[Funland] Số phận bi thãm của một số công thần sau cuộc khởi Nghĩa Lam Sơn

atlas09

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-527718
Ngày cấp bằng
20/8/17
Số km
2,835
Động cơ
191,650 Mã lực
Tuổi
40
Cái đậm đậm là bình luận/nhận định của cụ thôi hay là cụ Đán cụ ý nói thế để em về làng còn kể :))

https://nghiencuulichsu.com/2017/02/10/tran-nguyen-dan-1325-1390-dai-than-nho-si-nha-thien-van-kiem-dao-gia-phan-12/

Tặng Tư đồ Nguyên Đán

Hiện nay, tôi thuộc hạng vất đi,
Ông không phải bậc kỳ tài trong dòng họ.
Cùng già bệnh như nhau,
Nên sớm liệu về vườn ruộng.

Trần Ngạc khẳng định Nguyên Đán không có tài lạ và về vườn là phải, càng sớm càng tốt. Với cách dùng người của Nghệ tông, cả Ngạc lẫn Đán đều biết điều gì sẽ xảy ra và cả hai đều tuyệt vọng. Dường như Nguyên Đán cố nấn ná những giây phút sau cùng mong Thượng hoàng tỉnh ngộ nhưng thất bại. Với cá tính nho nhã, dị ứng bạo lực, Ông không phải là con người thích hợp trong thời điểm gian nan. Trần Ngạc hiểu rất rõ điểm này.

Nguyễn Trãi qua Băng Hồ di sự lục thể hiện lòng kính trọng, trìu mến rất mực đối với ông ngoại. Dưới mắt cháu, người ông là nhân cách lớn : lo đời, thương dân, biết thời thế.

Sau đó hơn nửa thế kỷ, Ngô Sĩ Liên phê phán Nguyên Đán rất nặng lời, cho rằng Ông biết trước vận nước truân chuyên, không tính cách vượt qua lại đem con gửi gắm cho họ Hồ để mưu lợi. Sĩ Liên kết luận Nguyên Đán là người không giữ được lòng nhân.

Sau đó năm thế kỷ, sử quan triều Nguyễn phê bình càng nghiệt ngã, chê bai Nguyên Đán là người nói suông, lo hão, bỏ mặc triều đại sụp đổ, không giữ được lòng trung.

Ngô Thì Sỹ (1726 – 1780), nho thần phủ chúa Trịnh, thống trách Nguyên Đán một cách văn vẻ. Ông cho rằng Nguyên Đán vui chơi Thanh Hư, quên lãng Thiên Trường; tính lợi nhà mình, bỏ mặc nhà vua; chú trọng toàn thân, trối trăn nhòa nhạt.

Phan Huy Chú (1782 – 1840), nhà nho thận trọng, ý kiến nhẹ nhàng hơn, thông cảm Nguyên Đán gặp đời suy, công lao không rõ rệt, nhưng biết phận lui về nên cũng đáng là người hiền.

Người thân như con rể hay cháu ngoại ngưỡng mộ và ca ngợi cụ Trần. Người dòng vua như Nghệ tông hay Trang Định có khoảng cách, nghi ngại hoặc bất bình do khác biệt quan niệm xử lý việc nước.

Bởi nhu cầu giáo dục nhằm đào tạo con người công cụ nên chính sử công kích Nguyên Đán. Thực ra Ông không bất trung, bất nhân, nhưng bất lực. Người muốn thành công trong việc duy trì họ Trần cầm quyền phải đủ can đảm giết không chỉ Quý Ly mà cả Nghệ tông, như Nghệ tông từng giết Nhật Lễ. Đại sự đòi hỏi cá tính chính trị tàn độc như vậy chắc chắn không dành cho tướng công Băng Hồ. Phẩm bình mang tính đạo đức Nho giáo xơ cứng, cận quân thượng, bất cận nhân tình.

Bình luận từ nhà nho kiêm tác gia Ngô Thì Sỹ chất văn thì rõ, chất sử hàm hồ. Nhà nho “hàng thần lơ láo” Phan Huy Chú nếm đủ mùi cay đắng lại tỏ ra kinh lịch việc đời.

Nguyên Đán sống như một người cầm bút, một lãnh đạo hành chính và chính sách có tâm. Ông đã làm hết khả năng trên cương vị được giao. Yêu cầu Ông phải xoay trời chuyển đất là phi thực tế. Còn việc mưu tìm đường sống cho hậu duệ khi biết trước thảm họa thì phụ mẫu nào đành lảng tránh ? Quan Tư đồ không trọn đạo làm anh hùng, nhưng với đạo làm người hẳn không có gì hổ thẹn.
Trần Ngạc là con trưởng Trần Nghệ Tông. Tại sao Tông không dùng Trần Ngạc mà lại làm ngơ cho Hồ Quý Ly giết con mình?
cụ trả lời được câu hỏi này thì sẽ phát hiện nhiều chuyện hay
 

banbuongiayvnxk

Xe tải
Biển số
OF-322885
Ngày cấp bằng
9/6/14
Số km
312
Động cơ
291,748 Mã lực
Như vậy số phận của những công thần lập nhiều chiến công nhất trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đều rất bi thãm. Trong số 5 tướng đứng đầu lập nhiều công lao nhất Khởi Nghĩa Lam Sơn được Lê Lợi tặng biển công thần suy tôn công trạng thì chỉ duy nhất Phạm Vấn người đứng đầu là được chết trong an nhàn, công lao đầy đủ. Bốn người còn lại đều có kết cục đầy nước mắt. Người thì bị vu cho mưu phản, người thì bị đồng đội giết, người thì bị cho là chuyên quyền, người thì bị vu là dùng tà thuật. Có thể nói những công thần đa số là có kết cục bi thảm không chỉ ở Việt Nam mà còn Trung Quốc: vua Lưu Bang khi lên ngôi đã giết Hàn Tín. Chu Nguyên Chương đã giết Từ Đạt đều là những người lập đại công. Sau này vua Gia Long ở Việt Nam cũng làm tương tự: ông đã giết Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường. Có thể nói câu: “ có thể cùng nhau chung hoạn nạn. Sao khó bên nhau lúc thái bình” luôn đúng khi nói về thảm án của những công thần đời xưa sau các cuộc khởi nghĩa thành công.
Hồng Tú Toàn thủ lĩnh đội quân tóc dài sắp thành đại sự đã tính nước tiêu diệt ae có công nên mới thất bại. Sau GP Miền Nam cũng thấy rõ điều này
 

Dấu Mưa

Xe máy
Biển số
OF-485143
Ngày cấp bằng
20/1/17
Số km
89
Động cơ
193,730 Mã lực
Tuổi
30
hóng những bài mới của mợ thớt
 

dtrung

Xe điện
Biển số
OF-8577
Ngày cấp bằng
20/8/07
Số km
3,569
Động cơ
582,403 Mã lực
Trần Ngạc là con trưởng Trần Nghệ Tông. Tại sao Tông không dùng Trần Ngạc mà lại làm ngơ cho Hồ Quý Ly giết con mình?
cụ trả lời được câu hỏi này thì sẽ phát hiện nhiều chuyện hay
Em chịu, cụ kể đi
 

Mon 29V

Xe điện
Biển số
OF-36133
Ngày cấp bằng
27/5/09
Số km
2,523
Động cơ
495,633 Mã lực
Ủn thớt này lên, lâu rồi ko thấy cụ nào vào bàn tiếp nhỉ
 

atlas09

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-527718
Ngày cấp bằng
20/8/17
Số km
2,835
Động cơ
191,650 Mã lực
Tuổi
40
Hồ Quý Ly vốn tên là Lê Quý Ly do tổ 4 đời làm con nuôi họ Lê nên đổi họ. Quý Ly có 2 bà cô ruột lấy vua TRần Minh Tông là 2 chị em Minh Từ Và Đôn Từ
Minh Từ sinh ra Hiến Tông (15/3/1329-24/7/1341); và, Trần Phủ (Nghệ Tông, 3/12/1370-4/12/1372, TTH – 6/1/1395), hay Trần Thư Minh [Shu-ming], quyền thự quốc sự từ 1370 tới 1374 trong Minh thực lục. Đôn Từ sinh ra Trần Duệ Tông
Như vậy Hồ Quý Ly là em con cô con cậu của Trần Nghệ Tông và cả Trần Duệ Tông ông vua chết trận ở Chiêm Thành.
Qua đường giây “họ ngoại,” Quí Ly trở thành thân tín của Nghệ Tông, biểu trưng uy quyền họ Trần từ năm 1370, khi Hữu tướng quốc Trần Phủ làm đảo chính Trần [Dương] Nhật Lễ (18/7/1369 – 9/12/1370)—tức “Trần Nhật Kiến.” vua thứ tám, khác họ nhà Trần. Mẹ cha Nhật Lễ là đào kép hát (Vương Mẫu và Dương Khương), nhưng Lễ trở thành con thừa nhận của Trần Dục, hoàng tử lớn của Minh Tông và Hiến Từ. Trần Dục không được chọn làm vua vì “ngông cuồng” và chết sớm. Trong nỗi tưởng nhớ và ý định đền bù cho Dục, Hiến Từ lập Nhật Lễ lên kế vị Dụ Tông. Bởi thế, sử Lê chép Dụ Tông lập di chiếu truyền ngôi cho Nhật Lễ. Hữu Tướng quốc Phủ ( Trần Nghệ Tông) cũng gả con gái cho Nhật Lễ.
lúc này mối quan hệ giữa nhà Trần và vị vua mới vừa thành lập nhà Minh là Chu Đức Dụ ( Chu Nguyên Chương) rất tốt đẹ. Dụ Tông (2/10/1341- 29/6/1369), rất được Chu Đức Dụ yêu quí, gọi bằng Trần Nhật Khuê [Ri-kui]. Ngày 10/5/1370, Đức Dụ mặc áo tang đích thân tới cửa Tây hóa đón sứ đoàn Việt báo tang từ Hà Nội, và hết lời khen ngợi lòng trung hiếu của “man di. Nhưng khi phái đoàn phong vương của Chu Đức Dụ về đến hà Nội phong vương cho Trần Dụ Tông thì ông này chết trước khi được nhận sắc phong. Dụ Tông truyền ngôi cho Nhật Lễ Cùng lúc này, sứ đoàn nhà Minh sang sắc phong cho Dụ Tông tới Đại Việt. Nhật Lễ (tên ngoại giao với nhà Minh là Trần Nhật Kiên) xin được thụ phong nhưng sứ nhà Minh là Trương Dĩ Ninh (張以寧) không đồng ý. Nhật Lễ phải cử sứ là Đỗ Thuấn Khâm (杜舜欽) sang nhà Minh báo tang và cầu phong.
Dương Nhật lễ trớ trêu thay lại là vị vua duy nhất mà được nhà Minh phong vương khi còn đang làm vua.
Nhưng mẹ Nhật Lễ có thể dính líu đến tham vọng trở lại họ Dương của con. Ngày 12/1/1370, Hiến Từ Tuyên Thánh Thái Hoàng Thái hậu bị đầu độc chết, và Lễ bị tình nghi là thủ phạm. Rồi đến cuộc thanh trừng 18 tôn thất sau cuộc mưu sát hụt Lễ trong một đêm Thu 1370. Theo Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhận, Đại Định Đế lên ngôi nhưng bỏ bễ công việc, ham chơi, rượu chè, cho đón cha ruột Dương Khương vào triều, giữ chức Lệnh thư gia, có ý đổi sang họ Dương khiến các quan trong triều bất bình. Hiến Từ Thái hậu, mẹ Dụ Tông tỏ ý hối hận việc lập Nhật Lễ. Nhật Lễ bèn ngầm đánh thuốc độc giết chết vào ngày 14 tháng 12 năm Kỷ Dậu (tức 12 tháng 1 năm 1370).

Đêm ngày 20 tháng 9 năm Canh Tuất (tức 9 tháng 10 năm 1370), cha con quan Thái tể Trần Nguyên Trác, Trần Nguyên Tiết và hai người con của Thiên Ninh công chúa (chị gái cùng mẹ của Dụ Tông) đem người tôn thất vào thành định giết Đại Định.

Đại Định Đế trèo qua tường, nấp dưới cầu mới. Mọi người lùng không thấy, giải tán ra về. Khi trời sắp sáng, Đại Định Đế vào cung, chia người đi bắt Nguyên Trác cùng 17 người chủ mưu và giết hết[
Bởi vậy, dù Nhật Lễ là vua duy nhất được nhà Minh phong vương khi tại vị, Hữu thừa tướng Phủ, cùng hai em phế Lễ, rồi ngày 9/12, cho lệnh đánh chết cả hai cha con Lễ.
https://nghiencuulichsu.com/2016/10/18/dai-viet-duoi-ach-do-ho-cua-nha-minh-giao-chi-do-thong-su-ti-571407-311428/
 
Chỉnh sửa cuối:

atlas09

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-527718
Ngày cấp bằng
20/8/17
Số km
2,835
Động cơ
191,650 Mã lực
Tuổi
40
Chu Đức Dụ vô cùng bực mình vì vụ đảo chính của Trần Phủ ( Trần Nghệ Tông) khi giết chết Dương Nhật lễ vị vua mà được ông ta đích thân phong tặng là An Nam Quốc Vương. Ông đã từ chối phong vương cho Trần Nghệ Tông gọi đây là hành động phản nghịch và gây sức ép ngược với Trần Nghệ Tông. Chính vì sức ép của thiên triều chỉ 2 năm sau khi lên ngôi Trần Nghệ Tông buộc phải nhường ngôi cho em mình là Trần Duệ Tông ( Trần Kính). bản thân làm thái thượng hoàng
Trần Kính lên ngôi giành hết mọi việc chứng tỏ bản thân là người quyết đoán sửa sang võ bị chính đốn triều cương khiến cho vai trò thượng hoàng trở nên mờ nhạt dần
lúc này mối quan hệ giữa Trần Nghệ Tông và anh em con cô con cậu với ông là lê Quý Ly càng gắn bó. Nghệ Tông lại đem em gái mới góa chồng là Huy Ninh công chúa gả cho Quý Ly.
việc lật đỗ Nhật lễ còn gây mối họa Chiêm Thành. Biến cố trên khiến Vương Mẫu mẹ Nhật Lễ chạy sang Chiêm Thành xin quân đánh Thăng Long, nhưng bị bão lớn, thiệt hại nặng ở cửa biển Đại An. Từ năm này, vua Chiêm—xuất hiện như Chế Bồng Nga (1370-8/2/1390) trong sử Việt, A Da A Zhe trong Minh thực lục, được Chu Đức Dụ phong vương ngày 11/1/1370—tạo ra bao ác mộng. Trong hai chục năm kế tiếp, Chế Bồng Nga đánh phá, cướp của, lùa dân từ Hóa Châu ra tới Nghệ An, Thanh Hóa, và bốn lần cướp Thăng Long (năm 1371, 1377, 1378, 1384). Trần Nghệ Tông, rồi Trần Hiện chỉ biết chạy giặc, chôn dấu kho tàng tới tận Lạng Sơn. Năm 1377, Duệ Tông mang 120,000 quân vào đánh Chiêm, nhưng bị tử trận ngày 4/3/1377 (hoặc 8/3/1377, theo tư liệu Minh) tại chân thành Đồ Bàn (Vijaya). Con trai lớn Nghệ Tông bị bắt sống. Hầu hết tùy tướng của Duệ Tông tử trận. Chỉ có Quí Ly, phụ trách tiếp vận, cùng Đỗ Tử Bình, chỉ huy hậu quân, chạy thoát thân. Cuộc thảm bại này khiến cán cân quân sự giữa hai nước thay đổi hẳn.
cái chết của Trần Duệ Tông tại Chiêm Thành nhưng nhà Trần không dám báo cáo sự thực chỉ cho sứ sang nhà Minh báo tang là Trần Duệ Tông bị chết đuối, điều này càng khiến Chu Đức Dụ ngờ vực đặc biệt là qua nguồn tin riểng của ông ta ông nắm rõ thất bại và cái chết của vua Đại Việt ở Chiêm Thành
 

atlas09

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-527718
Ngày cấp bằng
20/8/17
Số km
2,835
Động cơ
191,650 Mã lực
Tuổi
40
Thái độ Chu Đức Dụ với vua Trần cũng lạnh nhạt dần. Thoạt tiên không chịu phúng điếu Duệ Tông, vì “chết đuối” là một trong ba trường hợp cấm kỵ. Rồi không thừa nhận Trần Hiện hay Nghiễn, tức Phế đế (19/6/1377 -3/1/1389). Đức Dụ còn sai bộ Lễ viết thư cho Nghệ Tông, khuyên bảo nên cùng Trần Hiện xét lại việc làm của mình, “trở lại với Đạo Trời. Dân chúng đã phải chạy loạn.”

