[Funland] 30.4: Kể chuyện những người hai bên chiến tuyến

Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
23,309
Động cơ
697,036 Mã lực
5. Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn

Với tôi, khi xác định được mục tiêu, lý tưởng và nhiệm vụ của mình thì điều đầu tiên nghĩ đến phải là hoàn thành và bằng mọi cách hoàn thành nhiệm vụ, trong đó có việc bảo toàn cá nhân mình.

Tôi đã được biết trước những gì sắp đến – nhưng không rõ sẽ vào lúc nào một cách chính xác, nên khi nó tới, khi lá cờ Quân Giải phóng bay phấp phới trên Dinh Độc Lập, tôi vui –

niềm vui vì mình đã hoàn thành nhiệm vụ, song không bất ngờ.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
23,309
Động cơ
697,036 Mã lực
Nhưng vào cái giờ phút đó, tôi lo lắng không biết điều gì sẽ xảy ra.

Liệu có một cuộc nổ súng trên đường phố? Bạn bè tôi, số phận sẽ thế nào? Vâng! Đây là bạn bè báo chí phương Tây, bạn bè trong chính quyền Sài Gòn, là người dân Sài Gòn.

Lúc đó, tôi đang giữ một vai trò ở Times. Tôi phải tự mình chạy khắp nơi trong thành phố lấy tin, làm tin đưa về tòa báo sao cho thông tin trung thực,

và để cho thế giới biết chiến thắng của ta, hòa bình thật sự, không có tàn sát, cướp bóc, hỗn loạn…
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
23,309
Động cơ
697,036 Mã lực
Năm tháng qua đi, nỗi đau mất mát chiến tranh cũng dần lùi xa.

Truyền thống dân tộc, nghĩa tình huyết thống gắn kết mọi người vượt qua đau thương. Sự hòa hợp không thể tách rời trong mỗi con người, mỗi gia đình Việt Nam.

Đấy cũng chính là sức mạnh của ý chí thống nhất, khát vọng hòa bình và hòa hợp dân tộc của người Việt Nam ta.
 

2111987

Xe tải
Biển số
OF-200839
Ngày cấp bằng
5/7/13
Số km
261
Động cơ
324,891 Mã lực
Từ ngày quán cà phê mở lại mới được đọc những bài viết chất lượng và có ích như này. Kíh cụ 1 li vodka
 

Nghen loc

Xe tăng
Biển số
OF-491484
Ngày cấp bằng
25/2/17
Số km
1,649
Động cơ
224,056 Mã lực
Tuổi
45
Đây là một chủ đề nghiêm túc và có tính nhân văn cao của Cụ Lầm. Vì vậy mọi người nên bình luận, chia sẽ cũng nên nghiêm túc và xây dựng, đừng sa vào những điều không hay như một số cụ đã viết ở trên.
 

f320

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-173186
Ngày cấp bằng
22/12/12
Số km
4,752
Động cơ
385,150 Mã lực
Theo em, ngày 30/4 hàng năm không nên gọi là ngày giải phóng miền nam thống nhất đất nước, cũng không nên thể hiện sự vui mừng thái quá. Đây nên là ngày tưởng niệm cho những người đã mất ở cả hai đầu chiến tuyến.
 

Taihoatu

Xe lăn
Biển số
OF-41027
Ngày cấp bằng
19/7/09
Số km
13,378
Động cơ
596,912 Mã lực
Đến thời điểm này có khi cụ Có Lầm thật.
 

Hoàng_Phú Thọ

Xe container
Biển số
OF-307823
Ngày cấp bằng
14/2/14
Số km
7,888
Động cơ
689,466 Mã lực
Nơi ở
huyện Cẩm Khê - Phú Thọ
Hay đọc về giai đoạn 1945-1975
Em nghĩ cuộc kỷ niệm này không nên rầm rộ hơn kỷ niệm cuộc chiến đấu bảo vệ BGPB.
 

