toàn ngược lại với những cáo buộc của cộng sản: mối quan hệ Việt-Mỹ hoàn toàn bình đẳng dựa trên luật pháp quốc tế giữa hai nước, cùng tôn trọng chủ quyền của nhau. Tương tự sự liên kết giữa Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và các nước trong thế giới Tự do. Mục đích mối quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Hoa Kỳ chỉ nhằm bảo đảm nền hòa bình và tự do.
Mối quan hệ giữa nhà chức trách Hà Nội cùng giới thống trị Nga và Trung Quốc, thuộc một thể loại khác. Họ là một vệ tinh đối với giới cai trị. Họ là hạ cấp so với thượng cấp trong hệ thống phân cấp của một ****: **** Cộng sản Quốc tế. Sự phụ thuộc này không chỉ được thể hiện qua sự đồng nhất của các tổ chức chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, xã hội theo kiểu mẫu của cộng sản Liên Xô và Trung Quốc, mà sự lệ thuộc này còn thâm nhập ngay cả vào lĩnh vực tư tưởng: trong các nghị định và các quy định của họ nhà chức trách Hà Nội bắt buộc dân chúng miền Bắc phải học các hệ tư tưởng cộng sản và sống theo đường lối chính trị của Nga và Trung Quốc.
Ở miền Nam, không ai bị bắt buộc phải tôn thờ các nhà lãnh đạo ngoại quốc và treo hình ảnh họ trong nhà, ở đây không ai có thể tưởng tượng rằng họ có thể hành xử điều kỳ lạ nêu trên.
Ở miền Bắc, nhà chức trách ép buộc dân chúng phải sùng bái các các nhà lãnh đạo Nga và Trung Quốc, treo hình ảnh của họ ở nhà và trong những ngày lễ của Liên Xô. Đồng thời họ cấm đoán dân chúng không được phê bình ý thức hệ cộng sản, không được phê bình chính phủ và giới lãnh đạo các nước cộng sản.
Thái độ hèn hạ của nhà chức trách Hà Nội đối với cộng sản ngoại quốc đã hủy hoại đời sống của dân tộc Việt, và là trở ngại lớn nhất cho công cuộc thống nhất đất nước.
Hệ tư tưởng cộng sản hoàn toàn phản nghịch với truyền thống tâm linh của châu Á và tính chất quốc gia của dân tộc Việt Nam.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc bầu cử tự do, nhà chức trách Hà Nội phải hủy bỏ chế độ cộng sản mà họ đã áp đặt lên người dân miền Bắc.
Họ không nên nhắm mắt và tự bịt tai. Họ phải học hỏi để hiểu cho ra rằng, Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và Dân tộc Việt Nam không bao giờ chấp nhận cuộc bầu cử không có sự tự do và chân thành.
Nguyễn Hội
sưu tầm và dịch từ văn bản tiếng Đức „Erklärung der Regierung der Republik Vietnam von 26. April 1958 über die Frage der Wiedervereinigung“ do văn phòng Sứ Thần VNCH tại CHLB Đức xuất bản năm 1958.
[1] bản tiếng Đức ghi là dẫy núi An Nam
[2] nguyên văn tiếng Đức là: Họ không được buộc dân chúng phải cất tiếng hát những bài ca tụng họ trong các bưu thiếp“
Đây là Tổng tuyển cử có sự giám sát của quốc tế

chung quy cũng vì VNCH sợ thua . VNDCCH chỉ đòi tổng tuyển cử chưa đòi xoá bỏ VNCH

Còn VNCH đòi xoá bỏ VNDCCH
Tổng thống Mỹ Eisenhower thấy khoảng 80% dân số Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu cuộc tổng tuyển cử được thi hành.
 