Sử Việt đều ghi Đức Dụ sai Đỗ Tử Hiền, Ổ [Sư] Lân, [Du] Hình Văn Bác sang Hà Nội phong vương cho Đế Hiện; nhưng tới nơi, Đế Hiện đã chết. Tranh chấp mãi, nhà Minh mới chịu qua phúng điếu;

Minh thực lục chỉ có những thông tin khiến khó thể nghĩ rằng Đức Dụ muốn phúng điếu hay phong vương cho Đế Hiện. Thí dụ như lời chê trách Đế Hiện ngày 24/6/1381 là “đểu giả và ác độc” [villainous], “phóng đãng vô luân” [dissolute] và “hỗn láo” [insulting] trong cuộc tranh chấp đất đai với phủ Tư Minh, cùng quyết định trả lễ cống, và cấm Quảng Tây, Quảng Đông nhận chuyển cống lễ của nhà Trần.
Vì sao Trần Nghệ Tông phải tin dùng Quý Ly trước hết vì mối quan hệ họ hàng nhưng sâu xa hơn là Trần Nghệ Tông người giành ngôi từ đảo chính thực sự sợ các thế lực của họ Trần luôn rình mò đằng sau lưng ông ta.
cái chết của Duệ Tông sâu trong tâm khảm là điều mà Nghệ Tông muốn. Duệ Tông khi lên ngôi đã quyết đoán làm việc giành hết mọi quyền lực khiến cho Thượng Hoàng trở nên thừa thãi trong cung vua. Một người mới làm vua chỉ 2 năm là buộc nhường ngôi cho em trai bị tước hết quyền lực thì dĩ nhiên là không chịu được.
Cho nên sau cái chết của Duệ Tông thì Nghệ Tông không trách phạt gì Quý Ly và Tử Bình hai thủ phạm đẩy Duệ Tông vào chỗ chết mà còn trọng dụng nhiều hơn đặc biệt là Quý Ly.
sau cái chết của Duệ Tông thì Nghệ Tông lập Trần Hiện là con của Duệ Tông lên tức Trần Phế Đế. vì Trần Hiện còn nhỏ nên Nghệ Tông quyết hết chính sự, lúc này ông mới thực sự nắm vai trò của Thái Thượng Hoàng.
lúc này sau cái chết của Chế Nga thì Quí Ly nhiều lần được trao nhiệm vụ chống Chiêm. Năm 1387, Quí Ly lên tới chức Đồng Bình Chương sự, tức tể tướng, cờ biển có bốn chữ “văn võ toàn tài.” Tha hồ kéo phe, kết đảng. Uy quyền Quí Ly mạnh đến độ bất cứ âm mưu chống đối nào đều bị bẻ gãy, kể cả vua Trần Hiện.
Trần Hiện lúc này đã lớn và ông ta quyết liên kết với các quý tộc Trần trong đó có cả con lớn của Nghệ Tông là Trần Ngạc.
Bấy giờ, Hoàng đế Trần Hiện thấy thượng hoàng quá tin dùng Quý Ly, mới bàn với thái úy Trang Định vương Trần Ngạc (là con trưởng của thượng hoàng) rằng nếu không trừ đi ắt thành vạ to. Không ngờ rằng, người hầu vua học là Vũ Như Mai biết được chuyện này, liền báo cho Quý Ly biết trước. Nguyễn Đa Phương khuyên ông nên tránh ra núi Đại Lại (ở huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa ngày nay) để chờ đợi biến động. Trong khi đó, Phạm Cự Luận lại can rằng:[21][22]

"Không được, một khi đã ra ngoài thì khó lo chuyện sống còn".
Quý Ly nói:

"Nếu không còn phương sách gì thì ta đành tự tử, không để tay kẻ khác giết mình".
Cự Luận nói:

"Thượng hoàng trong lòng vẫn căm vua về việc giết Quan Phục Đại Vương [Trần Húc], vua rất không hài lòng. Nay quyền bính trong thiên hạ đều ở đại nhân cả mà vua lại mưu hại ngài thì Thượng hoàng lại càng ngờ lắm. Đại nhân hãy liều vào lạy Thượng hoàng, bày tỏ lợi hại, thì nhất định Thượng hoàng sẽ nghe theo ngài, chuyển họa thành phúc, dễ như trở bàn tay. Thượng hoàng có nhiều con chính đích, ngài cứ tâu rằng thần nghe ngạn ngữ nói "Chưa có ai bán con để nuôi cháu, chỉ thấy bán cháu để nuôi con may ra thượng hoàng tỉnh ngộ mà đổi lập Chiêu Định Vương. Nếu thượng hoàng không nghe thì chết cũng chưa muộn".
Quý Ly nghe vậy, bèn bí mật vào yết kiến thượng hoàng rồi cứ y tâu như lời Cự Luận.[23] Thượng hoàng nghe vậy, bèn giả vờ vi hành về Yên Sinh, rồi sai người gọi Đế Hiễn đến bàn việc nước. Đế Hiễn đến, lập tức bị bắt rồi bị giam vào chùa Tư Phúc. Các tướng chỉ huy các phủ quân cũ như tướng chỉ huy quân Thiết Liêm là Nguyễn Khoái, Nguyễn Vân Nhi, tướng chỉ huy quân Thiết Giáp là Nguyễn Kha, Lê Lặc, tướng chỉ huy quân Thiết Sang là Nguyễn Bát Sách định đem quân vào cướp lấy vua đem ra. Đế Hiễn viết hai chữ "Giải giáp" đưa cho các tướng và răn bảo họ không được trái ý thượng hoàng, các tướng mới thôi. Lát sau, Nghệ Tông đưa vua xuống phủ Thái Dương và cho thắt cổ cho chết. Bấy giờ Lê Á Phu, cùng các tướng Nguyễn Khoái, Nguyễn Vân Nhi, Nguyễn Kha, Lê Lặc, Nguyễn Bát Sách và người học trò Lưu Thường vì cùng mưu với Đế Hiễn nên đều bị giết cả; chỉ có Nhập nội hành khiển tả ty Lê Dữ Nghị là bị đày ra Trại Đầu. Về sự việc này, sử gia Ngô Sĩ Liên trong tác phẩm Đại Việt sử ký toàn thư có nói rằng:

“ Khi ấy khí thế của họ Hồ đang mạnh, mọi người đều biết là nó sẽ cướp ngôi, Trang Định Vương Ngạc là Thái úy, lại là con của Nghệ hoàng, thấy xã tắc sắp nghiêng đổ, nếu biết hướng vua làm điều phải, gây niềm tin ở vua cha, hiệu lệnh nghiêm ngặt, để nhiều người theo về mình, khiến cho Nghệ Tông già lẫn phải tỉnh lại. Giản hoàng nhút nhát phải tự lập, quyền bính về tay hết, mệnh lệnh ban từ trên, thì lòng gian của họ Hồ cũng phải tự ngừng lại. Trang Định không mưu tính đến việc đó, Á Phu không lường được vu mình chẳng có tài cương đoán, lại khuyên vua giết Quý Ly, mà cơ mưu không cẩn mật, để cho nó biết trước. Trang Định lại không sớm quyết đoán, bỏ lỡ cơ hội, đến nỗi công việc thất bại, thân mình bị giết, lại giết lây cả đến những quân tướng tài giỏi, thực đáng than thở biết bao! Có người hỏi: Họ Hồ trên được vua tin, dưới nắm binh quyền, dẫu đến Nguyên Đán là người có kiến thức, lại lão luyện sự đời còn không làm gì được, huống chi là Trang Định! Xin thưa: Cứ xem nói trong lòng lo sợ mà định tự tử, thì việc chế ngự Quý Ly cũng dễ thôi! Trước hết hãy trừ bọn Đa Phương, Cự Luận để chặt vây cánh của nó đi, thì thế nó phải cô ngay. ”
Theo Minh thực lục, khoảng cuối tháng 12 năm 1388, Lê Nhất Nguyên (Li Yi-yuan - 黎一元) giết vua Trần Vĩ (tức Trần Phế Đế) rồi chôn ở phường Đại Dương ngoại thành Thăng Long. Lê Nhất Nguyên sau đó lập Trần Nhật Hỗn, con Trần Thúc Minh (陳叔明) lên thay.
 

fun4u

Xe điện
Biển số
OF-396176
Ngày cấp bằng
10/12/15
Số km
2,862
Động cơ
-99,535 Mã lực
Nơi ở
Gia Long thành
Dây họ ngoại chỉ là 1 tiểu tiết thôi cụ, cụ Ly nổi được lên là từ việc dẫn đám thanh niên Đại Lại/Thanh Hóa tham gia lật đổ DNL, đưa Nghệ Tông lên ngôi.

Nghệ Tông lên ngôi ngán ngẩm cảnh huynh đệ tương tàn, nên quay ra chán nản không tin tưởng người nhà, chỉ tin vào Lê Quý Ly & Đỗ Tử Bình.

Hồ Quý Ly vốn tên là Lê Quý Ly do tổ 4 đời làm con nuôi họ Lê nên đổi họ. Quý Ly có 2 bà cô ruột lấy vua TRần Minh Tông là 2 chị em Minh Từ Và Đôn Từ
Minh Từ sinh ra Hiến Tông (15/3/1329-24/7/1341); và, Trần Phủ (Nghệ Tông, 3/12/1370-4/12/1372, TTH – 6/1/1395), hay Trần Thư Minh [Shu-ming], quyền thự quốc sự từ 1370 tới 1374 trong Minh thực lục. Đôn Từ sinh ra Trần Duệ Tông
Như vậy Hồ Quý Ly là em con cô con cậu của Trần Nghệ Tông và cả Trần Duệ Tông ông vua chết trận ở Chiêm Thành.
Qua đường giây “họ ngoại,” Quí Ly trở thành thân tín của Nghệ Tông, biểu trưng uy quyền họ Trần từ năm 1370, khi Hữu tướng quốc Trần Phủ làm đảo chính Trần [Dương] Nhật Lễ (18/7/1369 – 9/12/1370)—tức “Trần Nhật Kiến.” vua thứ tám, khác họ nhà Trần. Mẹ cha Nhật Lễ là đào kép hát (Vương Mẫu và Dương Khương), nhưng Lễ trở thành con thừa nhận của Trần Dục, hoàng tử lớn của Minh Tông và Hiến Từ. Trần Dục không được chọn làm vua vì “ngông cuồng” và chết sớm. Trong nỗi tưởng nhớ và ý định đền bù cho Dục, Hiến Từ lập Nhật Lễ lên kế vị Dụ Tông. Bởi thế, sử Lê chép Dụ Tông lập di chiếu truyền ngôi cho Nhật Lễ. Hữu Tướng quốc Phủ ( Trần Nghệ Tông) cũng gả con gái cho Nhật Lễ.
lúc này mối quan hệ giữa nhà Trần và vị vua mới vừa thành lập nhà Minh là Chu Đức Dụ ( Chu Nguyên Chương) rất tốt đẹ. Dụ Tông (2/10/1341- 29/6/1369), rất được Chu Đức Dụ yêu quí, gọi bằng Trần Nhật Khuê [Ri-kui]. Ngày 10/5/1370, Đức Dụ mặc áo tang đích thân tới cửa Tây hóa đón sứ đoàn Việt báo tang từ Hà Nội, và hết lời khen ngợi lòng trung hiếu của “man di. Nhưng khi phái đoàn phong vương của Chu Đức Dụ về đến hà Nội phong vương cho Trần Dụ Tông thì ông này chết trước khi được nhận sắc phong. Dụ Tông truyền ngôi cho Nhật Lễ Cùng lúc này, sứ đoàn nhà Minh sang sắc phong cho Dụ Tông tới Đại Việt. Nhật Lễ (tên ngoại giao với nhà Minh là Trần Nhật Kiên) xin được thụ phong nhưng sứ nhà Minh là Trương Dĩ Ninh (張以寧) không đồng ý. Nhật Lễ phải cử sứ là Đỗ Thuấn Khâm (杜舜欽) sang nhà Minh báo tang và cầu phong.
Dương Nhật lễ trớ trêu thay lại là vị vua duy nhất mà được nhà Minh phong vương khi còn đang làm vua.
Nhưng mẹ Nhật Lễ có thể dính líu đến tham vọng trở lại họ Dương của con. Ngày 12/1/1370, Hiến Từ Tuyên Thánh Thái Hoàng Thái hậu bị đầu độc chết, và Lễ bị tình nghi là thủ phạm. Rồi đến cuộc thanh trừng 18 tôn thất sau cuộc mưu sát hụt Lễ trong một đêm Thu 1370. Theo Đại Việt sử ký toàn thư ghi nhận, Đại Định Đế lên ngôi nhưng bỏ bễ công việc, ham chơi, rượu chè, cho đón cha ruột Dương Khương vào triều, giữ chức Lệnh thư gia, có ý đổi sang họ Dương khiến các quan trong triều bất bình. Hiến Từ Thái hậu, mẹ Dụ Tông tỏ ý hối hận việc lập Nhật Lễ. Nhật Lễ bèn ngầm đánh thuốc độc giết chết vào ngày 14 tháng 12 năm Kỷ Dậu (tức 12 tháng 1 năm 1370).

Đêm ngày 20 tháng 9 năm Canh Tuất (tức 9 tháng 10 năm 1370), cha con quan Thái tể Trần Nguyên Trác, Trần Nguyên Tiết và hai người con của Thiên Ninh công chúa (chị gái cùng mẹ của Dụ Tông) đem người tôn thất vào thành định giết Đại Định.