getz0932

Xe buýt
Biển số
OF-137659
Ngày cấp bằng
8/4/12
Số km
545
Động cơ
371,910 Mã lực
Theo em, ngày 30/4 hàng năm không nên gọi là ngày giải phóng miền nam thống nhất đất nước, cũng không nên thể hiện sự vui mừng thái quá. Đây nên là ngày tưởng niệm cho những người đã mất ở cả hai đầu chiến tuyến.
đồng quan điểm với cụ, niềm vui với người này cũng là sự mất mát quá lớn với nhiều người khác. Tuy vậy, nói 30/4 là ngày thống nhất cũng không có gì quá hay thiếu tôn trọng lịch sử cả, hiểu nhẹ thì là nhẹ thôi ~o)
 

getz0932

Xe buýt
Biển số
OF-137659
Ngày cấp bằng
8/4/12
Số km
545
Động cơ
371,910 Mã lực
cụ lầm trích từng đoạn một đọc mất thời gian quá, cụ gộp cả vào trang 1 cho liền mạch & lưu ý dẫn nguồn.
link: http://antg.cand.com.vn/Tu-lieu-antg/Buc-thu-gui-tu-ben-kia-chien-tuyen-340599/
Nguồn: ANTG.CAND
Bức thư gửi từ bên kia chiến tuyến
07:50 25/02/2015
Phát hiện sự rò rỉ thông tin ngay trước khi chiến dịch mở màn, nhưng vì âm mưu chính trị, cả Mỹ lẫn Việt Nam Cộng hòa (VNCH) vẫn quyết định tiến hành Chiến dịch Lam Sơn 719. Dù Việt Cộng có nắm được từng phần, nhiều phần, thậm chí toàn bộ kế hoạch cũng không thể đủ sức, đủ thời gian để có phương án đối phó hữu hiệu.
Họ tin chắc, ưu thế vũ khí, phương tiện chiến tranh hùng hậu cộng với hình thái chiến tranh kỹ thuật, chiến tranh lập trình sẽ dễ dàng nghiền nát chiến lược chiến tranh nhân dân vốn đề cao nhân tố con người của quân đội Cộng sản miền Bắc.

Sự kiêu ngạo kỹ thuật đã khiến Mỹ và VNCH phải trả một giá rất đắt. Gần 8.500 lính VNCH thiệt mạng, hơn 13.000 người bị thương và bị bắt trong chiến dịch Lam Sơn.

Không trực tiếp chiến đấu nhưng phía quân đội Mỹ cũng có tới 215 người thiệt mạng, hơn 1.200 người khác bị thương và mất tích. Tổng cộng gần 800 trực thăng bị bắn rơi và bắn hỏng. Trong khi đó, căn cứ địa Tchepon – đầu mối hậu cần của Quân đội nhân dân Việt Nam trên đất Nam Lào cho sự nghiệp giải phóng miền Nam vẫn đứng vững.

Nuốt không trôi trái đắng thảm bại, CIA và an ninh quân đội VNCH quay sang điều tra, tìm kiếm “Việt Cộng nằm vùng”, những người có thể đã cung cấp thông tin chiến dịch cho đối phương gây nên cuộc thảm bại.

Danh sách tình nghi trong hàng ngũ sĩ quan cao cấp khá dài, trong đó bút mực đỏ đồ đậm một cái tên: Thiếu tá Nguyễn Văn Có, Trưởng phòng Hành quân Bộ Tổng tham mưu.

Ông Nguyễn Văn Có, thường gọi thân mật là ông Sáu Đột người gốc Bến Tre, được xem như một sĩ quan hành quân giàu năng lực. Viên sĩ quan này đã trực tiếp tham gia soạn bản đồ chiến lệ (bản đồ hành quân) các chiến dịch quan trọng như: Lam Sơn 719, Cuộc thoái binh Snuol (Campuchia 1971), hay cuộc hành binh đánh vào căn cứ đầu não của Quân giải phóng miền Nam trên đất Campuchia năm 1970.

Cũng chính ông ta là người thay Đại tướng Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viên thuyết trình kế hoạch hành quân Hạ Lào cho Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và các tướng lĩnh cao cấp Hoa Kỳ trên Hạm đội 7 trước khi chiến dịch mở màn. Đáng nói, tất cả các cuộc hành quân đó, quân đội VNCH đều hoàn toàn đại bại.

Đáng nghi hơn, lẽ ra trong cuộc hành binh Snuol, Thiếu tá Nguyễn Văn Có đã phải có mặt trên cùng chuyến trực thăng định mệnh ngày 23/2/1971 để tham gia thị sát chiến trường Campuchia. Nhưng vào giờ chót, không rõ vì lý do gì, trung tướng Đỗ Cao Trí - Tư lệnh Quân đoàn 2 - Vùng II chiến thuật đã đồng ý cho ông ở lại.

Kết quả: trực thăng nổ tung, tướng Trí cùng 1 trung tá, 1 thiếu tá, 2 đại úy, 2 sĩ quan phi công Mỹ và 4 hạ sĩ quan khác thiệt mạng. Là định mệnh run rủi hay do thiếu tá Nguyễn Văn Có biết trước? Câu trả lời vẫn là một bí ẩn.