matizvan2009

Xe ba gác
Biển số
OF-42690
Ngày cấp bằng
8/8/09
Số km
23,148
Động cơ
757,349 Mã lực
Ôi rời!, đang từ Nga các cụ lại lôi nhau về bới móc cái thây ma nghẻo từ đời nào lên để vật nhau, khổ chết rồi còn không yên, cứ bới móc thế này làm sao mà siêu thoát được...mô phật <:-P
cái này gọi là "giữa mạc tư khoa nghe câu hò nghệ tĩn"
 

bpq

Xe buýt
Biển số
OF-316494
Ngày cấp bằng
19/4/14
Số km
911
Động cơ
291,493 Mã lực
Em pót 1 bài để các cụ tham khảo, chính xác thì VNCH và Mỹ không ký vào hiệp định Geneve, tức là họ không công nhận sự ràng buộc hiệp định này từ đầu rồi, hiệp định này chỉ có giá trị giữa Pháp và Việt Minh thôi:

-----------

Để nhìn lại thực chất của cuộc chiến tranh Việt nam phải nhìn lại Hiệp Định Genève ngày 20 tháng 7 năm 1954. Sau chín năm chiến tranh triền miên (1946-1954), dân chúng Việt Nam rất khao khát hòa bình, nhưng giấc mơ hòa bình vẫn còn ngoài tầm tay của người Việt. Đất nước chia đôi, dân tộc chia đôi ! Người Việt ở cả hai phía nói chung, hoàn toàn không thể tự quyết định tương lai của chính mình, mà phải bị động trước những áp đặt của ngoại bang. Bất cứ một ngoại bang nào đến với Việt Nam cũng đều vì quyền lợi riêng tư của họ, chứ chẳng phải vì yêu thương hay giúp đỡ nước Việt Nam. Một số câu hỏi được đặt ra ngay tới tận ngày nay: Sau trận Điện Biên Phủ (7.5.1954), khi Pháp quyết định bỏ chạy khỏi Việt Nam, tại sao Việt Minh không thừa thắng xông lên, chiếm lấy tất cả Việt Nam mà lại chịu kỳ hiệp định chia đôi đất nước ? Ai vi phạm Hiệp định Genève ?

Vì sao ông Hồ Chí Minh không thừa thắng xông lên mà chịu ký Hiệp định Genève? Có nhiều lý do được đưa ra không ai biết chắc đúng hay sai. Nhiều người cho là miền bắc Việt Nam đã chịu áp lực của Liên Xô và Trung quốc. Các đàn anh này muốn kết thúc cuộc chiến ở Đông Dương, sau khi họ đã ký kết chấm dứt chiến tranh ở Hàn Quốc. Để làm áp lực, hai nước đàn anh hứa tiếp tục viện trợ với điều kiện bắc Việt Nam chịu đến bàn hội nghị ở Genève.

Tuy nhiên, cũng có người lại nói chính bắc Việt Nam muốn ký hiệp ước vì sợ đằng sau nước Pháp còn có Mỹ, phải ngưng chiến để không cho Mỹ có lý do can thiệp vào Việt Nam. Ông William J. Duiker, trong cuốn “The Communist Road to Power in Vietnam” kể rằng ông Hồ Chí Minh đã mất công thuyết phục cánh chủ chiến trong **** Cộng Sản, trong phiên họp Trung Ương **** vào Tháng Bảy năm 1954. Ông Hồ nói rằng những người trong Trung Ương **** muốn tiếp tục chiến tranh không nhìn thấy mối nguy là quân Mỹ có thể sẽ nhảy vào Việt Nam giúp chính phủ quốc gia của Bảo Đại, thay chỗ của Pháp. Đó là mối lo chính đáng của Hồ Chí Minh, con người có kinh nghiệm quốc tế nhiều hơn các lãnh tụ cộng sản khác.