Đại Định Đế trèo qua tường, nấp dưới cầu mới. Mọi người lùng không thấy, giải tán ra về. Khi trời sắp sáng, Đại Định Đế vào cung, chia người đi bắt Nguyên Trác cùng 17 người chủ mưu và giết hết[
Bởi vậy, dù Nhật Lễ là vua duy nhất được nhà Minh phong vương khi tại vị, Hữu thừa tướng Phủ, cùng hai em phế Lễ, rồi ngày 9/12, cho lệnh đánh chết cả hai cha con Lễ.
 

atlas09

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-527718
Ngày cấp bằng
20/8/17
Số km
2,835
Động cơ
191,650 Mã lực
Tuổi
40
vì sao Trần Nghệ Tông lại tin dùng Hồ Quý Ly hơn cả con ruột là Trần Ngạc hay cháu ruột là Trần Hiện? bới vì quá những cuộc đảo chính ở cung đình thì Trần Nghệ Tông nhận ra người thân thuộc nhất với mình lại chính là người nguy hiểm nhất.
chưa kể Trần Hiện giết chết Trần Húc: Phế Đế xử tử Quan phục hầu đại vương Trần Húc, con của thượng hoàng Nghệ Tông, vì Húc khi đi theo Duệ Tông nam chinh năm 1377 đã đầu hàng Chiêm Thành. Việc giết con của Nghệ Tông khi mà chưa thông qua Nghệ Tông càng làm cho Nghệ Tông thêm bất mãn chưa kể việc liên kết giữa Trần Hiện và Trần Ngạc con trai Nghệ Tông khi trừ Quý Ly càng khiến Nghệ Tông bất an.
hơn nửa Quý Ly đã nói đúng tâm trạng của Nghệ Tông: "Thượng hoàng trong lòng vẫn căm vua về việc giết Quan Phục Đại Vương [Trần Húc], vua rất không hài lòng. Nay quyền bính trong thiên hạ đều ở đại nhân cả mà vua lại mưu hại ngài thì Thượng hoàng lại càng ngờ lắm. Đại nhân hãy liều vào lạy Thượng hoàng, bày tỏ lợi hại, thì nhất định Thượng hoàng sẽ nghe theo ngài, chuyển họa thành phúc, dễ như trở bàn tay. Thượng hoàng có nhiều con chính đích, ngài cứ tâu rằng thần nghe ngạn ngữ nói "Chưa có ai bán con để nuôi cháu, chỉ thấy bán cháu để nuôi con may ra thượng hoàng tỉnh ngộ mà đổi lập Chiêu Định Vương."
Trần Nghệ Tông không thương Trần Ngạc con trưởng vì ông này đồng minh với Trần Hiện và hơn nửa ông này đã lớn tuổi nếu làm vua quyền lực
của Nghệ Tông sẽ bị ảnh hưởng.
chỉ có thể lập con út là Trần Ngung ( Trần Thuận Tông) đứa bé mới 11 tuổi thì sẽ bảm đảo thượng hoàng Nghệ Tông còn thời gian nắm quyền dài dài cơn nghiện quyền lực của Nghệ Tông sẽ càng thỏa mãn
 

atlas09

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-527718
Ngày cấp bằng
20/8/17
Số km
2,835
Động cơ
191,650 Mã lực
Tuổi
40
Dây họ ngoại chỉ là 1 tiểu tiết thôi cụ, cụ Ly nổi được lên là từ việc dẫn đám thanh niên Đại Lại/Thanh Hóa tham gia lật đổ DNL, đưa Nghệ Tông lên ngôi.

Nghệ Tông lên ngôi ngán ngẩm cảnh huynh đệ tương tàn, nên quay ra chán nản không tin tưởng người nhà, chỉ tin vào Lê Quý Ly & Đỗ Tử Bình.
trong cuộc đảo chính lật Nhật lễ thì Quý Ly hầu như chả có vai trò gì.
Đây là team lật Nhật lễ: Sau khi vua Đại Định xử tử Trần Nguyên Trác, thái sư Cung Định vương Trần Phủ, vì có con gái làm Hoàng hậu của Nhật Lễ, sợ vạ lây đến mình nên tránh ra trấn Đà Giang (tức Gia Hưng), ngầm hẹn với các em là hữu tướng quốc Cung Tuyên vương Trần Kính, Chương Túc thượng hầu Trần Nguyên Đán, Thiên Ninh công chúa Ngọc Tha hội ở sông Đại Lại, phủ Thanh Hóa để dấy quân. Trần Kính giúp anh đảm nhận việc sắm sửa mọi vũ khí, trang bị quân đội.
vai trò quan trọng nhất toàn quý tộc Trần trong đó Thiên Ninh công chúa là vai trò kêu gọi sự ủng hộ của hoàng tộc, NGuyên Đán kêu gọi các quan còn Trần Kinh ( Duệ Tông) nắm quân đội
cho nên lật Nhật lễ xong thì Nghệ Tông bắt đầu sợ team họ Trần này sẽ lật ông bất cứ lúc nào. Đặc biệt khi Duệ Tông lên tự quyết mọi việc biến ông thành bù nhìn luôn
 

atlas09

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-527718
Ngày cấp bằng
20/8/17
Số km
2,835
Động cơ
191,650 Mã lực
Tuổi
40
Dù Hán Thương đã được phong vương từ đầu năm 1404, kẻ thù của chế độ không ít. Tử huyệt của Đại Ngu là hành động giết vua, cướp ngôi. Có người cho rằng Hán Thương rất năng động, và Quí Ly, đã lớn tuổi, chiều theo ý con. Ngoài ra còn những tội ác man rợ với tôn thất và trung thần nhà Trần. Trong số chống đối có những cá nhân chẳng thiết tha gì hơn quyền lợi của cá nhân, gia đình và phe nhóm.

A. “Trần Thiên Bình”:

Ngày 2/10/1404, Trần Thiên [Thiêm] Bình xuất hiện ở Kim Lăng như cháu nội của một vua Trần, do Dao Xian-dai, thổ hào phụ trách bình định và khai hóa Lão Qua hay Nam Chưởng [Military and Civilian Civilizazion of Laos], gửi đến. Mục đích nhằm tố cáo cha con Quí Ly giết vua, không chỉ một mà ba [3] vua, truy sát tôn thất Trần cùng các quan trung nghĩa, ngược đãi và đàn áp, bóc lột dân chúng. (53)

Thực hay giả mạo, Thiêm Bình giúp tô lên tham vọng xâm lăng An Nam thứ chính nghĩa mà vua quan Trung Hoa tự may cắt hia mão vàng mã, tô son trát phấn—tức thay trời hành đạo, cứu dân độ thế. Theo Thiên Bình, Trần Nhật Khuê, vua Trần đầu tiên được Chu Đức Dụ phong làm An Nam Quốc Vương, cai trị hai năm thì mất. (Thực ra, Dụ Tông cai trị từ 1341 tới 1369; chết trước ngày sứ Minh qua tấn phong). Em là Kinh [Jing] nối ngôi, cũng chỉ được hai năm. (Duệ Tông cai trị hơn bốn [4] năm, từ 1372 tới 1377) Con là Xian [Hiện] nối ngôi. Quí Ly lộng quyền, nên Hiện muốn kềm chế thì bị Ly sát hại. Yong [Ngung] lên ngôi. Quyền hành vẫn nằm gọn trong tay cha con Quí Ly. Ít lâu sau, Ly giết Ngung, đưa con là An kế vị. Rồi ngày 23/4/1400, Quí Ly cướp ngôi, đổi sang họ Hồ, tức Hồ Nhất Nguyên. Tự nhận là dòng giõi Đế Thuấn thần thoại. Rồi nhường ngôi cho Hồ Di, tức Hán Thương, con thứ Ly. (54)

Theo “Trần Thiên Bình,” chỉ cần vài nghìn thiên binh, thiên tướng đã đủ trừng trị Quí Ly. Nhưng Thiên Bình, thực ra chỉ là đồ giả. Tên thực Nguyễn Khang, hay Trần Khang, gia bộc của Trần Nguyên Huy, đã chạy sang Chiêm Thành và rồi Lão Qua từ sau năm 1390 trong đợt thanh trừng phe tôn thất Trần liên hệ với Chiêm Thành.(55)

Chu Lệ có vẻ muốn sử dụng Thiên Bình, nên cho “cháu nội Trần Nhật Khôn [Thuận Tông]” vào yết kiến. Sau đó, đưa ra một biện pháp tương đối ôn hòa: Nếu Hán Thương chấp nhận đón Thiên Bình về nước, sẽ được phong tước Thượng Công, và hưởng thực ấp một phủ lớn, cha truyền con nối. Hành nhân Lý Kỳ được trao trách nhiệm xuống An Tôn thuyết phục Hán Thương.

B. Bùi Bá Kỳ [Pei Bo-qi]:

Mùa Thu 1404, tại Kim Lăng còn xuất hiện một kẻ thù không đội trời chung khác của cha con Quí Ly. Đó là Bùi Bá Kỳ, người Phù Nội, Thanh Miện, Hồng Châu [Hải Dương]. Bá Kỳ từng làm quan tới ngũ phẩm. Chức vụ cuối cùng là phó tướng của Trần Khát Chân—người đã giết được Chế Bồng Nga trong trận hải chiến mờ mịt khói thần sang và hỏa tiễn ngày 8/2/1390, chấm dứt cơn ác mộng 20 năm của vua quan Trần

Tháng 5/1399, sau khi đã sát hại Thuận Tông, Quí Ly ra tay thanh trừng Thái bảo Trần Nguyên Hãng, Thượng tướng Chân, một số tôn thất và võ quan tham dự cuộc mưu sát Quí Ly trong ngày hội thề 9/5/1399 ở Đốn Sơn (xã Cao Mật, huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hoá). 370 tôn thất Trần mất mạng. Phụ nữ bị bán làm nô tì, trẻ thơ bị chôn sống hay dìm nước, không ai thoát khỏi bàn tay cuồng bạo và trái tim “ma quỉ” [evil-hearted]. Chỉ riêng phe Bá Kỳ hơn 110 người thiệt mạng, kể cả hai anh em Kỳ. (56)

Sau bốn năm dài trốn tránh khắp núi rừng hoang vắng, tháng 5-6/1404, Bá Kỳ được một thương gia giúp thoát lên phủ biên giới Tư Minh [Si Ming], Quảng Tây. Ngày 10/9/1404, Bá Kỳ dâng biểu, tố cáo tội ác cướp ngôi của cha con Quí Ly, van xin hưng Trần, diệt ác, theo đúng thiên mệnh “cứu dân, phạt kẻ có tội.” Quí Ly, theo Bá Kỳ, là con Lê Quốc Kỳ, hay Lê Quốc Mậu [Mao]. Sau khi giết vua, cướp ngôi, đổi tên làm Hồ Lý Nguyên [Hu Li-yuan]; con là Thương [Cang] thành Hu Di, niên hiệu Khai Đại. (57)

Không thể biết chắc có bao phần trăm sự thực, vì Tư Minh là lãnh địa của Hoàng Quảng Thành, tỉnh mơ đều thấy đất trụ đồng Mã Viện. Giống như Tập Cận Bình [Xi Jin-ping] và tập đoàn tội phạm chiến tranh Trung Nam Hải hiện nay cùng giấc mơ “đường tơ lụa hang hải,” hay nói theo một tướng Mỹ, đang xây dựng một vạn lý trường thành cát ở biển Đông Nam Á, đặt thế giới trước hiểm họa một cuộc thế chiến có thể sẽ mang đến sự tận diệt của nhân loại. (58)

Dù rất hài lòng với lời tố cáo của Bá Kỳ, nhưng thoạt tiên, Chu Lệ chỉ muốn dùng “cháu nội vua Trần.” Bá Kỳ không ủng hộ Thiêm Bình, nên bị an trí khá xa Kim Lăng.

IV. Ba, Bảy Cũng Liều:

Ngày 25/1/1405, sứ của Quí Ly là Phạm Canh tới Nam Kinh. Chu Lệ dàn xếp cho bọn Phạm Canh gặp cả Thiên Bình lẫn Bùi Bá Kỳ. Phó sứ Lưu Quang Đĩnh có vẻ nhận biết Thiêm Bình và quì lạy người tự nhận là cháu nội Thuận Tông. Nhân dịp này, Bùi Bá Kỳ cũng trách móc cha con Quí Ly gian ác, tàn bạo.

Cuộc đối chất trên khiến Chu Lệ hết sức ghét bỏ cha con Quí Ly, tuyên bố: “Từ quan tới dân đều dối trá. Đây là xứ toàn một bọn tội phạm. Không thể tha thứ được.” [Even the Ministers and people are deceitful. That is a country full of criminals. How can this be tolerated!”] (59)

Sau đó, Chu Lệ sai Lý Kỳ xuống An Tôn, để điều tra thêm về những lời tố cáo của Thiêm Bình và Bá Kỳ. Phó sứ Đĩnh được cử dẫn Kỳ về nước, trong khi Phạm Canh bị giữ lại kinh thành Minh.
 

atlas09

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-527718
Ngày cấp bằng
20/8/17
Số km
2,835
Động cơ
191,650 Mã lực
Tuổi
40
B. Cuộc Phục Kích Ở Cần Trạm:

Theo sử Việt, ngày 26/4/1406, Hàn Quan đóng ở địa đầu biên giới, Hoàng Trung và Lữ Nghị xâm phạm cửa ải Lãnh Kinh [Linh Kênh]. Quân Quí Ly thua to. Bốn hay hai tướng, kể cả Phạm Nguyên Khôi [Côi], Chu Bỉnh Trung, tử trận. Nguyên Trừng phải xuống thuyền bỏ chạy. May nhờ Hồ Vấn [Văn] mang quân Thánh Dực từ Vũ Cao tới tăng viện, đánh úp, khiến Hoàng Trung phải rút về hướng Chi Lăng (Lạng Sơn), cách ải Pha Lũy tại biên giới khoảng ba [3] ngày đi bộ. Nhưng hai cánh quân thánh dực của Hồ Xạ và Trần Dĩnh đã phục sẵn ở Cần Trạm [tức Kép, Bắc Giang], giữa Lãnh Kinh và ải Chi Lăng. Bọn Hoàng Trung phải điều đình dâng nộp Thiêm Bình để được an toàn về nước. (63)

Giữa Minh thực lục và sử Việt có khoảng cách hơn hai mươi ngày, khi xảy ra cuộc phục kích. Sử Minh khẳng định Thiên Bình chết ngay trong ngày 4/4, gần Chi Lăng. Nhưng sử Việt ghi sau khi bị vây hãm, Hoàng Trung đề nghị giao nộp Thiên Bình để xin thoát thân. Nội dung của hai thông tin trái ngược nhau như ngày và đêm này dường chẳng có giá trị gì hơn xác nhận trận phục kích đạo quân Hoàng Trung thực sự xảy ra

Theo Trung, ngày 4/4, Hoàng Hối Khanh tiếp đón Trung ở Khâu Ôn, mang cả rượu thịt đãi quân Minh. Trung hỏi tại sao Hu Di [Hán Thương] không đến, Khanh trả lời Thương bị bệnh đột ngột, nhưng sẽ nghênh đón ở Gia Lâm. Trung bèn phái người đi dò thám chung quanh, thấy chỉ có dân chúng tụ tập chào mừng từ Ải Lựu tới Kê Lĩnh [Ji ling]. Tạm yên tâm, Trung cho quân tiến về hướng Phú Lương, và yêu cầu Hối Khanh về trước để báo tin cho Hán Thương biết.