Không có bằng chứng nên thiếu tá Nguyễn Văn Có chỉ bị ngồi chơi xơi nước nhưng không bị bắt. Viên Thiếu tá - Trưởng phòng hành quân vẫn an nhiên tự tại, không hề có dấu hiệu nao núng hay muốn bỏ trốn khả dĩ càng làm cho mối nghi ngờ tăng lên.

Mãi đến tháng 3/1972, phía Sài Gòn mới có đủ bằng chứng để khẳng định: Thiếu tá Nguyễn Văn Có là một điệp viên cao cấp của Cộng sản. Lệnh bắt được ký, nhưng viên thiếu tá đã biến mất, không dấu vết.


Xe tăng Quân Giải phóng tiến vào Thị xã An Lộc trước sự lúng túng và hoảng hốt của binh sĩ VNCH đang phòng thủ.
Không lâu sau, tin tình báo lại cho biết, Thiếu tá Nguyễn Văn Có đã trở thành Chính ủy Trung đoàn 201A (một nửa của Trung đoàn 201, nửa kia vẫn ở lại làm nhiệm vụ tại căn cứ trên đất Campuchia), đơn vị chủ lực miền đang tham gia bao vây và tấn công thị xã An Lộc, tỉnh Bình Long trong chiến dịch Nguyễn Huệ nhằm mở toang cánh cửa về Sài Gòn - cách 98km theo đường chim bay từ hướng tây bắc.

Càng cay đắng hơn, Thiếu tá Nguyễn Văn Có trước đó đã từng là người tham gia soạn thảo kế hoạch phòng thủ đường 13, mặt trận Bình Long, đề phòng bị quân Cách mạng từ hướng Campuchia kéo về tấn công sau khi cuộc hành binh Snuol của quân đội VNCH thất bại.

Trên bản đồ, tỉnh tân lập Bình Long chỉ mới xuất hiện từ năm 1956, trên cơ sở thị trấn Hớn Quản tách ra khỏi tỉnh Thủ Dầu Một, rộng vỏn vẹn chỉ 2.140km2, gồm 3 quận - thị xã Lộc Ninh, Chơn Thành và An Lộc. Quân lực VNCH phòng thủ Bình Long khá yếu.

Ngày 5/4/1972, chiến dịch Nguyễn Huệ mở màn. Ngày 7/4/1972, Quân giải phóng đã làm chủ hoàn toàn quận Lộc Ninh, thọc sâu đánh sang quận Chơn Thành và bao vây chặt thị xã An Lộc (tức thị xã Bình Long).

Được tăng cường thêm Trung đoàn 8 bộ binh, quân lực VNCH cố thủ Bình Long tăng vọt lên con số 6.000, gồm Liên đoàn 3 biệt động quân, 3 trung đoàn bộ binh 8, 7 và 52, tất cả dưới quyền điều động của chuẩn tướng Lê Văn Hưng, Tư lệnh mặt trận An Lộc – Bình Long. Các đơn vị chủ lực này chia nhau cố thủ 2 quận còn lại.

Riêng binh bị phòng thủ mặt Nam của tiểu khu Bình Long, chỉ rộng không đầy 3km2 được giao cho Tiểu khu phó (Tỉnh phó), trung tá Nguyễn Thống Thành chỉ huy. Đó cũng chính là hướng tấn công của Trung đoàn 201A do Chính ủy Nguyễn Văn Có phụ trách.

Lịch sử oái oăm: Thiếu tá Nguyễn Văn Có bên tấn công và Trung tá Nguyễn Thống Thành bên phòng thủ, cách đó không lâu lại là một cặp bạn bè thân thiết!

Trước khi bị cơn lốc chiến tranh ném vào những cuộc hành quân liên miên, cuối tuần nào trung tá Thành cũng phóng xe hơi về Sài Gòn ăn chơi, chủ yếu vùi đầu vào những canh bạc rã rời thâu đêm suốt sáng.

Gần cuối năm 1971, trong một lần thua cháy túi, Thành đã phải hỏi mượn của Thiếu tá Nguyễn Văn Có 1 triệu đồng để gỡ gạc. Đó là một khoản tiền khá lớn, bởi lương lính thời đó chỉ khoảng 6.000 đồng/tháng. Chưa kịp trả nợ, hai người đã ở hai đầu chiến tuyến.