Nhưng một câu hỏi thực tế là, lúc đó Việt Minh có đủ sứ tiến đánh tới toàn thắng, nếu Mỹ không can thiệp hay chăng? Tướng Navarre, người chỉ huy quân Pháp thời đó, cho biết rằng trong năm 1954 lực lượng Việt Minh đã cạn sức vì dồn hết sức vào chiến dịch Điện Biên Phủ. Để chiếm lấy một cứ điểm có 16,000 quân Pháp, Việt Minh đã huy động gần 50,000 quân chủ lực, 55,000 quân phụ lực, và 100,000 dân công tiếp tế cho chiến trường. Phía Pháp chết khoảng 1,500 quân, 4,000 bị thương; trong khi phía Việt Nam mất 25,000 người trong đó 10,000 người chết. Nhiều người phía Việt Minh thì cho là sau khi thắng trận ở Điện Biên Phủ, họ đủ sức sẵn sàng mở ra những cuộc hành quân ở vùng châu thổ sông Hồng Hà để tiêu diệt lực lượng Pháp và quân đội quốc gia. Tất nhiên họ không dự trù việc tham dự của Mỹ có thể xảy ra, và cũng không biết các điều kiện viện trợ của Liên Xô và Trung Cộng mà ông Hồ Chí Minh biết.

Ai vi phạm Hiệp định Genève? Chính phủ Ngô Đình Diệm lúc đó không chịu ký vào Hiệp Định Genève, cũng vì không muốn chịu trách nhiệm trước lịch sử việc tái diễn Hận Sông Gianh. Có thể nói không ai vi phạm cả vì Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam tức Hiệp Định Đình Chiến Genève chỉ có tính cách thuần túy quân sự, nói về việc rút quân, tập trung quân, thời hạn chuyển quân...mà hoàn toàn không đề cập đến giải pháp chính trị. Có nghĩa là không phải là một Hiệp định Hòa bình. Và điểm đặc biệt không có phái đoàn nào ký tên vào bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’ ngày 21.7.1954.

Để bỏ chạy an toàn, Pháp thỏa mãn những đòi hỏi về phía khối cộng sản, thỏa hiệp với cộng sản chia hai nước Việt Nam và ấn định lịch Tổng Tuyển Cử năm 1956, mà không cần đếm xỉa đến ý nguyện của chính phủ Quốc Gia Việt Nam. Pháp quyết ký Hiệp Định Genève (20.7.1954), để vĩnh viễn rút quân ra khỏi ba nước Đông Dương, không còn liên hệ gì đến Việt Nam. Như thế, Pháp dựa vào tư cách nào để ấn định lịch Tổng Tuyển Cử vào năm 1956 về tương lai chính trị nước Việt Nam? Lịch Tổng Tuyển Cử nầy lại không được các phái đoàn tham dự ký kết để bảo đảm thi hành.

Hội Nghị Genève về Đông Dương với 9 phái đoàn là ngũ cường Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, và bốn chính phủ liên hệ ở Đông Dương là Quốc Gia Việt Nam, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Việt Minh), Lào, Cambodge (Cambodia), bắt đầu ngày 8.5.1954, một ngày sau khi kết thúc trận Điện Biên Phủ. Phái đoàn Quốc Gia Việt Nam do Ngoại Trưởng Nguyễn Quốc Định cầm đầu khi Hội Nghị bắt đầu. Sau đó, để tăng cường, Quốc Gia Việt Nam gởi phó Thủ Tướng Nguyễn Trung Vinh làm Trưởng Đoàn, Nguyễn Quốc Định phụ tá. Khi Ngô Đình Diệm chấp chánh ngày 7.7.1954, thì tân Ngoại Trưởng Trần Văn Đỗ đến thay Nguyễn Trung Vinh. Phái đoàn Việt Minh do Phạm Văn Đồng lãnh đạo. Lúc đó ông Đồng đã được chỉ định làm Phó Thủ Tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Sau gần 20 ngày hội họp tại Genève, ngày 26.5.1954, Pháp và Việt Minh thỏa thuận ngừng bắn ở Việt Nam, rút quân về những khu vực chỉ định. Ông Phạm văn Đồng đề nghị cách phân chia thật giản dị là chia hai nước Việt Nam ở vĩ tuyến 13. Việt Minh rút về Bắc, Pháp rút về Nam. Pháp chưa quyết định. Anh Quốc tán thành, Hoa Kỳ phản đối. Chính phủ Quốc Gia Việt Nam chủ trương thống nhất, không chia cắt. Tại Sài Gòn, Thủ Đô của chính phủ Quốc Gia Việt Nam, Quốc Dân Đại Hội họp phiên bất thường cũng trong ngày 26.5.1954, phản đối mạnh mẽ việc chia hai đất nước.