Khi quân Minh tới một đoạn dốc núi, ở Cần Trạm [Kép] giữa Chi Lăng và Pha Lũy, “100,000 quân phục kích” đột ngột xuất hiện. Trung muốn thúc quân tiến về phía trước, nhưng cầu bị phá. Thiên Bình bị giết. Án sát Xue Yan nào đó mới thuyên chuyển đến Quảng Tây, bị chết thảm. thay vì Bố chính sứ Vương Lâm như dự định. (65)

Cấp chỉ huy của Quí Ly từ xa nói vọng lại rằng Thiêm Bình chỉ là môt dân thường giả mạo tôn thất nhà Trần, đã chết. Sẽ sai sứ sang giải thích. Sau này Hán Thương mới điều tra biết được Thiên Bình tên Nguyễn Khang (Trần Khang theo sử Nguyễn), gia nô của Trần Nguyên Huy, đã trốn khỏi Đại Việt vào tháng 2- 3/1390 khi Quí Ly thanh trừng Tư đồ Trần Nguyên Đĩnh vì tội tư thông Chiêm Thành. Khang đã lưu lạc tới Lão Qua [Nam Chưởng], trước khi được vua Lão Qua đưa lên Kim Lăng (Nam Ninh, Quảng Tây). Mặc dù Khang không chịu thú tội, Hán Thương xẻo từng miếng thịt tới chết [lăng trì]. Sau đó Hán Thương gửi An Phủ Sứ Tam Giang Trần Cung Túc, và thông phán Ái Châu là Mai Tú Phu đi sứ Kim Lăng để giải thích. Chu Lệ giữ sứ lại, không cho về. (66)

Tin Thiên Bình bị phục kích chết ở Cần Trạm đến với Chu Lệ thật bất ngờ. Mặc dù cha con Quí Ly đã cố tránh đụng chạm đến quan tướng hộ tống Minh, nhưng đó chỉ là việc nhỏ. Thật rõ ràng, cha con Quí Ly đã chống đối Chu Lệ bằng một thủ đoạn thiếu ngay thẳng—hay lừa đảo như Chu Lệ cao giọng chỉ trích. Đây là một thách thức trực tiếp thói ngạo mạn nước lớn của kẻ tự ví mình uy đức [wei de] to lớn như trời đất, muốn gì được nấy. Phản ứng của Chu Lệ rất dễ hiểu là vô cùng cứng rắn. Ngày 29/4/1406, sau khi nghiên cứu tờ trình của bọn Hoàng Trung, Chu Lệ tuyên bố với Thành quốc công Chu Năng [Zhu Neng] là tội ác của cha con Quí Ly tày trời; lòng khoan hồng và thành khẩn của Chu Lệ đã bị lừa gạt. Chu Năng và các quan đồng thanh xin trừng phạt. Chu Lệ bèn cho lệnh Chu Năng lập một đạo quân chinh phạt bọn phỉ tặc họ Lê [“the Li bandits”] (67)

IV: Diệt Ác, Hưng Trần:
hẳng những cho lệnh bắt giữ sứ thần do Hán Thương gửi qua giải thích về cái chết của Trần Thiêm Bình, Chu Lệ quyết “trừng phạt” hay xâm lăng An Nam. Cuộc xâm lăng phát động qua ba [3] phương diện:

– Phương diện quân sự, sai Chu Năng, Trương Phụ và Mộc Thạnh tụ họp, huấn luyện “800,000 [80 vạn]” quân—nhưng có thể chỉ khoảng 215,000—và trên 20 tướng sang xâm lược, dưới chiêu bài “hưng Trần, diệt ác.” tiến vào Đại Việt qua hai [2] ngả Lạng Sơn và Tuyên Quang. (68)

– Trên phương diện chính trị: Từ mùa Xuân 1407, bày kế cho bọn thổ quan Mạc Thúy [Mo Sui]—dòng giõi Mạc Đĩnh Chi, [tổ 4 đời Mạc Đăng Dung]—làm tờ biểu đại diện cái gọi là “1120 kỳ lão,” kể cả Yin Pei [?], bày tỏ sự trung thành và xin nội thuộc đế quốc Minh như cũ vì dòng giõi họ Trần đã tuyệt, do Trương Phụ và Hoàng Phúc vừa đạo diễn, vừa sản xuất. (55)

Trong hiệp đầu của cuộc xâm lược, quân Minh chiến thắng quá rõ ràng. Đại Đồn chiến lược Đa Bang thất thủ sau vỏn vẹn một đêm chống giữ. Hai ngày sau, Hà Nội bỏ ngỏ. Bốn ngày sau nữa, khi Lý Bân và Trần Húc mang quân vào Thanh Hóa, quan lính Đại Ngu đốt cháy kinh thành An Tôn (khoảng 12 ngày đường trạm tới Hà Nội) và kho tàng rã ngũ, trốn chạy bằng đường sông trong khi Quí Ly và Hán Thương mang binh thuyền ra Hoàng Giang tăng viện. Cuộc kháng chiến của Đại Ngu chỉ còn lại ba trận đánh sông Lỗ (8-21/2/1407), Hàm Tử (4/5/1407), rồi Muộn Hải (6/5/1407) tại đồng bằng sông Hồng. Trận thứ tư, trên sông Lỗi Giang (1/6/1407), là một cuộc rã ngũ khác. Cha con, ông cháu Quí Ly, Hán Thương và Nguyên Trừng bị bắt sống trong hai ngày 16 và 17/6/1407 tại vụng biển Kỳ La (Hà Tĩnh ngày nay)—trong tay những đơn vị đánh thuê Việt, của những người đã theo Minh từ lúc quân Trương Phụ và Mộc Thạnh chưa vượt biên; hay khi quân Minh đang tiến mạnh như chẻ tre. Hai cá nhân được Trương Phụ và Minh thực lục hết lời khen ngợi là Mạc Thúy cùng nhóm thân thuộc, thủ hạ gốc Nam Sách, lên tới 10,000 người; và tiểu đoàn trưởng Trẩn Phong, được trao trách nhiệm bình định vùng duyên hải, hay Hải Đông. Ngoài ra, còn những cá nhân như Nguyễn Đại, Đỗ Duy Trung, Nguyễn Huân [tức Mạc Huân], cùng thổ tù Quí Hóa, Tuyên Hóa, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Thuận Hóa, v.. v… Cuộc kháng chiến được chuẩn bị cả chục năm bị tan vỡ trong vòng sáu, bảy tháng ngắn ngủi. Ngày 5/7/1708, Chu Lệ đã cảm khái khen Trương Phụ lập được chiến công vĩ đại mà Mã Viện cũng không hơn, rồi hứa “Trẫm sẽ ban thưởng nhiều hơn võ công bình định Vân Nam [thời Chu Đức Dụ].” (69)

– Phương diện tâm lý chiến: truyền hịch khắp nơi kể rõ 20 tội lỗi tày trời của cha con Quí Ly—đặc biệt là giết ba vua Trần, tàn sát tôn thất, cướp ngôi. Và, hứa tìm con cháu nhà Trần đặt lên làm vua. (70)

Đó là các điều :

  • Hai lần giết vua và cướp đoạt vương quốc
  • Giết tôn thất nhà Trần
  • Không tuân theo lịch triều Minh, đổi niên hiệu
  • Người chết đầy hào rãnh, người siêu tán khắp nơi.
  • Lừa dối triều đình, tự nhận là con một công chúa họ Trần
  • Bày mưu giết cháu nội một vua Trần
  • Phục kích giết cháu nội vua Trần
  • Lấn chiếm biên giới Chiếm cướp dân và lãnh thổ biên giới
  • Hành hạ dân
  • Chiếm đất của TH
  • chiếm đất Ning Yuan [bảy [7] công sự phòng thủ [stockades] bằng thân cây sát mặt đất]
  • hành hạ thổ dân 15. đánh chiếm 4 phủ của Champa, kể cả Ban Da Lang, Bai và Hei (hoặc Bai Hei) Hà hiếp vua Zhe Ba Di Lai Chiêm Thành Bắt 100 voi, cướp đất
  • Mặc dù Champa là chư hầu của TH, the Li bandits bắt họ làm chư hầu. Hai lần đánh Chiêm vì dám kính hiếu nhà Minh Đánh cướp quà vua Minh tặng vua Chàm ở cửa biển Thị Nại [Shu Pinai].
  • “Không chứng tỏ lòng kính trọng TH khi hiếu cống.
 

atlas09

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-527718
Ngày cấp bằng
20/8/17
Số km
2,835
Động cơ
191,650 Mã lực
Tuổi
40
A. “Chinh di tướng quân” Chu Năng [Zhu Neng]

Từ 29/4 tới 11/5/1406, Chu Lệ cùng Chu Năng nhiều lần thảo luận kế hoạch “trưng phạt An Nam.” Mộc Thạnh, Tổng binh Vân Nam, được chọn chỉ huy cánh quân hướng tây mà nòng cốt là lực lượng cơ hữu của Vân Nam, được tăng cường kỵ mã và bộ binh Thành Đô, Vân Nam, Quí Châu và Tứ Xuyên.

Phó Đô ti Quảng Tây là Hàn Quan nhận lệnh dẫn 30,000 quân tới Bằng Tường trước ngày 22/11/1406. Ngày 20/5, bộ Lễ cho lệnh đúc ấn Chinh Di Tường Quân và Chinh Di Phó Tướng. cho Chu Năng và Mộc Thạnh. Bọn Chu Năng, Trương Phụ và Mộc Thạnh sẽ mang “800,000” quân Lưỡng Quảng và Vân Nam xuống An Nam“đánh kẻ có tội để tỏ rõ oai trời.” (71)

Ngày 1/6/1406, gọi Hoàng Trung và Lữ Nghị về kinh báo cáo tình hình, rồi ân xá cả hai, cho tham gia cánh quân Chu Năng để lập công. Bùi Bá Kỳ được phong chức tham chính Giao Chỉ, dưới trướng Chu Năng. (Ngày 4/6, Bùi Bá Kỳ cũng nhận được mũ và đai lưng Tham Chính. (61) 61. Ming shi-lu, Taizong (Wade, NUS database), juan. 54:1a, 2a, 4a;

Ngày 15/7/1406, Chu Lệ làm lễ thái miếu về việc chinh phạt bọn Lê phản loạn. Ba ngày sau, 18/7, bổ nhiệm Bộ Tư lệnh chiến dịch: Thành quốc công Chu Năng giữ ấn Chinh Di Tướng quân, Bình Tây hầu Mộc Thạnh, Tả phó tướng; Tân thành hầu Trương Phụ, Hữu Phó tướng. Lưu Vân [Liu Jun], bộ Binh, làm cố vấn [Tham tán]. Ngoài ra còn hơn hai chục tướng thuộc các đơn vị đặc biệt như hai tướng pháo binh, ba tướng khinh binh, hai tướng thủy quân, bốn tướng kỵ binh và hai tướng “thủy quân lục chiến.” Ngày xuất quân sơ khởi dự trù vào 30/7/1406. (72)

Chu Năng phát hịch nêu lên 20 tội của, kẻ phản loạn Quí Ly. Tội nặng nhất của cha con Quí Ly là giết hai vua Trần, (tội 1) tàn sát tôn thất Trần, (tội 2, 3) rồi bày mưu hãm hại và giết “cháu nội một quốc vương Trần;” (tội 7, 8) trong khi đầy đọa, bóc lột dân chúng như kẻ thù. (tội 4) “Bọn phỉ tặc họ Lê” còn quay lưng lại với tổ tiên, thay tên, đổi họ, tự xưng là Thánh Nguyên hay Nguyên Thánh, đổi tên nước là “Đại Ngu,” tự đánh bóng là dòng giõi vua thánh. (tội 3, 5) Đối với lân bang như Chiêm Thành, không ngừng xâm chiếm; chẳng thèm đếm xỉa đến việc Chiêm Thành cũng là chư hầu của thiên tử Minh, được sắc phong (năm 1370), chặn cướp quà của thiên tử gửi cho vua Chiêm ở cửa Thị Nại. (tội 15, 17) Chưa hết. Bọn cướp họ Lê xâm lấn đất đai ở Tư Minh, Vĩnh Bình. (tội 9, 10), khinh thường thiên tử, gửi những tội phạm đi sứ, lừa gạt triều đình, muốn làm đảo lộn trật tự. (tội 20) (63) 63. Mingshilu, Taizong, (Wade, NUS database], juan 60:1a- 4a, 6a-7a,; MSL (Zhong Yang), vol 11, pp 866/71.

Chu Lệ cũng ra tuyên cáo sẽ lập dòng giõi họ Trần làm vua. (73)

B. Chinh Di Phó Tướng quân Mộc Thạnh & Trương Phụ:

1. Trương Phụ, 1406-1408:

Tới Long Châu, phủ Thái Bình, Quảng Tây, nhưng quân chưa vượt biên, ngày 12/11/1406, Thái tử Thái phó Thành quốc công Chu Năng chết.

Theo đúng kế hoạch, chiến dịch xâm lấn “Đại Ngu” vẫn bắt đầu từ ngày 19/11/1406. Ngày 19/11 này Trương Phụ, cùng Vĩnh Dương Bá Trần Húc [Chen Xu], tả tham tướng; theo đường từ Bằng Tường (Quảng Tây) mang 400,000 [40 vạn] ra khỏi ải Pha Lũy [Po-lei, sau là Trấn Nam Quan] tiến vào lãnh thổ Đại Việt. làm lễ cúng tế thần sông, thần núi An Nam, xin phù hộ.

Ngày 20/11/1406, kị binh của Chu Vinh [Zhou Rong] tới Kê Lăng [Jiling, Chi Lăng]. Hơn 30,000 quân Đại Ngu đóng trên núi đối diện ải chưa đánh đã tan—dù trang bị súng [hỏa pháo], lao, nỏ [cung tên]. Chu Vinh cắt được 60 thủ cấp, bắt sống 10 tù binh, tiến thêm 40 lý [20 km]. Ngày 20/11, Chu Vinh tới Kê Lăng. Hôm sau, 21/11, chiếm Chi Lăng. Hiện tượng bỏ của chạy lấy người này thường xảy ra tại Á Châu tự cổ chí cận đại. Cuộc rã ngũ, tháo chạy hay đầu hàng tập thể của các đơn vị quốc quân trong hai năm 1948-1949 là những thí dụ tiêu biểu. Những ai đã trải qua hay chứng kiến Xuân 1975 buồn thảm cũng khó thể quên. (74)

Ngày 24/11, Trương Phụ, cùng đại quân tới Kê Lăng. Báo cáo có dấu vết công sự phòng thủ dài theo trục lộ tới Cần Trạm. Lực lượng xung kích của Lữ Nghị vả kỵ mã của Hoàng Trung, mới được Chu Lệ ân xá, tỏa ra truy diệt các ổ phục kích, tiến tới đầu cầu Si trên bờ sông Thương (Bắc Giang). Phương Chính [Feng Sheng] và Vương Thư [Wang Shu] tiến tới Gia Lâm, bờ bắc sông Phú Lương, đối diện Đông đô. Tin tình báo từ Bắc Giang cho biết kế hoạch phòng thủ của Quí Ly tập trung vào đại đồn Đa Bang, cùng Đông đô và Tây đô. Chiến thuyền, và voi trận cũng tập trung ở khu vực này. (75)

Phía Tây Bắc, Mộc Thạnh với hữu tham tướng Lý Bân, từ Mông Tự (Vân Nam) mang 40 vạn quân tấn công ải Phú Lệnh [thượng lưu sông Lô, Tuyên Quang, gần thị xã Hà Giang], kéo xuống sông Thao. (76)

Ngày 1/12, Trương Phụ chính thức lên thay Chu Năng chỉ huy, dù vẫn giữ ấn Chinh Di Phó Tướng quân. Sự hiện diện của Bùi Bá Kỳ tại hành dinh khiến chiêu bài “hưng Trần, phạt ác” được quảng bá mạnh mẽ hơn. Phụ cho khắc thẻ gỗ đàn hịch tội của Quí Ly, thả sông trôi xuống phía Nam. Tháng 12/1406, hai cánh quân Quảng Tây và Vân Nam bắt tay ở gần sông Bạch Hạc. Rồi đóng dài theo bờ sông lớn tới sông Chú.