Sau này, trong lời tựa của cuốn “Chiến sử trận Bình Long” ấn hành tháng 9/1973, Đại tướng Cao Văn Viên có lên dây cót cho binh sĩ và gỡ thể diện bằng những lời có cánh, rằng: “…Trận tử thủ An Lộc đã vang dội khắp nơi. Những trận chiến lừng danh thế giới: Verdun, Stalingrad cũng không thể hơn được”.

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng hào phóng ban phát hàng loạt lời khen tặng cùng phần thưởng nóng 3,2 triệu đồng (gấp 3 lần món nợ chưa trả của viên tỉnh phó) cho binh sĩ VNCH tham gia cố thủ. Nhưng thực tế, trận Bình Long, một lần nữa lại thể hiện sự rệu rã, suy yếu không thể cứu vãn của quân đội Sài Gòn.

Sau 3 tháng giao tranh, tuy Quân giải phóng chưa chiếm được toàn bộ tỉnh Bình Long nhưng đã loại khỏi vòng chiến tổng cộng hơn 8.000 địch quân – nhiều hơn cả số quân có mặt tại chiến trường trong cùng một thời điểm. Viên Tư lệnh, Chuẩn tướng Lê Văn Hưng sau đó được xem như "người hùng An Lộc" vì đã có công chỉ huy đội quân tử thủ mặt trận này. (Ngày 30/4/1975, khi đang là Phó Tư lệnh Quân đoàn 4, tướng Hưng đã tự sát tại Cần Thơ).


Liên đoàn 81 biệt động quân tập trung tại sân bay Lai Khê chờ trực thăng vận lên ứng cứu An Lộc ngày 16/4/1972.
Tình thế ấy buộc phía VNCH phải liên tục điều quân tăng viện. Hàng loạt lính tráng đào ngũ để trốn chạy cái chết, buộc lòng quân đội phải tăng lương, từ 6.000 lên 9.000 đồng/người/tháng, đi kèm lệnh xử bắn không cần xét xử với tội đào ngũ, nhằm giữ chân binh sĩ.

Chiến tranh là sự tuyệt vọng của người này nhưng cũng là cơ hội của kẻ khác. Nhờ giữ vững – trong tan nát – một phần tử địa An Lộc, ngày 26/8/1972, Trung tá Nguyễn Thống Thành được vinh phong đại tá ngay tại chiến trường, đồng thời được thăng chức Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng Bình Long, thay cho đại tá Tỉnh trưởng Trần Văn Nhật được điều sang làm Sư trưởng Sư đoàn 2 bộ binh.

Trên cương vị mới, Nguyễn Thống Thành càng hò hét chiến đấu, nhất là trong giai đoạn quân đội VNCH tập trung quân tái chiếm An Lộc. Trước tình hình đó, Chính ủy Nguyễn Văn Có đã có một đề xuất táo bạo: cho đặc công bắt cóc Nguyễn Thống Thành – đầu sỏ của địch tại Bình Long, nhằm làm nhụt ý chí của binh sĩ địch.

Giao nhiệm vụ cho một tổ trinh sát đặc công thiện chiến, vị chính ủy dặn đi dặn lại: “Chỉ được bắt sống. Không bắt được thì hủy nhiệm vụ, tuyệt đối không được giết. Ông ấy là bạn tôi”.

Trước sự phòng thủ dày đặc ở Tiểu khu Bình Long, ý đồ bắt Nguyễn Thống Thành đã không thể thực hiện được. Thay vào đó, tổ trinh sát đã đưa được vào tận phòng ở của viên tỉnh trưởng tại sở chỉ huy tiền phương một bức thư do ông Sáu Đột tự tay chấp bút. Trong thư, vị chính ủy cảnh báo viên tỉnh trưởng: sự thất bại và sụp đổ của chế độ Sài Gòn là không thể tránh khỏi, chỉ còn tính từng ngày. Ông khuyên viên đại tá nên triệt thoái quân lực để đỡ tốn xương máu của binh sĩ.

Cách gửi thư cũng là một lời cảnh cáo: nếu Cách mạng có thể đặt được bức thư vào tận sở chỉ huy thì việc lấy mạng của viên tỉnh trưởng chắc chắn không phải là quá khó. Nhưng chuyện đó không xảy ra, bởi đó là chủ ý của người bạn cũ - cựu thiếu tá VNCH Nguyễn Văn Có!