Kể từ 20.6.1954, các Ngoại Trưởng tạm nghỉ và về nước tham khảo ý kiến. Trong thời gian nghỉ họp, Châu Ân Lai về lại Trung Quốc. Ông mời Hồ chí Minh và Võ nguyên Giáp qua Liễu Châu (Liuzhou), thuộc Tỉnh Quảng Tây (Kwangsi hay Guangxi), hội họp từ ngày 3.7.1954. Trong cuộc gặp gỡ nầy, Châu Ân Lai khuyên Hồ chí Minh chấp nhận thượng sách là hòa để tránh mở rộng chiến tranh, vì nếu tiếp tục mở rộng chiến tranh, Hoa Kỳ sẽ can thiệp. Theo Châu Ân Lai, Việt Minh nên giải quyết riêng biệt chuyện Lào và Miên, đồng thời chia hai nước Việt Nam ở khoảng vĩ tuyến 16. Với kinh nghiệm chiến tranh Triều Tiên, Châu Ân Lai khuyên Việt Minh không nên đòi hỏi thái quá, khiến Pháp sẽ ở thế phải nhờ Hoa Kỳ can thiệp.
Cũng theo Châu Ân Lai, trong trường hợp Hoa Kỳ can thiệp vào chiến tranh Việt Nam, với binh lực hùng hậu, Hoa Kỳ sẽ có thể lật ngược tình thế như trong chiến tranh Triều Tiên trước đây. Về phía phái đoàn Việt Minh, trong Hội Nghị nầy, Võ nguyên Giáp cho biết nếu phải rút đi, thì chỉ rút những người làm công tác chính trị bị lộ diện, phần còn lại thì ở lại miền Nam chờ thời cơ, có thể khoảng 10,000 cán bộ. Hội Nghị Liễu Châu giữa Châu Ân Lai và Hồ chí Minh kết thúc sau phiên họp cuối cùng tối ngày 5.7.1954.

Sau kỳ nghỉ, hội nghị Geneve họp tiếp, Tân Thủ Tướng Pháp là Mendès-France đích thân đến Genève để hội đàm với Ngoại Trưởng Liên Xô là Mikhailovich Molotov ngày 10.7, và Ngoại Trưởng Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là Châu Ân Lai trong hai ngày 12 và 13.7. Pháp, Liên Xô và Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa thỏa thuận giải pháp chia hai nước Việt Nam. Pháp đòi chia ở vĩ tuyến 18. Trung Hoa đề nghị vĩ tuyến 16, rồi đổi vĩ tuyến 17. Sau đó, khi Châu Ân Lai gặp Phạm văn Đồng, đại biểu của Việt Minh, Châu Ân Lai áp đặt ý định của các cường quốc. Phạm văn Đồng đành chấp nhận. Đại Biểu Quốc Gia Việt Nam là Bác Sĩ Trần Văn Đỗ phản đối việc chia cắt đất nước bất cứ ở đâu. Cuối cùng, sau những tranh cãi và mặc cả vào buổi chiều ngày 20.7.1954, hiệp ước đình chiến được soạn thảo xong và ký kết sau 12 giờ đêm 20.7, qua sáng 21.7.1954 trong lúc đồng hồ ở trụ sở ký kết vẫn giữ nguyên ở 12 giờ đêm 20.7.1954. Danh xưng chính thức của Hiệp Định Genève là Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam. Hiệp Định nầy được viết bằng hai thứ tiếng Pháp và Việt, có giá trị như nhau. Hai nhân vật chính ký vào hiệp ước đình chiến Genève là Henri Delteil, Thiếu Tướng, thay mặt Tổng Tư Lệnh Quân Đội Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương và Tạ quang Bửu, Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Các nước khác cùng ký vào Hiệp Định Genève còn có Anh, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Lào, Cambodia. Hai chính phủ Quốc Gia Việt Nam và Hoa Kỳ không ký vào bản Hiệp Định nầy. Sau khi Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự ở Việt Nam được ký kết, các phái đoàn họp tiếp ngày 21.7.1954 và ‘’thông qua’’ bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’. Đây chỉ là lời tuyên bố (Déclaration) của bảy phái đoàn, có tính cách dự kiến tương lai Việt Nam, và đặc biệt không có phái đoàn nào ký tên vào Bản Tuyên Bố nầy, nghĩa là Bản Tuyên Bố không có chữ ký. Khi chủ tịch phiên họp là Anthony Eden (Ngoại Trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, thì 7 phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Lào và Cambodge (Cambodia) trả lời miệng rằng ‘’đồng ý’’. Phái đoàn Hoa Kỳ và phái đoàn Quốc Gia Việt Nam không đồng ý, và tự đưa ra tuyên bố riêng của mình.