Ngày 5/1/1407, Chu Lệ chỉ thị Trương Phụ và Mộc Thạnh cố gắng giải quyết trước tháng 3-4/1407, vì mùa mưa sắp tới, lam sơn, chướng khí sẽ gây nhiều trở ngại. Mặc dù không có cảnh “ngửng mặt lên trời, thấy diều hâu đang bay, bỗng lả tả rơi xuống nước,” lam sơn, chướng khí cùng các bệnh thổ tả, sốt rét là đồng minh của Đại Ngu. Chu Lệ không ngừng nhắc nhở các tướng phải cho binh sĩ tự đào giếng lấy nước uống và nấu cơm để giảm thiểu bệnh tật, hay âm mưu đầu độc của cha con Quí Ly. (77)

Được giao trách nhiệm chỉ huy cuộc kháng Ngô, Tả tướng quốc Nguyên Trừng lo tuyển quân, chế tạo chiến thuyền, đúc đại bác, tăng cường việc phòng thủ Tây đô, xây chiến lũy Đa Bang ở phía nam sông Hồng—trung tâm tuyến phòng thủ phía tây Hà Nội—đóng cọc cửa sông Bạch Hạc, mở hội nghị quân sự với các An Phủ sứ. Nhưng Trừng hiểu rằng chỉ “sợ lòng dân không theo.” (78)

Chiêu bài “hưng Trần diệt ác” của Chu Lệ khiến không ít tôn thất, công chúa nhà Trần chờ cơ hội hàng Minh. Số tôn thất nhà Trần ngả theo quân Minh không nhỏ. Mối thù cha con Quí Ly cướp ngôi, tàn sát tôn thất Trần là một trong những lý do. Con cháu Trần Nguyên Đán, người chủ trương “hiếu với nhà Minh” và “yêu nuôi Chiêm Thành” đều bỏ Quí Ly, theo Minh. Một số người khác thù ghét Quí Ly hay chỉ biết quyền lợi bản thân. Bọn cháu gọi Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi bằng ông nội này gồm Mạc Thúy, Mạc Địch, Mạc Viễn, cùng Nguyễn Huân (người Chí Linh, Nam Sách), và khoảng 10,000 thổ binh. Họ hăng say, kiêu hãnh tiếp tay quân Minh. Mạc Thúy còn nhận lệnh, hoặc đề nghị với Trương Phụ và Hoàng Phúc, soạn một tờ biểu van xin Chu Lệ ban ơn đặt Giao Châu trở lại địa đồ Trung Hoa, chia quận huyện như hơn 500 năm trước, dể giáo hóa khỏi phong tục man di, chóng thấm nhuần văn phong, tập tục “nội địa.” Trương Phụ và Hoàng Phúc phong Thúy chức Tri phủ Phú Lương. Sau đó, mùa Hè 1408, đưa qua Kim Lăng gia phong Tham chính, ban thưởng vàng bạc, tơ lụa gấp năm [5] lần đồng sự. Mạc Địch thay Trần Đại làm thổ chưởng Đô sứ ty; Mạc Viễn làm Diêm vận sứ.

Riêng Nguyễn Huân—dưới bí danh Mạc Huân—sẽ lên tới chức Bố chính sau ngày Thúy bị Nông Văn Lịch giết bằng tên độc tại Lạng Sơn đầu năm 1413. Ngoài ra, còn những nhân tài như Lương Nhữ Hốt, tri phủ Nghệ An; Đỗ Duy Trung và anh em, thân thuộc ở phủ Giao Châu và sông Thao. Tổng cộng hơn “9,000” nhân vật tài đức, được giao các chức vụ tri huyện, tri châu, v.. v. phụ giúp khoảng 100 quan tướng Minh và đạo quân viễn chinh thủy bộ.(79)
 

atlas09

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-527718
Ngày cấp bằng
20/8/17
Số km
2,835
Động cơ
191,650 Mã lực
Tuổi
40
. Đa Bang Thất Thủ:

Cuộc “kháng chiến chống Minh” thực sự khởi đầu từ tháng 7-8/1406, sau trận phục kích Hoàng Trung ở Cần Trạm. Hán Thương cho lệnh rào sông, đắp lũy phía nam sông Cái, từ thành Đa Bang tới sông Lỗ Giang; và từ Châu Lạng tới sông Chú. Nếu tin được Minh thực lục, cha con Quí Ly vận dụng đến “700,000 quân” bảo vệ hai kinh thành Tây đô và Đông đô. Ngày 24/11/1406, quân báo Minh từ Gia Lâm đưa tin từ nhóm Mạc Thúy ở Lạng Giang là “7 triệu người Việt có chiến thuyền” và voi tử thủ phía nam sông Phú Lương. (79)

Ngày 10/1/1407 [2/12 Bính Tuất], quân Minh chiếm được Việt Trì. Hồ Xạ rút quân xuống bờ nam sông Cái. Ngày 14/1Mộc Thạnh kiểm soát sông Tuyên [Xuan]. Lập đồn phía bắc sông Thao. Bố trí lực lượng đối bờ đốn Đa Bang.

Trương Phụ cho lệnh Trần Húc bắc cầu nổi [pontoon bridges], trong khi Chu Vinh dẫn kị binh ngày ngày dương oai, diễu võ tại Gia Lâm, bờ bắc sông Hồng, đối diện Đông Đô, theo kế nghi binh—từ vài người lúc đầu, tăng dần lên tới hàng trăm

Hôm sau, 15/1, Trần Đĩnh đẩy lui quân giặc ở sông Thiên Mạc. Nhưng hai ngày sau nữa, đêm 17/1, quân Minh bất thần chiếm được đồn Mộc Hoàn ở bờ nam sông Cái, giữa Đa Bang và Hà Nội, không tốn một viên đạn, vì tướng thủ thành mê say tửu sắc, sao lãng việc phòng thủ, trong khi các đơn vị bạn bình chân như vại.

Đêm 19 rạng 20/1/1407 quân Minh bắc cầu phao qua sông Hồng, chia hai mặt tấn công Đa Bang. Theo sử Việt, Trương Phụ, Đô đốc Hoàng Trung và Đô sứ ti Thái Phúc [Cai Fu] tấn công phía tây bắc. Mộc Thạnh, Lý Bân tấn công phía đông nam. Quân Quí Ly hăng say đánh trả, xác quân Minh chất cao ngang thành, nhưng giặc không lùi bước. Tướng chỉ huy quân Thiên Trường khoét tường thành, lùa voi ra đánh. Quân Minh dùng mặt nạ hình sư tử chụp lên đầu ngựa, và tên lửa bắn vào nài voi hay vòi voi khiến voi bối rối, hỏang hốt chạy ngược vào thành khiến quân Quí Ly hỗn loạn. Quân Minh thừa thế tiến theo, chiếm đồn. (80)

Tư liệu Minh đưa ra một số chi tiết khác. Đêm 19 rạng 20/1/1407, quân Minh bắc cầu phao qua sông. Trương Phụ và Mộc Thạnh vượt sông Hồng bằng cầu nổi. Trương Phụ, đô đốc Hoàng Trung, và Đô sứ ti Thái Phúc tấn công hướng tây nam Đa Bang. Mộc Thạnh và Trần Tuấn [Lý Bân] tấn công hướng Đông Nam. Quân tướng được lệnh trú quân cách tường thành khoảng một dặm, rồi canh tư, bắt đầu tiến về sát chân thành. Hoàng Trung đưa được những dụng cụ như « thang mây» tới chân thành, và Thái Phúc [Cai Fu], Trần Trung [Chen Zhong] cùng một số người khác vượt lên được tường thành. Họ đồng loạt thắp đuốc và thổi kèn thúc quân.

Lực lượng phòng thủ không sử dụng vũ khí chống trả mà chỉ tìm cách chạy trốn. Các tướng của Quí Ly cố giữ đội hình, tái tổ chức lại tuyến phòng thủ. Nguyễn Tông Đỗ, chỉ huy lực lượng voi trận của Thiên Trường, mở cuộc phản công. Nhưng Xạ thủ súng ngắn và hỏa tiễn của La Văn [Ôn ?] Minh nhắm vào nài voi và vòi voi. Lực lượng kỵ mã của Chu Quảng [Zhou Guang] từ hai bên hông đánh kẹp tới. Cho ngựa chiến đội mặt nạ sư tử khiến voi hoang mang, quay đuôi chạy ngược vào tuyến phòng thủ, phá vỡ mặt trận. Quân Đại Ngu rút về phía nam hay những triền núi phía tây. Hai tướng Lương Dân và Thái Bá Lạc tử trận. Số lính Đại Ngu chết đếm không xuể. Mười hai thớt voi cùng rất nhiều khí giới bị quân Minh tịch thu. (81)

3. Hai đô bỏ ngỏ:

Thủy quân của Quí Ly cũng bị đô đốc thiêm sự Liễu Thăng [Liu Sheng] và Hoành hải tướng quân Lỗ Lân [Lu Lun] đánh tan vỡ, rút về giữ Hoàng Giang. Ngày 22/1, theo sử Việt, quân Minh tiến về Hà Nội. Hai ngày sau, 24/1, quân Quý Li đốt kho tàng, triệt thoái về Hoàng Giang, phía nam Hà Nội. Tiền quân của Chu Vinh cũng đốt cháy những nhà cửa ngoại thành; tranh nhau cướp đoạt của cải, phụ nữ, thiến hoạn thiếu niên. Đại quân Trương Phụ vào đóng ở đông nam thành. Mỗi ngày, hàng chục ngàn người tới xin hàng. (82)

Ngày 26/1/1407 Trương Phụ và Mộc Thạnh bắt đầu kế hoạch tiến vào Tây Đô (Thanh Hóa), Hai tham tướng Lý Bân và Trần Húc song hành đi đánh An Tôn. Ngày này, được tin Đa Bang thất thủ, quân Quí Ly tan rã, đốt phá kho tàng, bỏ chạy. Quí Ly và Hán Thương cũng từ An Tôn ra Hoàng Giang kháng Minh. Mười năm xây dựng một kinh đô kháng chiến chỉ thoáng chốc tan thành tro bụi. (83)

Phần vì hải quân Minh hơi yếu kém, phần vì thời tiết, nên cha con Quí Ly cầm cự ở Hoàng Giang và Cửa Muộn được hơn hai tháng. Trương Phụ phải rút quân về phía bắc sông Hồng, đặt hành dinh ở Phả Lại và Hàm Tử, giao cho Phương Chính [Feng Zheng] chỉ huy. Ngày 8/2/1407, tức Tết Đinh Hợi, quân Minh thắng lớn trên sông Phú Lương và Lỗ Giang. Tính đến ngày này, Trương Phụ đã giết được 37,390 binh sĩ Việt; (84)

Số thiệt hại của quân Minh cũng rất cao, nhưng Minh sử không đưa ra chi tiết thiệt hại của “quan quân.” Một tài liệu xuất hiện năm 1537 ghi số thương vong lên hàng trăm ngàn, do một đại thần đưa ra trong biểu gửi Chu Hậu Tổng, nhưng không có chi tiết thêm để kiểm chứng. Thực tế, quân số các đơn vị chủ lực đều giảm sút, khiến ngày 26/6/1407 Trương Phụ phải xin sử dụng địa phương quân hay thổ binh điền vào các đơn vị Quảng Đông, Quảng Tây. Rồi từ ngày 9/4/1408 dùng thổ binh trấn giữ các quan ải chiến lược Pha Lũy, Kê Lăng và Khâu Ôn. (85)

Thực ra, từ sau trận Đa Bang, Trương Phụ đã bắt đầu sử dụng bọn nội thù của Đại Ngu như Trần Phong và lực lượng đánh thuê giúp bọn Vương Hữu và Liu Cong [Lưu Thông] phá tan thủy quân Hồ Đỗ ở Vạn Kiếp, Phả Lại, dồn chạy xuống Muộn Hải]. tịch thu hầu hết chiến thuyền. Tiếp đó, được giao ổn định vùng duyên hải—đặc biệt là Đông Triều và Thái Bình—nơi một số tôn thất Trần bắt đầu tỏ ý nghi ngờ chính sách “hưng Trần.” Anh em Mạc Thúy tuyển mộ được hơn 10.000 thổ binh gốc Nam Sách để bình định vùng châu thổ sông Hồng, Ngày 21/2/1407, Trương Phụ và Mộc Thạnh thắng trận sông Muộn hải, phá 500 thuyền của Quí Ly trên sông Lỗ, gây thêm tổn thất trên 10,000 binh sĩ Đại Ngu. (86)

Ngày 20/4/1407, Nguyên Trừng cùng Hồ Đỗ, Đỗ Mãn đưa quân lên đánh Hàm Tử. Quân thủy bộ gom lại được 7 vạn (70,000), nhưng phao lên là 210,000. Quân Minh chia hai đạo thủy bộ đánh ra. Ngày 4/5/1407 Bộ binh Đại Ngu bị thảm bại. Chỉ có thủy quân chạy thoát. Thuyền chiến và thuyền lương bị mất gần hết.(87)

Ngày 30/5/1407, Hán Thương chạy vào Thanh Hoa. Trương Phụ, Lý Bân đưa kị binh tiến gấp vào Thanh Hoa. Liễu Thăng cùng bọn thổ quan Mạc Thúy cưỡi chiến thuyền đuổi theo. Ngày 1/6 [25/4 Đinh Hợi], thủy quân Minh truy kích tới Lỗi Giang [dòng chính sông Mã, huyện Cẩm Thủy, Thanh Hoa], quân Đại Ngu tan vỡ

Ngày 5/6, quân Minh tấn công cửa Điển Canh Quân Quí Ly bỏ thuyền lên bờ. Quí Ly định chạy vào Thâm Giang, tức Ngàn Sâu, phía tây nam Nghệ An, nhưng lại thôi. (88)
 

atlas09

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-527718
Ngày cấp bằng
20/8/17
Số km
2,835
Động cơ
191,650 Mã lực
Tuổi
40
4. Ngày Tàn Của Cha Con Quí Ly:

Ngày 9/6/1407 [3/5 Đinh Hợi], Trương Phụ tới Trà Long, phủ Diễn Châu. Nghe tin cha con Quí Ly trốn ở Thâm Giang (Ngàn Sâu). Ngày 11/6/1407, quân Minh đánh chiếm cửa biển Kỳ La, châu Nhật Nam (tức cửa Lân, huyện Kỳ Anh, Thanh Hoa [Hà Tĩnh đời Nguyễn]). Quân Hồ đại bại. Nguyễn Đại, mới hàng Minh, bắt được Hữu tướng quốc Quí Tì và con là Phán trung đô Nguyễn [Võ] Cửu.

Ngày 14/6/1407 Trương Phụ, Mộc Thạnh và Liễu Thăng chia ba [3] mũi tấn công Kỳ La [Qiluo Sea]. Ngày 16/6, quân Minh tấn công Vĩnh Ninh. Liễu Thăng bắt được 300 chiến thuyền. Quí Ly bị bọn Vương Sài Hồ [Nguyễn Đại] bắt ở ghềnh Chẩy Chẩy [bãi Chỉ Chỉ], gần Kỳ La (tức cửa Lân, huyện Kỳ Anh, Thanh Hóa [đạo Hà Tĩnh đời Nguyễn, gần biên giới Bình Chính (Quảng Bình)]). Lê Nguyên Trừng và các con cũng đều sa lưới. Hôm sau, 17/6. bọn Nguyễn Như Khanh và Mạc Toại bắt được Hán Thương cùng con là Lê Nhuế.tại núi Cao Vọng. Đại tướng Hồ Đỗ và nhiều người khác cũng bị bắt. (89)

5. Mặt Trận Phía Nam:

Hoàng Hối Khanh cùng Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân, được Quí Ly và Hán Thương giao chỉ huy phía nam—tức hai châu Thuận và Hóa, cùng lãnh thổ mới chiếm được của Chiêm năm 1402 (tức châu Thăng Hoa).