Vào thời điểm đó, cả tỉnh Bình Long vị trí nào cũng là tiền đồn, khu vực nào cũng là chiến trường. Mọi sự tiếp vận đều được thực hiện duy nhất bằng đường hàng không, máy bay C130 thả hàng bằng dù từ độ cao 5.000-6.000m. Cách mặt đất khoảng 400m, dù bọc gió mới mở, thùng hàng giảm vận tốc, từ từ đáp xuống đất.

Viết cho báo Sóng Thần, được in lại trong cuốn “Chiến sử trận Bình Long”, Đại tá Biệt cách dù Phan Văn Huấn đã cay đắng: “Với loại dù này có nhược điểm là những cái bọc gió quá sớm bị đưa ra ngoài vùng Việt Cộng hết. Có những cái bọc gió chậm, hàng xuống bị vỡ tan tành không dùng được. Nhưng với loại dù này ta cũng thâu được đồ tiếp tế khoảng 50%. Cái đau nhất là địch (Quân giải phóng – NV) sử dụng 50% tiếp tế của ta để tiếp tục công hãm ta” (Đd - tr.136).

Câu trả lời bạn cũ được Nguyễn Thống Thành gửi đến gần như ngay tức thì nhưng bằng trực thăng. Cách này nguy hiểm bội phần nhưng chắc chắn sẽ không thất lạc địa chỉ.

Áp Tết Nguyên đán năm 1973, các chiến sĩ Tiểu đoàn 11, Tỉnh đội Bình Long đang đóng trú ở khu vực Lộ Cát Trắng – Ngã tư cua chữ Z, xã Minh Đức, gần thị trấn Hớn Quản thì bắt được một thùng hàng thả từ trực thăng xuống.

Ban đầu, anh em tưởng là dù lạc, định khui ra. Nhưng thùng hàng ghi rõ: “Đại tá Tiểu khu trưởng Nguyễn Thống Thành kính gửi ông Sáu Đột, Chính ủy Trung đoàn 201”.

Ông Năm Sao, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 11 biết ngay là không nhầm nên ra lệnh chuyển ngay sang Trung đoàn 201A. Nhận thùng hàng này là Thiếu úy Nguyễn Mạnh Hồng, trợ lý tác chiến Trung đoàn 201A, hàm đại đội quân sự bậc phó, chỉ huy đơn vị trinh sát. (Sau này, ông Nguyễn Mạnh Hồng là Thượng tá, cán bộ Phòng Công tác chính trị (PX15) Công an TP HCM, đã nghỉ hưu năm 2007).

Khui thùng hàng, tổ trinh sát thấy trong đó có mấy thùng thịt hộp, một ít hoa quả khô, một thùng rượu whisky, 10 cây thuốc lá Ruby… và một số xa xỉ phẩm khác, kèm một phong thư gửi ông Sáu Đột. Chuyển thư cho thủ trưởng xong, sợ địch chơi trò láo, bỏ thuốc độc trong quà, anh em khui một hộp thịt, định cho chó ăn thử.

Đúng lúc đó, ông Sáu Đột xuất hiện, tay cầm phong thư của viên tỉnh trưởng. Ông khoát tay: “Không cần thử. Ông ấy không cùng chiến tuyến, nhưng không phải là hạng tiểu nhân”. Sau đó, ông đưa thư cho trợ lý Nguyễn Mạnh Hồng đọc.

Thư viết:

Kính gửi ông Nguyễn Văn Có (Sáu Đột),

Chính ủy Trung đoàn 201

Nhân dịp Tết đến, Xuân về, tôi, đại tá Nguyễn Thống Thành, Tỉnh trưởng, Tiểu khu trưởng Bình Long, quân lực Việt Nam Cộng hòa xin có mấy lời gửi thăm sức khỏe ông.

Thưa ông, tôi với ông bây giờ hai người đã hai đầu chiến tuyến, gặp nhau chắc chỉ trên chiến địa, trò chuyện cùng nhau chắc chỉ bằng súng đạn. Dù sao, chúng ta cũng đã từng bạn bè thân thiết nhiều năm. Tôi vẫn luôn nhớ còn thiếu nợ ông 1.000.000 đồng chưa trả. Xin hứa danh dự, tôi sẽ gửi lại và cảm ơn đầy đủ bất kỳ khi nào có dịp.

Xin gửi ông một ít quà vui Tết.

Chúc ông sức khỏe và hẹn ông trên chiến địa.

Bạn cũ

Nguyễn Thống Thành”.