Bản ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’ gồm 13 điều, trong đó quan trọng nhất là điều 7. Điều nầy ghi rằng: ’Hội Nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau Tổng Tuyển Cử tự do và bỏ phiếu kín. Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng Tuyển Cử sẽ tổ chức vào tháng 7.1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc Tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám Sát và Kiểm Soát Quốc Tế đã nói trong Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự. Kể từ ngày 20.7.1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó’’.

Điều 7 của Bản Tuyên Bố được xem là dự kiến về một giải pháp chính trị trong tương lai, theo đó một cuộc Tổng Tuyển Cử sẽ có thể được tổ chức để thống nhất đất nước, mà sau nầy Bắc Việt dựa vào điều nầy để đòi hỏi Nam Việt tổ chức Tổng Tuyển Cử trên toàn quốc. Bắc Việt thường nói và viết rằng việc tổ chức Tổng Tuyển Cử giữa hai miền Bắc và Nam Việt Nam là theo quyết định của Hiệp Định Genève. Thật ra Hiệp Định Genève chỉ là một Hiệp Định Đình Chỉ Chiến Sự (đình chiến) mà không đưa ra một giải pháp chính trị nào. Giải pháp chính trị về một cuộc Tổng Tuyển Cử giữa hai miền Bắc và Nam Việt Nam dự tính tổ chức vào năm 1956 nằm trong điều 7 của bàn ‘’Tuyên bố cuối cùng của Hội Nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương’’.

Trong Bản Tuyên Bố riêng của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam, Bác Sĩ Trần Văn Đỗ, Trưởng Phái Đoàn, giải thích vì sao phái đoàn Quốc Gia Việt Nam không ký kết Hiệp Định Genève. Sau khi phản đối việc chia cắt đất nước và việc đại diện quân đội Pháp tự ý ký kết Hiệp Định mà không đếm xỉa gì đến quyền lợi của quân đội Quốc Gia và nhân dân Việt Nam, Bản Tuyên Bố của phái đoàn Quốc Gia Việt Nam viết: ‘’Vì thế cho nên chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội Nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp Định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội Nghị ghi nhận rằng chính phủ tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống Nhất, Độc Lập, và Tự Do cho xứ sở’’. Vì phái đoàn Quốc Gia Việt Nam không ký vào Bản Hiệp Định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam (Hiệp Định Genève) và nhất là không tham dự vào bản ‘’Tuyên bố cuối cùng’’, nên chính phủ Quốc Gia Việt Nam tự cho rằng không bị ràng buộc vào điều 7 của Bản Tuyên Bố nầy.

Nguồn: MXH (đã được biên tập).
Vậy là cụ công nhận là Hiệp định Giơnevo không còn giá trị thi hành vì VNCH và Mỹ từ chối công nhận

Vậy chẳng thể kết tội VNDCCH vi phạm hiệp định Giơnevo
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top