Hiển nhiên, Trương Phụ, Mộc Thạnh, Hoàng Phúc cùng Lý Bân đã không quên xúi dục vua Chiêm đòi lại các đất Chiêm Động, khiến cha con Quí Ly đôi bề thụ địch. Năm 1406, Chu Lệ còn điều 600 tinh binh của Quảng Đông xuống Chiêm Thành, đề phòng Quí Ly vượt biên, uy hiếp bang phía nam này. Năm 1415, Chu Lệ còn tuyên bố với vua Chiêm đã đánh An Nam để bênh vực Chiêm. Nhưng Phụ cũng có dã tâm riêng—tức nhân cơ hội diệt Quí Ly, sẽ đặt các châu biên giới bắc của Chiêm Thành vào bản đồ Minh. (90)

Ngày 24/6/1407, Trương Phụ rời Kỳ La đi giải quyết Hóa Châu. Thổ hào Phạm Thế Căng đón hàng ở Nghệ An, được phong Tri Phủ Tân Bình.

Trước đây, Quí Ly phong Chế Ma Nô Dã Nam [con Chế Bồng Nga] làm Thăng Hoa quận vương để phủ dụ người Chiêm. Lại sai Tuyên úy sứ lộ Thăng Hoa là Hoàng Hối Khanh chia một phần ba [1/3] di dân Việt giao cho Nguyễn Lỗ [Rỗ] để cần vương. Hối Khanh dấu việc này đi.

Sau khi quân Minh xâm lược Đại Ngu, quân Chiêm Thành tiến đánh Thăng Hoa mà không chỉ tăng cường phòng thủ biên giới như Chu Lệ mong muốn. Hối Khanh bèn rút về giữ Hóa Châu.

Đại quân Trương Phụ tới Bàn Thạch, Nghệ An, được tin Đặng Tất và Hoàng Hối Khanh mang thủy binh từ Thăng Hoa [Quảng Nam sau này] về Hóa châu. Nguyễn Lỗ [Rỗ] dẫn dân đi đường bộ, đến chậm. Trấn thủ Nguyễn Phong không cho vào thành, bị Đặng Tất đánh giết. Sau đó Tất lại đánh nhau với Lỗ.

Ngày 3/7/1407 [27/5 Đinh Hợi], đại quân Trương Phụ tới cửa biển Minh Linh, huyện Đơn Duệ, châu Minh Linh, phủ Tân Bình.

Đô đốc Hoàng Trung sai thiên hộ Lý Duy Thân báo cáo rằng bọn Nguyễn Rỗ và Hoàng Hối Khanh đánh giết lẫn nhau [ở Thuận Hóa]. Nguyễn Rỗ mang voi về hàng Chiêm Thành. Vua Chiêm nghe tin quân Minh tới sợ hãi rút về nước, mang theo Nguyễn Rỗ cùng voi, lính. [Sau nhà Minh đòi đưa Lỗ tới Kim Lăng, giết đi]. Bọn Diệu Cẩm và Nhạc Thăng viết thư báo đã tới Hóa Châu, vỗ về Đặng Tất và cho giữ Hóa Châu. (91)

Hoàng Hối Khanh có vẻ không được Trương Phụ khoan thứ vì từng tham dư màn kịch “mừng đón Trần Thiêm Bình về làm vua.” Ngày 6/7/1407 [2/6 Đinh Hợi] khi đang lẩn trốn, Hối Khanh bị đắm tàu, lọt vào tay thổ binh. Đặng Tất bắt giải Hối Khanh cho Trương Phụ. Hôm sau, tới cửa biển Đan Thai, tức cửa Hội, của sông Lam ở Nghệ An, Hối Khanh tự tử. Hai ngày sau nữa, 8/7, Trương Phụ về tới cửa biển Đơn Hay [cửa Hội] Nhật Nam. Ngày 10/7 được tin Khanh bị thổ binh bắt, Phụ chém đầu xác Hối Khanh, bêu ở chợ Đông Đô. Tháng 8/1407, Trương Phụ phong Nguyễn Đại—đã giúp bắt cha con Quí Ly—làm Giao Chỉ thổ Đô thống sứ [tusi]. Rồi giết đi vì kiêu ngạo. (92)

Trương Phụ cũng sai bọn đô đốc thiêm sự Liễu Thăng [Liu Sheng], Hoành Hải tướng quân Lỗ Lân [Lu Lin], Thần Cơ tướng quân Trương Thắng [Zhang Sheng] và ba người khác giải Hán Thương về Kim Lăng cùng với cha, anh, hai em và nhiều triều thần khác. Ngày 5/10/1407, Chu Lệ ra cửa Phụng Thiên [Feng-tian] làm lễ đón nhận tù nhân. Thị lang bộ Binh Fang Bin [Phương Bân] đọc một cáo trạng dài, kể lể các tội lỗi của cha con Quí Ly. Mỉa mai “Hồ Nhất Nguyên tự cho mình khôn ngoan hơn Ngũ Đế, trung thành với lời dạy của Văn và Vũ, kiến thức cao sâu hơn Chu, Khổng.” Cao giọng buộc tội “Hắn phạm pháp khi tự đặt quốc hiệu Đại Ngu, niên hiệu Nguyên Thánh.” Khi Bân đọc đến câu “bọn cướp họ Lê giết vua, cướp ngôi,” [they killed their ruler and usurped rule of the country;] và “chúng đổi quốc hiệu và đặt niên hiệu” [They changed their dynastic and adopted a reign title] Chu Lệ hỏi Quí Ly và con trai: “Một đại diện Hoàng Đế có thể làm vậy không” [Is this a way of a minister]. Cả Quí Ly và Hán Thương đều không trả lời được. Chu Lệ cho lệnh nhốt Quí Ly, Hán Thương và Hồ [Trần] Đỗ vào ngục. Lê Nguyên Trừng [Li Sheng] được ân xá, làm việc tại bộ Công. Lúc đầu nghèo khổ. Sau được trả lương hoàn toàn bằng gạo. (93)

Cho rằng công lao Trương Phụ chẳng thua gì Mã Phục Ba [Ma Fu-po], tức Mã Viện, Chu Lệ đưa Phụ lên chức chỉ huy tối cao đạo quân xâm lược, và chấp nhận mọi đề nghị của Phụ, kể cả việc bỏ con cháu nhà Trần, sát nhập Giao Chỉ vào đế quốc Minh ngày 17/4/1407. Ngày 31/1/1408, Chu Lệ cho lệnh Trương Phụ và Mộc Thạnh chuẩn bị rút quân khải hoàn. (94)

Phải sáu tháng sau, ngày 3/7/1408, Trương Phụ và Mộc Thạnh mới dẫn đạo quân xâm lược về tới Kim Lăng. Phụ nộp lên Chu Lệ một bản đồ Giao Chỉ, lãnh thổ trải dài 1760 dặm từ Đông sang Tây, 2800 dặm, Bắc xuống Nam. Hai ngày sau, 5/7, bộ Lại báo cáo Giao Chỉ sẽ tổ chức thành mười lăm [15] phủ, 41 huyện, 208 châu, xây dựng, tu bổ 12 thành trì. Tổng số dân hơn 3,120,000 người, và 2,087,500 man [barbarians]. (95)

Trong không khí lễ hội, ngày 29/7/1408, Chu Lệ phong Trương Phụ lên chức Anh quốc công,. Mộc Thạnh chức Kiềm quốc công, cả hai đều hưởng lương 3,000 thạch [shi] gạo hang năm. Phụ được thưởng bạc và tiền nhiều hơn Thạnh một chút. Li Bin [Lý Bân] và Chen Xu [Trần Húc] cũng được thăng tước, trọng thưởng. (96)

Nhưng niềm vui của Chu Lệ không kéo dài được lâu. Tin buồn từ Giao Chỉ bay về. Quyền Chưởng Đô thống sứ ti Lã/Lữ Nghị [Lu Yi] xin cấp tốc gửi viện binh vì loạn lạc khắp nơi. Khởi đầu là tàn dư Quí Ly ở Thái Nguyên khiến một chỉ huy trưởng đội sung ngắn chết.

Sau đó là các chi nhánh họ Trần, như Trần Quí Ngỗi (1/11/1407-16/12/1409), con thứ Trần Nghệ Tông. Trốn thoát khỏi một trại tập trung [cùng Nguyễn Súy, Trần Triệu Cơ [Chen Xi-Ge], Trần Ngỗi dầy binh ở Mộ Độ, phủ Trường Yên (tức Thiên Quan) ngày 1/11/1407. (Taizong, juan 82:5ab; MSL, vol 11, pp 1101/02) Bị Trương Phụ và thổ binh truy đuổi vào Thuận Hóa, Trần Ngỗi liên kết với các lãnh chúa—như Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân, Nguyễn Súy—giết quan lại Minh, cùng thổ tù Phạm Thế Căng (tháng 6-7/1408), đã hàng Minh, được chức tri phủ. Trong khi đó, sau hai mùa Hè ở Giao Chỉ khiến khoảng 22,700 chủ lực Minh mất đi khí thế ban đầu.

Các thổ tù địa phương, đặc biệt là phong trào “Giặc Cờ Đỏ”—từng giết chết thượng tướng Phạm Cự Luận của Quí Ly—hoạt động mạnh trong lãnh thổ Thái Nguyên, rồi chuyển dần vào Nghệ An, Thuận Hóa.

Ngày 31/8/1408, Chu Lệ cử Mộc Thạnh đưa 40,000 quân Vân Nam qua tăng viện. Giao Chỉ được lệnh đặt 20,000 hải quân dưới sự điều động của Mộc Thạnh. (Taizong, juan 82:5ab; MSL, vol 11, pp 1101/02) Đồng thời bí mật gửi thư cho Trần Ngỗi nên thuận theo ý trời; hứa sẽ ân xá, bồi hoàn tài sản cho những người “làm loạn. (8/9/1408, juan 82:6a-7a; MSL, vol 11, pp 1104/05). Mãi tới ngày 18/12/1408, Mộc Thạnh mới xuất quân.

Và chỉ hai chục [20] ngày sau, 9/1/1409, đạo quân tăng viện của Mộc Thạnh bị thảm bại trên sông Thanh Quyết—tức Bô Cô hãn, thuộc huyện Gia Viễn, phía nam Hà Nội không xa. Nghĩa quân trên đường tiến ra đánh Đông đô, và kiếm lương thực— vì quân Minh cấm nông dân ở phía nam Thanh Hóa trồng trọt, trong khi ra sức bảo vệ hơn 13 triệu thạch gạo mà Trương Phụ cướp đoạt được của cha con Quí Ly năm 1407—tiêu diệt gần trọn bộ chỉ huy của Giao Chỉ đô thống sứ ti. Quyền chưởng Đô thống sứ ti Lữ Nghị; tham tán Trần Vân [Liu Juan (?)] của bộ Binh, Phó đô ti Lưu Dục [Liu Yu] tử trận cùng khoảng 10,000 thủ hạ. (97)

Ngày 12/2/1409: Chu Lệ phải cử Trương Phụ mang 40,000 quân và 7,000 hộ tống sang Giao Chỉ, với chức Chinh Di Phó tướng; có Vương Hữu [Wang You] phụ tá. Nhưng Trương Phụ và Mộc Thạnh, cùng những tướng tài ba nhất rồi cũng bó tay.Đánh tan cuộc khởi nghĩa này, có đám khác nổi lên.

Taizong, juan 88:5b; MSL, vol , pp; 5/3/1409:

Có tin Đặng Tuất chết. Taizong, juan 88:7b;

2/4/1409: Trần Quí Khoáng lên ngôi ở Chi La, Nghệ An [Hà Tĩnh ngày nay]. 4/5/1409: Trần Ngỗi gặp Trần Quí Khoáng ở sông Tam Chế, Nghệ An. ĐVSK, BKTT, IX:13b, Lâu (2009), 2:284;

Tháng 8-9/1409, Mộc Thạnh sai Hoàng La tới Nỗ Giang gặp đại diện của Trần Quí Khoáng, tức Trùng Quang Đế tại Nỗ Giang, Thanh Hóa khi Trùng Quang và Giản Định kéo quân ra Bắc; Giản Định ở Hạ Hồng, Quí Khoáng ở Bình Than; Hào kiệt theo rất đông; ngoại trừ Tri phủ Tam Giang [Đái] Đỗ Duy Trung; ĐVSK, BKTT, IX:13b-14a, Lâu (2009), 2:281, 284-285; Giu (1997), 2:285. Tam Giang: Vĩnh Phúc hiện nay.

16/12/1409: Trương Phụ bắt được Đế Ngỗi ở Mỹ Lương, trên đường tới Thiên Quan. (Taizong, juan 98:11b-12a)

Tháng 6-7/1410: Hào kiệt theo Quí Khoáng rất đông: Đồng Mặc (Thanh Hóa), Nguyễn Ngân Hà, Lê Nhị (Thanh Oai), Lê Khang (Thanh Đàm), Đỗ Cối, Nguyễn Hiệu (Trường Yên) 20/1/1411: Chu Lệ phong Quí Khoáng làm Bố Chính sứ. (Taizong, juan 111:6a; MSL, vol 13, p 4a; Lạng Sơn: 24.

Nông Văn Lịch nổi dạy. Đến năm Vĩnh Lạc thứ 18 [1420], “mối loạn vẫn chưa bình định.” (ĐVSK, BKTT, IX:21a , Giu (1967), 2:244- 245, Lâu (2009), 2:292; CMCB, XII:36-37; (Hà Nội: 1998), I: 749-50. Thực Lục q 218, tr 2165; q 225, tr 2211. Sau bị dân giết vì thông dâm với vợ thuộc cấp. Lạng Sơn 25.

Huyện Lục Na, Nguyễn Liễu, người Lị Nhân, khởi nghĩa, hô hào dân các huyện Lục Na, Vũ Lễ đánh phá quân Minh hơn 4 năm. Sau nghe lời chiêu dụ của Thổ-quan Mạc Công Trai xin hàng. (Hoàng Văn Tập, q 4, tr. 9). Nguyễn Huân vờ kết thông gia rồi giết đi. (ĐVSK, BKTT, IX :21ab, Lâu (2009), 2 :292; Giu (1967), 2:244-45; CMCB, XII:36-37; (Hà Nội: 1998), I: 749-50.

Cha con Phan Quí Hựu [Fan Gui-you], Thiếu bảo của Trần Quí Khoáng, và con là Phan Liêu [Fan Liao] đầu hàng, chỉ điểm. Trương Phụ trọng dụng. Cho Quí Hựu làm Phó thổ Án sát, tiếp tục giữ Nghệ An; Liêu làm quan, coi thổ binh. Ít hôm sau, Quí Hựu chết, Liêu lên thay cha. (ĐVSK, BKTT, IX:23b- 24a, Lâu (2009), 2 :295;

Ngày 31/8/1419, Phan Liêu nổi loạn vì bị Mã Kỳ ngược đãi, hạch sách vàng bạc, cùng các hương liệu. (juan 215:1b) Ngày 23/11/1419, Phan Liêu chạy qua Lào cùng Trần Đài [hay Thái].

Sau này, Lô Văn Luật ngả theo Phan Liêu, lưu lạc sang Lào. (juan 215:1b)
 

atlas09

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-527718
Ngày cấp bằng
20/8/17
Số km
2,835
Động cơ
191,650 Mã lực
Tuổi
40
VI. “Giao Chỉ Đô Thống Sứ Ti”:

Địa danh Giao Chỉ—chữ Giao [Jiao] bộ Ðầu nghĩa là gặp nhau [ThC, 12]; và Chỉ [zhi] bộ Phụ, cùng nghĩa với chữ chỉ bộ Thổ, có nghĩa cái nền. [ThC 12, 107, 743]. Theo cổ thư Trung Hoa, tên Giao Chỉ xuất hiện đời Lưu Triệt (Hán Vũ Ðế, 140-87 TTL) sau khi Lộ Bác Ðức (Lu Bo-de) xâm chiếm Nan Yue [Nam Việt], “giết [tru] Lữ Gia, mở chín quận” năm 112-110 TTL. Tuy nhiên, chẳng có bằng chứng khả tín nào về việc này. Rất có thể Giao Chỉ hàm ý một vùng đất đầy cá sấu, hay “giao long.” Tên Bến Nghé của Sài Gòn xuất xứ từ tiếng rống của cá sấu.