Nghe đọc lại thư, ông Sáu Đột phì cười: “Thằng cha tỉnh trưởng này sợ rồi, nhưng khôn. Ổng sợ tôi cho anh em vào hạ sát, nên viết thư gợi tình xưa nghĩa cũ để mình đừng ra tay đó mà. Ruby cứ hút, thịt hộp, rượu mạnh anh em cứ dùng. Lính tráng bên này bên kia nhưng bạn bè cứ là bạn bè, mình ghi nhận”.


Nguyễn Văn Thiệu thị sát An Lộc.
Hiệp định Paris ký kết tháng 1/1973, chiến sự Bình Long dịu xuống. Quận Lộc Ninh, tỉnh Bình Long trở thành vùng đất hai bên chọn để trao trả tù binh. Tuy nhiên, ở thế da báo, chiến sự vẫn chưa dứt hẳn. Hai người bạn cũ ở hai phía tiếng súng vẫn không có cơ hội gặp nhau bình thường.

Cuối năm 1974, chiến sự bùng phát dữ dội trở lại. Tháng 11/1974, ta mở chiến dịch Đường 14, chia cắt và vây hãm tỉnh Phước Long. Tháng 12 /1974, thị xã Đồng Xoài và một loạt tiền đồn quan trọng, trong đó có Chi khu Bà Rá, Chi khu Bù Na, tỉnh Phước Long thất thủ.

Đột nhiên, Đại tá Nguyễn Thống Thành lại được thuyên chuyển sang làm Tỉnh trưởng tỉnh Phước Long thay chân đại tá Lưu Yểm. Rõ ràng, ông ta không phải là kẻ nhát gan, sợ bị tiêu diệt mà xin thuyên chuyển, bởi đến thời điểm đó, mặt trận Phước Long thậm chí còn khốc liệt hơn cả mặt trận Bình Long. Chỉ có một cách giải thích hợp lý cho sự thay đổi vị trí đột ngột: Đại tá Nguyễn Thống Thành không muốn tiếp tục đối đầu một mất một còn với người bạn cũ, người ân nhân, chủ món nợ ân tình mà ông ta là còn chưa kịp trả.

Lại oái oăm thêm lần nữa, ngay khi chiến dịch Đường 14 nổ ra, lệnh của Bộ chỉ huy tiền phương lại điều Trung đoàn 201 sang chiến trường Phước Long, phối hợp với các lực lượng quân sự địa phương mở chiến dịch giải phóng tỉnh Phước Long. Mục đích là mở cánh cửa từ Tây Nguyên theo Đường 14 tiến về giải phóng Sài Gòn. Thế đối đầu của hai người bạn cũ, số phận không cho tránh.

Mờ sáng 4/1/1975, ta nổ súng. Đích thân Đại tá Nguyễn Thống Thành đã thượng cờ ba sọc lên dinh Tỉnh trưởng và lên Đài phát thanh tỉnh kêu gọi binh sĩ tử thủ, sau đó… tìm đường tháo. Trưa 5/1, đang trượt từ bờ dốc đứng xuống sông Bé, định tẩu thoát bằng đường sông, những kẻ âm mưu đào tẩu đã đụng ngay một đơn vị trinh sát của Trung đoàn 201. Giao tranh dữ dội nổ ra. Bờ sông dốc đứng chặn mất đường thoát, cả viên đại tá tỉnh trưởng cùng những kẻ thân cận đều chết trong trận chiến.

Chỉ một ngày sau, ngày 6/1/1975, toàn tỉnh Phước Long giải phóng, mở đầu cho những chiến thắng giòn giã mùa xuân 1975, thống nhất đất nước.

Lịch sử vì quá bận bịu với những mưu mô nên thường quên mất tiểu tiết. Sau 40 năm, câu chuyện về hai người bạn cũ ở hai đầu chiến tuyến vẫn không được bất kỳ một sách vở, một bài báo nào ghi lại. Nhưng, nó vẫn đọng lại như một nốt lặng không thể quên của chiến tranh trong tâm trí một số người, những người từng khoác áo lính của cả hai phía.

TP Hồ Chí Minh, 40 năm sau, ngày 5/1/2015

Nguyễn Hồng Lam
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
23,309
Động cơ
697,036 Mã lực
Dài quá sẽ khó đọc cụ ạ. Đọc tin online nó khác đọc sách hay báo.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
23,309
Động cơ
697,036 Mã lực
Đường 7 (nay là quốc lộ 25), nơi đã diễn ra nhiều cuộc ly tán nhất vào những ngày cuối chiến tranh năm 1975. Nhưng sau cuộc chiến, sau mất mát chia lìa là những cuộc đoàn viên kỳ lạ: những người Việt đã chủ động vượt qua cách ngăn của hai bờ chiến tuyến để ngồi lại với nhau trong sự cưu mang thấm đẫm nghĩa tình...