Sử cũ Việt thường thích nhắc đến huyền thoại “Việt Thường,” như Thanh Nhân Tông (Gia Khánh) đã nhắc đến năm 1804 khi đổi tên nước “Nam Việt” do Gia Long đề nghị thành “Việt Nam.” Có thông tin huyền thoại trên ghi trong truyền bản Hàn Thi ngoại truyện: sứ Việt Thường trải qua chín lớp thông ngôn mới tới cống hiến. Chu Cơ Ðán, phụ chính của Cơ Tụng đến năm 1104 TTL, hỏi vì duyên cớ gì mà đến, thì qua thông dịch, sứ đáp: Trời không có gió bão, không có mưa dầm, biển không có sóng dữ, đã ba năm, chắc là ở Trung Hoa có thánh nhân, nên tới chầu. Ðán cho rằng nước nào chính lệnh chưa đến thì quân tử không bắt họ phải thần phục; cấp cho sứ Việt Thường năm [5] cỗ xe có vải che, làm theo lối chỉ nam, để hồi hương. Ðoàn xe theo con đường tưởng tượng, không hề hiện hữu dài theo bờ biển tới Funan [Phù Nam, Kok Thlok], Linyi [Lâm Ấp], đi trọn một năm về đến nước. (98)

Trong khối văn sử cổ điển Tây phương, năm 100, một nhân vật Bà La Môn Kaundinya [Hỗn Điền] nào đó đến Funan [Kok Thlok], được nhận làm con rể, rồi xây dựng nên vương quốc thương mại này trong thế kỷ II-VI. Thịnh vượng về buôn bán, hải tặc với India và TH. Ranh giới mở rộng tới Malaysia. Năm 226, Thứ sử Giao Châu gửi một sứ đoàn tới Phù Nam. Trong thập niên 270, Phù Nam từng liên kết với Champa [Chàm] cướp phá Giao Châu. Khoảng năm 540 bị Bhava Varman của Kha Miệt [Khmer] chiếm; (99)

Khi những đoàn thám hiểm và truyền giáo Âu Châu khởi đầu toàn cầu hóa, thoạt tiên, nhà Minh vẫn cao ngạo xếp hạng thương mại như hiếu cống của tứ di “mũi lõ, mắt xanh,” mang lại lợi tức cho triều đình cũng như các quan lại. Càng ngày, thương gia Tây phương càng chứng tỏ không đến hiếu cống, và liên lũy tạo áp lực. Nhưng cả triều đình và quan lại đều quay mặt làm ngơ vì lợi nhuận.(100)

Theo Minh thực lục, 15 phủ gồm Giao Châu [Jiaozhou], Bắc Giang [Beijiang], Lạng Giang [Liang-jiang], Tam Giang [Đái] [San-jiang], Kiến Bình [Jianping, tên cũ Janxing], Tân An [Xin-an, cũ: Tân Hưng], Kiến Xương [Jianchang], Phụng Hóa [Feng-hua, cũ, Tianchang], Thanh Hóa [Qing-hua], Trấn Man [Zhen Man, tên cũ Long Hưng], Lạng Sơn [Liang-shan], Tân Bình [Xin-ping], Nghệ An [Yi-an], Thuận Hóa [Shun-hua], Diễn Châu [Yan-zhou] (không có trong bảng liệt kê các phủ của sử Nguyễn).

Hệ thống chính quyền phức tạp này—tiến hóa từ kiểu mẫu tusi nhà Nguyên (1260-1367) đã trắc nghiệm ở Quí Châu, và nhà Minh tiếp tục ở Đại Lý (Vân Nam-Tứ Xuyên) từ năm 1381-1382—nhằm mục đích khiến man, di quên dần vị thế một nước [guo hay vassal state] từng hiện hữu từ thế kỷ XII tới ngày 5/7/1407. (101)

Năm 1407, Giao Chỉ Đô Thống Sứ Ti mới chỉ có 14 phủ, và bốn phủ mới được đổi tên. Thái Nguyên và Tuyên Hóa lên hàng phủ năm 1408; và Thăng Hoa, do Chiêm Thành cai trị, chỉ vào bản đồ trên giấy tờ năm 1415. (102)

Hai huyện Thái Nguyên [Tai-yuan,] và [Tuyên Hóa [Xuan-hua, tức trán Tuyên Quang đời Trần] được nâng lên phủ năm 1408. Riêng Thăng Hoa bị Chiêm Thành chiếm năm 1407, nhưng năm 1414, Trương Phụ tái lập trên giấy tờ, đặt vào bản đồ Giao Chỉ.

Ngắn và gọn, quốc thống tưởng chừng đã tuyệt. May mắn, sau đợt khủng hoảng, thất thần đầu tiên, quốc thống được phục hồi. Từ 1407 tới cuối năm 1427, hơn 60 cuộc nổi dạy kháng Minh liên tục diễn ra, bác bỏ thứ ngụy biện chinh [punishment, teaching a lesson] mà không chiến [no war]. Đáng kể nhất có hai vua “hậu Trần,” con cháu Nghệ Tông, tức Đế Ngỗi hay Giản Định (1/11/1407- 16/12/1409) và Dế Khoáng, tức Trùng Quang (2/4/1409-31/3/1414); hay Trần Nguyệt Hồ ở Hạ Hồng, rồi sông Lỗi, Thanh Hóa. (1407, 1415)

Hai tướng cướp với tước quí phái “ hầu,” rồi “quốc công” Trương Phụ và Mộc Thạnh phải thêm ba, bốn lần mang chủ lực sang đàn áp. Những thủ đoạn như chất xác người thành gò đống, chặt đầu treo thủ cấp ở phố chợ, bến sông, bắt phụ nữ, thiếu nhi bán sang Trung Hoa làm nô lệ (kể cả con gái 9 tuổi của Lê Lợi), chỉ tạm ổn định tình hình vài năm để “thánh hóa” “hơn 3,120,000 di và 2,087,500 mán,” 13,600,000 shi [thạch] gạo, 235,900 voi, ngựa, trâu bò,” cùng một lãnh thổ trải dài “2800 dặm” từ bắc xuống nam, “1760 dặm” từ đông sang tây. Sử Minh ghi nhận là sau khi cha con Quí Ly bị đóng cũi gửi về Kim Lăng, phong trào kháng Minh khởi phát dữ dội từ bắc chí nam. Đây chẳng phải vì lòng thương tiếc cha con Quí Ly, mà vì quyết định sai lầm chiến lược của Chu Lệ, Trương Phụ, có sự tiếp tay của những kẻ nội thù tiềm ẩn ở Đại Việt, tiêu biểu là Mạc Thúy [Mo Sui], cháu nội Mạc Đĩnh Chi, và tổ bốn đời Mạc Đăng Dung—tức kế hoạch sát nhập Đại Việt vào đế quốc Minh, chia đặt quận huyện để tẩy rửa phong tục man di bằng “thánh giáo.” Trận đánh gây tiếng vang nhất là trận bến Bô Cô trên sông Thanh Nguyệt của Quốc công Đặng Tất [Deng Xi] và Giản Định [Jian Ding] vương— trong khoảng từ 30/12/1408 tới 9/1/1409—khiến bộ chỉ huy của Giao Chỉ đô sứ ti bị thiệt hại nặng. Tân Chinh Di tướng quân Mộc Thạnh phải một người một ngựa thoát về thành Cách (Ninh Bình), khẩn cấp xin cứu viện. Trương Phụ, rồi Mộc Thạch, thêm ba lần dẫn quân Quảng Tây và Vân Nam vào các năm 1409, 1411, 1414 cũng chỉ đủ khả năng diệt phe đảng họ Trần bằng thủ đoạn giảo quyệt—nhất là chiêu bài giả ngụy “hưng Trần.” Khi những lãnh tụ khác trong đám đông xuất hiện—kể cả cựu thổ quan, thổ binh từ năm 1416—quân xâm lược Minh đi vào nửa đường xuống dốc, khiến cả “uy” [wei] lẫn “đức” [de] đều khánh kiệt. Hoặc nói theo cha con, ông cháu Chu Lệ, Cao Xí và Chiêm Cơ, các tướng chỉ biết đến bản thân, coi thường quốc thể. “trở thành trò cưới cho man di.” [“How can we not the laughing stock of the man and yi?”] (103)

Thoạt tiên, Tham tướng Lý Bân [Li Bin hay Ben], của Mộc Thạnh làm Chưởng Đô Ti; Lữ Nghị [Lu Yi] Phó Đô Ti (năm 1406 từng theo Hoàng Trung đưa Trần Thiên [Thiêm] Bình, hay Nguyễn Khang) về nước. nhưng thất bại). Sau đó, Lữ Nghị được cử làm quyền chưởng Đô thống sứ ty [tusi], và Hoàng Trung làm phó. Trương Phụ chịu trách nhiệm chọn thêm hai người phụ tá (104)

Án sát Hoàng Phúc—nguyên phụ trách việc tiếp vận từ Quảng Đông qua, được cử làm Bố chính sứ ty kiêm Án sát sứ ti Tại Bố chính ti, Hoàng Phúc có sáu [6] phụ tá, kể cả Bùi Bá Kỳ, với chức Hữu Tham nghị. Hai người Hoa—Zhang Xian-zong, và Wang Ping [Vương Bình] Hữu Tham chính, chết trận ngày 26/12/1413 khi cùng Hoàng Trung càn quét Thanh Hóa]. Án sát ti có hai phó Án sát và một tham nghị. Bộ Lại chịu trách nhiệm cử người khác cho đủ cấp số. (105)

472 nha sở thu dùng hàng ngàn quan lại Hoa, cùng trên 9,000 thổ quan, chia nhau các chức vụ thổ Tri phủ (dự trù lên tới 15 người), thổ tri châu, tri huyện, v.. v…

Ngày 24/1/1418, Giao Chỉ Đô sứ ti có tới 100 quan chức và lại viên: Đô sứ ti có 30 người, Bố chính ti, 50 người, và Án sát ti, 20. (106) Mười hai năm sau ngày “diệt trừ quỉ dữ, mang ánh sáng thánh giáo cứu giúp man di,” Chu Lệ và thuộc hạ—không ít những tội phạm được lấy ra khỏi nhà tù, gửi sang cho lập công chuộc tội—đưa Giao Chỉ xuống tận cùng đáy thẳm của địa ngục có thực. Dân chúng hàng năm chết đói đầy đường. Khói lửa loạn ly lan tràn từ thành thị tới nông thôn, rừng núi. Những tên cướp nước luôn miệng khoe khoang về văn trị, thánh đức không từ một cơ hội nào để chém giết, cướp bóc, mổ bụng đàn bà có thai, để khủng bố long người. Tổng Binh ăn gan, uống máu nghĩa quân kháng Minh. Sĩ quan thuộc cấp không thiếu kẻ bị đóng gông giải về kinh đô, nhưng chỉ ít lâu sau lại được ân xá gửi đến những chiến trường khác, và không ít kẻ trở lại Giao Chỉ để tiếp diễn những tội diệt chủng, hiếp dâm. Từ năm 1417, lại thêm một loạt những cuộc nổi dạy của thổ quan, thổ binh từ nam chí bắc, từ góc rừng, triền núi tới những thanh thị, phố xá

Những thành phần hợp tác [Collaborators]: Các bộ quốc sử Việt đã nói nhiều, dù không hẳn đầy đủ về thành phần hợp tác. 1. Thổ quan: Tháng 8/1407, Chu Lệ ra chiếu tuyển mộ nhân tài. “Những người hơi có tiếng tăm đều hưởng ứng, riêng có Bùi Ứng Đẩu bị tật ở mắt, và hạ trại học sinh là bọn Lí Tử Cấu vài người ẩn náu không ra mà thôi.” Lúc bấy giờ cũng có câu: Muốn sống vào ẩn trốn trong rừng. Muốn chết thì đi làm quan bên Tàu. [“Dục hoạt ẩn lâm san. Dục tử tố Bắc quan.”] (107)

Ý chính tờ sắc dụ gửi thổ quan và bô lão Việt tháng 1/1413 được lập lại vào tháng 1-2/1416, khi Chu Lệ thay bằng sắc hơn 9,000 quan lại tụ hợp ở Kim Lăng, do Tổng binh ký bằng bằng sắc thiếp vàng của Bộ, [như Tả Bố chính sứ Nguyễn Huân,Tham nghị Lương Nhữ Hốt, Đỗ Duy Trung] cũng có câu này; “trời cũng giúp cho, lại hưởng nhiều phúc lộc, mãi đến đời con cháu, mà tiếng thơm của các người cũng mãi mãi còn trong sử sách” [của TH].(109)

Tháng 11/1415, Trương Phụ lại qua Giao Chỉ vì tình trạng ngày càng xấu đi. Tháng 1-2/1416, Phụ sử dụng, nói theo giáo mục Ki-tô Paul Puginier, những “chiếc càng cua” bản xứ như Nguyễn Huân làm Bố chính sứ, Lương Nhữ Hốt và Đỗ Duy Trung làm tham chính. (ĐVSK, BKTT, IX :26b, Lâu (2009), 2 :298 ; CMCB, XII:44- 45 ; (Hà Nội : 1998), I:757).

Tháng 1-2/1416, Chu Lệ triệu tập quan lại, bô lão về Kim Lăng, ban cho bằng sắc do chính triều đình Minh ấn ký. Trên 9,000 người, theo Minh thực lục. Sử dụng bọn trung gian bản xứ Nguyễn Huân [Ruan [Mo] Xun], người Chí Linh, Nam Sách [Hải Dương], làm Tả Bố chính sứ, Lương Nhữ Hốt [Liang Ru-hu], người Hoằng Hoá, Thanh Hóa] và Đỗ Duy Trung [Du Wei Zhong] người phủ Tam Đái (sông Thao, Cấm Khê, Sơn Tây), làm tham [nghị] chính. (ĐVSK, BKTT, IX:26b-27a, Lâu (2009), 2:298; Giu (1967), 2:251-52; CMCB, XII:44- 45; (Hà Nội: 1998), I:757)

Chu Lệ hạ chiếu huấn dụ quan lại, thuộc ti Bố Chính, có câu “trời cũng giúp cho, lại hưởng nhiều phúc lộc, mãi đến đời con cháu, mà tiếng thơm của các người cũng mãi mãi còn trong sử sách;” (ĐVSK, BKTT, IX:27ab, Lâu (2009), 2:298; ĐVSKTB, BK X:32ab, The (1997), tr. 548; CMCB, XII:44-45; (Hà Nội: 1998), I: 757-58

Một số không nhỏ đã bị cuốn hút và khích động về chiêu bài diệt ác, hưng Trần. Nếu tin được Minh thực lục, Trần Ngỗi có mặt trong h2ng ngũ này. Tuy nhiên, trong khi chờ đợi dẫn về Kim Lăng, Trần Ngỗi đã cùng một số người trốn về Mộ Độ, phủ Thiên Trường, phất cờ “kháng Ngô.” Trần Quí Khoáng hay Quí Khách, vua hậu Trần thứ hai, cũng hơn một lần tìm cách hợp tác với quân Minh. Đế Ngỗi và tùy tùng hai lần gửi sứ và tuế cống [gồm hai tượng người bằng vàng bạc] đến Kim Lăng. Năm 1411, Chu Lệ giả vờ đồng ý, phong Quí Khoáng làm Bố Chính sứ, và đề cử những cận thần của Đế Ngỗi vào ba ti. Nhưng những quan tướng ngoài mặt trận được quay mặt làm ngơ để ra tay tiêu diệt. Cơ quan mật vụ Đông Sở của các thái giám đả sử dụng cả con trưởng Quí Ly để dò xét tin tức từ các sứ thần của Trùng Quang tại Kim Lăng, khiến vua giết Hành khiển Hồ Ngạn Thần sau khi phó sứ Bùi Nột Ngôn tố cáo sự việc. (110)

Đại đa số những người hợp tác chủ trương bá đạo, tư lợi. Chính nghĩa, đạo đức, và ngay cả hạnh phúc thu gọn trong vòng quyền lợi cá nhân và phe đảng.