Đại tá Đinh Hữu Tấn, nguyên phó chính trị sư đoàn anh hùng 320A. Ông muốn nhờ tìm giúp đứa con nuôi tên Phước mà ông đã nhận trên đường truy kích đối phương vào ngày 23-3-1975.

Đến ngày 8-3-1975, chiến dịch Tây nguyên lần thứ hai mở màn. Ông Tấn đang là chủ nhiệm chính trị trung đoàn 48 (E48) chủ công của sư 320A, đánh chặn quân đoàn 2 Việt Nam cộng hòa tại Chư Sê, đoạn tỉnh lộ 7 cắt ra quốc lộ 14, rồi tiến tới đánh Cẩm Ga, Thuần Mẫn. Ngày 14, tổng thống Việt Nam cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh triệt thoái cao nguyên.

Được tin toàn bộ binh lực còn lại của quân đoàn 2 địch rút chạy theo đường 7, E48 nhận lệnh vượt núi cao đá tai mèo, cắt đường chặn dòng rút chạy tại Phú Túc, đánh thẳng vào Cheo Reo (tức Phú Bổn), chặn đường co cụm về miền duyên hải.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
23,309
Động cơ
697,036 Mã lực
Ông Tấn chọn căn nhà của một trung tá Việt Nam cộng hòa bỏ trống, có cả sân đỗ trực thăng dã chiến trên nóc nhà để đặt sở chỉ huy.

Lúc đó trời đã tối. Bỗng thấy một người còn mặc nguyên bộ đồ lính cộng hòa, tay kéo một phụ nữ chạy tắt qua sân, cúi lạy: “Trăm lạy các ông sĩ quan giải phóng! Vợ tôi sắp sanh. Nhờ các ông cứu vợ con tôi!”.

Ông Tấn bất ngờ kêu: “Trời ơi, chúng tôi đực rựa cả, biết làm thế nào?”. Ông chợt nhớ đoàn cán bộ địa phương của Ama Thương, nguyên khu ủy viên Kon Tum - Gia Lai - ở bên, cùng tiếp quản thị xã có một đội dân y, trong đó có cô Lan người Bắc Ninh, đi B năm 1965.

Ông nghĩ ngay sẽ mượn cô để đỡ đẻ cho người phụ nữ. Được Ama Thương đồng ý, ông Tấn về gọi tập hợp mấy anh em trinh sát quân ta đang đà truy kích, giải hàng binh, về nhận lệnh của chủ nhiệm chính trị trung đoàn. “Các cậu chuẩn bị đi đỡ đẻ!”.

“Thủ trưởng đùa. Chúng em còn chưa có người yêu!”. Nhưng khi nói rõ cần đi bảo vệ cho đồng chí Lan đỡ đẻ, anh em đồng ý liền.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
23,309
Động cơ
697,036 Mã lực
Sáng sớm 21-3, người lính cộng hòa quay lại tìm ông Tấn. Ông cho biết tên là Nguyễn Hiếu Nghĩa (hay Hữu Nghĩa - ông Tấn không nhớ rõ), quê gốc ở Hưng Yên, cha mẹ di cư vào Nam năm 1954, mới đi lính quân dịch, làm lái xe. Ông cảm ơn và xin phép đặt tên con là Nguyễn Giải Phóng.

Ông Tấn biên vội mấy dòng vào một tờ giấy đưa cho anh Nghĩa để sau này tiện làm giấy khai sinh cho cháu bé. “Tôi, Đinh Hữu Tấn, chính ủy trung đoàn 48 quân giải phóng, chứng nhận anh Nguyễn Hiếu Nghĩa và vợ là..., sinh con trai ngày 21-3-1975 tại thị xã Cheo Reo, đặt tên là Nguyễn Giải Phóng”.

Tiếp quản Cheo Reo tròn ba hôm, trung đoàn 48 nhận lệnh tiếp tục hành quân theo đường 7 tham gia giải phóng Củng Sơn. Lúc này đã có nhiều xe chiến lợi phẩm, ông Tấn đề nghị: “Chúng tôi cần lái xe đi chiến dịch, anh có sẵn sàng không?”. Ông Nghĩa đồng ý ngay.

Chiến dịch gấp gáp, ông Nghĩa mặc nguyên quần áo lính cộng hòa, lái chiếc xe Jeep lùn chở ông Tấn và người cần vụ Nguyễn Văn Niên (sau này là tiến sĩ luật, nguyên chủ tịch HĐQT Trung tâm thương mại Sông Hồng ở Matxcơva) chạy xuôi xuống Củng Sơn.