Đáng ngạc nhiên là trong số này có ba cháu nội của Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi—chẳng những thông minh, văn hay chữ tốt, giỏi ứng biến [nhưng cũng có nghĩa chậm tiến, tưởng lầm chim sẻ thêu thành chim thực], hai lần đi sứ Nguyên, mà còn là một đại quan thanh liêm, tiết tháo, được liệt vào hạng danh nhân của Hải Dương trong Đại Nam Nhất Thống Chí. Phải chăng vì sự cảm phục Mạc Đĩnh Chi, [hay đã bị nịnh thần nhà Mạc sửa chữa, cắt bỏ] sử quan đời sau chỉ nhắc rất sơ lược về hành động phản quốc của anh em Mạc Thúy, Mạc Địch, Mạc Viễn—đã tự nguyện đầu hàng, tuyển mộ 10,000 thổ binh dẫn đường quân xâm lược đánh phá thành trì, lùng bắt nghĩa quân, và nhất là lưu lại hậu thế chứng từ thành văn tội phản nghịch, xin Chu Lệ ban ơn đặt Giao Chỉ vào nội địa, như hơn 400 năm trước; và góp công vào việc tung tin con cháu nhà Trần đã tuyệt, khiến năm 1409 Trương Phụ ngạo nghễ tuyên bố với sứ giả của Trần Quí Khoáng—tức Trùng Quang Đế— là “không thể còn sót một cháu nội cua Nghệ Tông,”

Bảng nhãn Lê Quí Đôn có lẽ đã sai lầm khi chỉ liệt kê những Trần Phong, Lương Nhữ Hốt, hay Đỗ Duy Trung vào hàng ngũ “nghịch thần.” Mạc Thúy còn đứng đầu sổ công thần của xâm lược Minh. Mạc Thúy cũng góp phần không nhỏ trong việc tuyển chọn “hơn 9,000” nhân tài bản xứ ra làm quan theo triết lý “dĩ di trị di” của Hán tộc. Từ năm 1436, An Nam được khôi phục quốc thống [guo], nhưng chỉ một thế kỷ sau, cháu chắt Mạc Thúy và Mạc Tung—người năm 1418 được thừa kế chức tước và lương bổng của cha—sẽ tạo nên một tiền lệ khác, tức “An Nam đô thống sứ ti;” và, chưởng đô thống sứ ti với hạng tùng nhị phẩm, cha truyền con nối

Chẳng hiểu anh em Mạc Thúy và Nguyễn Huân đã chọn quan điểm trên vì nguồn gốc Hoa—nên mơ ước “châu hoàn Hợp Phố,” hay thù ghét gì nhà Trần. Cũng có thể vì thấm nhuần sách vở Trung Hoa—bị đầu độc bằng luật kẻ mạnh, và những chi tiết lịch sử ngụy tạo như “từ thời Chuyên Húc, Đường, Nghiêu ánh sáng thánh giáo Trung Hoa đã chiếu rọi mọi hang động “Giao Chỉ,” “Giao Châu” hay “An Nam.” Thực tế, cho tới năm 1414-1415, Hoàng Phúc còn muốn dạy bảo thêm “man di” cách thờ phụng thần gió, thần mây,” “thần mưa,” “thần sấm sét,” cùng cả một hệ thống bái vật của Hán tộc.

Hay truyện cổ tích “Phục Ba tướng quân Mã Viện” từng dựng trụ đồng khoa trương công lao tái xâm lăng, khuất phục man di,” và phân định biên giới” chỉ có trong những giấc mơ hay tại các trung tâm hành quân, vắt óc, mài trán tìm cho được cơ hội xâm lăng lân bang. Vì, trên thực tế, 20 tội của cha con Quí Ly chưa hề bén gót tội lỗi vượt thời gian và không gian của Chu Lệ cùng những Trương Phụ, Hoàng Phúc, hay Chu Vinh. Vì chiếc ngai vàng nhà Minh, chẳng hạn, Chu Lệ đã giết cháu đích tôn của cha, ám hai anh em, họ hàng.
 

atlas09

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-527718
Ngày cấp bằng
20/8/17
Số km
2,835
Động cơ
191,650 Mã lực
Tuổi
40
2. Thổ quân:

Thổ quan và thổ binh là một trong những giai tầng thống trị xã hội Giao Chỉ đô thống sứ ti. Thổ quân chỉ chính thức thành lập từ tháng 2-3/1416, khi Trương Phụ cho lệnh mỗi hộ phải cung cấp ba [3] hay hai [2] đinh. (111)

Trước đó, mới chỉ có lính đánh thuê bảo vệ ba ải Pha Lũy, Chi Lăng và Lưu, cùng hệ thống trục lộ tiếp vận thủy bộ (bảy [7] trạm ngựa, tám [8] trạm thuyền). Từ năm 1406-1407, khoảng hơn 10,000 thổ binh tình nguyện chỉ đường, dẫn lối cho quân Minh đánh chiếm các đồn trại, công sự, và truy đuổi cha con Quí Ly. Thành lập 10 đơn vị bảo vệ [guards], 1 sở kiểm soát hải thương, 100 trạm tuần kiểm, 92 sở thuế buôn bán; xây tường [walls], đào hào [moats] 12 thành (112)

Tháng 2-3/1410, Trương Phụ cũng đặt đồn điền, và các kho mua thóc ở Tuyên Hóa, Thái Nguyên, Tam Giang [châu Phong và châu Chân Đăng cũ; tức Lâm Thao, Đoan Hùng và Quảng Oai tỉnh Phú Thọ hiện nay] làm lương. Hơn 8,000 thổ binh ở các đồn điền, và các kho trên. (113)

Cuộc tấn công Mông Cổ do đích thân Chu Lệ chỉ huy ở miền bắc khiến quân số Hán, Tartar hay thổ dân Vân-Quí và Lưỡng Quảng bị thiếu hụt. Lý Bân và Trần Trí ngày càng phải trông cậy ở lực lượng thổ quân Giao Chỉ.

Năm 1426, Kim Lăng cho lệnh tam ti Giao Chỉ đặt 30,000 thổ binh dưới quyền Vương Thông; cho phép Mộc Thạnh đóng cửa các mỏ để có đủ thổ binh tăng viện Giao Chỉ. Ngày 29/6/1426: Trần Trí xin bỏ đồn điền, rút 5,000 thổ binh đánh giặc. (114)

Đáng ghi nhận là không thiếu các quan lại của Quí Ly, vì lý do này hay lý do khác, đã can đảm từ bỏ chức vụ, chống lại quân Minh. Những nhân vật lừng lẫy nhất có Đặng Tất, Nguyễn Cảnh Chân, Nguyễn Súy, v.. v..Họ đã giết quan tướng Minh, phò Giản Định vương, đập tan lòng tự cao, tự đại của Chu Lệ qua những chiến thắng Bô Cô từ 30/12/1408 tới 9/1/1409. Lê Lợi—người anh hùng áo vải Lam Sơn, có thể xuất thân từ hàng ngũ tuần kiểm—nhưng từ năm 1416 đã thu đón nhân tài, hào kiệt ; trong vòng 12 năm nằm đất, gối sương. It khi có một bữa no, nhưng cuối cùng phục hồi được quốc thống. Nhiều nữa, những anh hùng vô danh. Không ai còn ghi nhớ tên tuổi họ. Những cái chết âm thầm, vô danh của họ—của hàng triệu người, ngày này qua tháng khác—biểu trưng cho niềm kiêu hãnh và quốc thống Việt Nam.

3. Chính sách bóc lột kinh tế :

Mục tiêu tối hậu của việc thánh hóa Giao Chỉ là vơ vét thật nhiều, càng nhiều càng tốt, những sản phẩm địa phương. Ngay trong ba [3] năm miễn thuế đầu tiên, Trương Phụ cùng Hoàng Phúc đã thực hiện nhiều cuộc vơ vét, cướp đoạt tài nguyên.

Thứ nhất là kho tàng quí kim và châu ngọc của Đại Ngu mà cha con Quí Ly cướp được của họ Trần. Theo báo cáo của bộ Lại nhà Minh mùa Hè 1408, Trương Phụ và Mộc Thạnh cướp được 1,360,000 shi [thạch] gạo; 235900 voi, ngựa, trâu bò; 8,677 thuyền; 2,539,852 khí giới. Đó là chưa kể số quí kim, cùng các mỏ vàng, bạc, ngọc trai, gỗ quí, lâm sản, hồ tiêu, v.. v.. Từ đầu năm 1407, Chu Lệ cho lệnh Trương Phụ và Mộc Thạnh sử dụng chiến lợi phẩm này một cách tằn tiện, và sẽ ngưng đưa gạo từ Quảng Đông sang. Nhưng cũng đã có dấu hiệu khan hiếm gạo, rồi đến nạn đói trầm trọng vào cuối năm. Qua năm 1408, Bố chính sứ ty đưa ra biện pháp cần kiệm, giảm thiểu số lương thực mọi cấp. Từ nhất tới tam phẩm, lương tháng là một thạch gạo. Tứ phẩm tới ngũ phẩm, lương tháng 8 đấu. Lục phẩm-thất phẩm, mỗi tháng 7 đấu. Bát phẩm trở xuống, 6 đấu. Trung đội trưởng, 5 đấu. (114)

Đáng chú ý là do tình trạng động loạn khắp nơi, cùng những biện pháp chiến tranh kinh tế—hạn chế và cắt đứt lương thực cho các phong trào kháng Minh—đời sống đắt đỏ, vật giá leo thang. Một lạng vàng chỉ mua được 30 yến muối, trong khi 1 lạng bạc mua được 3 yến. (116)

Thứ hai, mở trường thu vàng bạc. Tháng 9-10/1415, bắt dân lên rừng bắt tê. voi, kiếm hương liệu, săn bắn chồn trắng, hươu trắng, rùa chin đuôi, chim đậu ngược, vượn bạc má; xuống biển mò ngọc trai, hay sống lay lất, bệnh tật trong các mỏ quí kim ở bảy quân Thái Nguyên, Gia Hưng, Quảng Oai, Thiên Quan, Hoàng Giang, Lâm An, Tân Ninh. (118)

4. Về thương mại,

Giao Chỉ sản xuất được một số sản phẩm tiểu công nghệ như tơ mỏng (1668 tấm năm 1417, 1668 tấm năm 1418); sơn mài [lacquer] (2,000 jin năm 1417, 2400 jin năm 1418); Sapan-wood (1500 jin năm 1417, 5,000 jin năm 1418); lông chim bột cá [King-fisher feathers] (2000 bộ một năm 1417, và 1418); và quạt giấy (10,000 cái mỗi năm).

Trong nhiệm kỷ cuối ở Giao Chỉ từ ngày 9/5/1415 tới 26/2/1417, Trương Phụ thực hiện được một số việc công ích. Phụ mở đường bộ tới Hoành Châu [Nam Ninh, Quảng Tây]; đường thủy tới Khâm Châu—đặt các trạm chuyển vận [relay stations] bằng ngựa trên đường bộ, trạm bến thuyền trên đường thủy. (119)

5. Văn hóa:

Để đồng hóa dân bản xứ, Chu Lệ ban hành hai [2] chỉ dụ.

a. Thu hết “sách vở” man di mang về Yên Kinh; Tháng 8/1418, bắt đầu sai người sang thu sách vở của Đại Việt. (ĐVSK, BKTT, X:3ab, Lâu (2009), 2:302 ; Giu (1967), 2:252;

b. Một chỉ dụ khác, cho lệnh bọn Trương Phụ: thăm dò rộng rãi khắp nước, để tìm người tài đức, hoặc có một điều hay, một nghề giỏi. Dùng lễ để sai khiến, tìm cách đưa về kinh đô.” Ít nhất ba quan chức gốc Giao Chỉ được bổ nhiệm phục vụ ở Bắc Kinh, rồi di chuyển lên Sơn Đông. Chu Lệ cũng phong chức tước cho bảy [7] con cháu họ Trần. (120)

6. Tháng 8-9/1414, Hoàng Phúc xin lập văn miếu và đền thờ bách thần. (121) ĐVSK, BKTT, IX:25b, Lâu (2009), 2:296; Giu (1967), 2:249; ĐVSKTB, BK X:31a, The (1997), tr 547; CMCB, XII:41; (Hà Nội: 1998), I:754

Nên ghi nhớ văn miếu thời Minh có hai đặc điểm : chỉ thờ Khổng Khâu và các đệ tử, hay thánh hiền; và, không thờ tượng g ỗ, hay tượng đất. Để chứng tỏ lòng tôn kính bậc Chí Thánh, người ta mang chôn các tượng. [Xem Phụ Bản II]

Trong vòm cung thần thánh, ngoài Ngọc Hoàng thượng đế, Phật tổ, được thêm vào các thần sông, núi, hồ, ao, sấm, chớp, mây, mưa, gió, v.. v..

7. Giáo dục:

Tháng 11-/12/1414, Bành Đạo Tường xin mở trường học.Tại Giao Chỉ có năm [5] loại trường chính: trường thuốc, trường âm dương, trường Phật học, trường đạo Lão và trường Nho giáo.

Nho sinh tại 12 trường cấp phủ, 19 trường cấp huyện, nhưng phải dùng thày giáo bản xứ. Các trường đạo Lão, đạo Phật, đạo quan, thiền viện, trường thuốc còn để lại rất ít thông tin. (122)

Tháng 2 Kỷ Hợi [1419]: Phát tứ thư ngũ kinh, truyền kinh Phật, v.. v .. (123)

Theo sự đánh giá của phái đoàn kiểm soát năm 1419, trình độ các học sinh rất kém. Một trong những lý do là vẫn phải sử dụng các thày người bản xứ. (124)

Từ tháng 7 Đinh Hợi [1407], kén chọn những người tài giỏi, học thức, đưa về Kim Lăng huấn luyện. Mỗi châu, phủ phải lựa những học sinh xuất sắc để gửi vào đại học Kim Lăng, hay Bắc Kinh [do nhà Nguyên thành lập].

Tháng 10-11/1415 [9 Ất Mùi, 3/10-1/11/1415], Hoàng Phúc còn đưa các tăng đạo, nhà nho, thày thuốc qua Kim Lăng. (125)

Năm 1418, có 30 du học sinh Việt tại Kim Lăng. (200:3b) Mười năm sau, ít nhất 160 du học sinh Việt ở Bắc Kinh phải về nước. (126)

8. Năm 1419 [Kỷ Hợi], lập chế độ “hộ thiếp” để kiểm soát dân chúng về thuế má và sưu dịch. Mỗi 110 hộ lập ra 1 lý trưởng, có 10 giáp trưởng giúp việc. (127)

9. Cho lệnh dân không được cắt tóc. Phụ nữ phải mặc áo ngắn, quần dài như người phương Bắc. (128)

Ngày 26/7/1419, bắt man di để tang cha mẹ ba năm; (theo yêu cầu của Lu Wen-zheng]; (129)
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top