Giải phóng Củng Sơn xong, ngày tiến vào Tuy Hòa, 1-4-1975, là ngày ông Tấn chia tay người lái xe đặc biệt lần đầu tiên làm cha đó.

Ông Nghĩa quay lại Cheo Reo...
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
23,309
Động cơ
697,036 Mã lực
Ngay sau khi quân ta làm chủ Cheo Reo, ông Tấn đang điều khiển giao ban chính trị với các chính trị viên tiểu đoàn thì nghe báo cáo: hiện có rất nhiều trẻ em bị lạc cha mẹ. Đang mùa khô nắng rát, nước uống hiếm hoi một chỉ vàng đổi được một biđông.

Tình huống trẻ lạc không lường trước nhưng không khẩn trương thì khó mà cứu lũ trẻ.

Ông Tấn ra lệnh lập tức đi tập trung trẻ lạc dọc đường và trong rừng núi, đưa các em ra mặt đường để trung đoàn cử xe cơ giới (GMC chiến lợi phẩm) đi đón. Đến chiều tối hai xe GMC đầy những đứa trẻ lạc được đưa về thị xã Cheo Reo giao cho Ama Thương, người từ hôm sau thay ông Tấn là trưởng ban quân quản.

Bác sĩ Ama Thương hiện nghỉ hưu tại Buôn Ma Thuột. Ông Ama Thương cho biết khi đó ông cho một trung đội du kích đưa cơm đưa gạo đi dọc đường 7, thấy tiếng khóc ở đâu là vạch rừng vào cho ăn đưa về. Khoảng 20 em đầu tiên cho đồng bào dân tộc làm con nuôi.

Sau về một lúc hai xe, cán bộ phân ra: lớn thì cho về quê, nhỏ thì nhờ đồng bào nuôi. Đến năm 1976-1977 cha mẹ các em đi tìm, nhận về hầu hết
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
23,309
Động cơ
697,036 Mã lực
Nhưng, chuyện một chiếc xe chỉ huy mà chở một đứa bé, chuyện một vị chính ủy mà nuôi con của “phía bên kia” thì không đơn giản như thế. Đứa trẻ trên xe hôm đó là Võ Văn Phước, người con nuôi mà đại tá Đinh Hữu Tấn nhờ đi tìm.

Chuyện nhận con nuôi là con của một sĩ quan chế độ cũ đã khiến vị chủ nhiệm chính trị trung đoàn bị khiển trách. Trải qua tiếp nhiều trận chiến khác rồi mới trở về quê nhà, ông đặt tên đứa cháu ngoại mình là Nguyễn Tường Phước.

Ấy là bởi trong lòng ông day dứt một lời hứa với đứa con tên Phước trên “đường 7” ngày xưa...
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
23,309
Động cơ
697,036 Mã lực
Trong số những đứa trẻ được đồng đội ông đưa về Cheo Reo chiều hôm đó có một cậu bé khôi ngô, một tay cầm hai phong lương khô của bộ đội cho, tay kia cầm túi nilông đựng 300 đồng bạc chế độ cũ.

Chú bé rất lễ phép, xưng con, bảo tên là Phước, cha là sĩ quan quân đội Sài Gòn vừa chết do đạn pháo, còn mẹ chết do xe lấn...

Sáng hôm sau, trung đoàn nhận lệnh hành quân truy kích tiếp. Thấy cậu bé trốn trong bụi cây, bộ đội đi là chen vào hàng leo lên xe. Ông Tấn thấy vậy bảo: “Thôi đưa nó lên ôtô đi với tôi. Lỡ đánh nhau mà con nít trên xe lính thế thì biết ra sao”. Phước theo ngay lên chiếc xe jeep là nói không ngừng. “Lương khô con ăn rồi. Túi tiền con ném xuống suối vì bộ đội bảo giải phóng rồi không cần tiền”.

Theo chân “ba Tấn”, Phước cũng kinh qua giải phóng Củng Sơn, đánh vào Tuy Hòa. Phước đã biết đọc biết viết, ông Tấn nhờ cần vụ Nguyễn Văn Niên chăm sóc và dạy học ở tuyến sau khi ông bận truy kích.

Đêm nằm ngủ hai cha con ôm nhau Phước hay hỏi: “Con ra Bắc, chị Yến có đánh con không, mẹ Nhuần có thương con không?”.
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top