Chaú đọc 1 lèo thớt này của cụ 3 Gái, mỗi chuyến đi là 1 trải nghiệm, mỗi hành trình mang lại những cảm xúc khác nhau, nhưng bài nào về TS cũng làm cháu nao nòng, đọc những dòng Blog hay comment của cụ mà mắt cháu cứ nhòe hết đi.
Chưa 1 lần đặt chân lên miền đất ấy, nhưng được trải nghiệm qua từng góc ảnh, từng dòng văn của cụ. Cháu thực sự chỉ muốn cảm ơn cụ đã cho cháu hiểu hơn về những giá trị thiêng liêng, sự chia sẻ, đồng cảm, những khó khăn vất vả mà chiến sĩ Hải Quân đang từng ngày, từng giờ đối mặt.
Cháu chúc cụ chân cứng đá mềm, chúc các anh chắc tay súng bảo vệ biên cương hải đảo của đất nước Việt Nam thân yêu.
He! He! Nao lòng chứ không phải "nao nòng" bác ui!.
Tiếp câu chuyện Trường Sa, vẫn post lại từ Blog nhà cháu:
http://maithanhhaiddk.blogspot.com/2012/04/cong-chua-yeu-kieu-tren-bien-truong-sa.html
CÔNG CHÚA YÊU KIỀU TRÊN BIỂN TRƯỜNG SA
Mai Thanh Hải - Đó là nhà giàn Huyền Trân (DK1/7), nằm trên vùng biển Trường Sa, cách TP. Vũng Tàu gần 254 hải lý về phía Đông Nam.
Thượng tá Lê Đình Việt, Phó Chính ủy Lữ đaàn 171, Vùng II Hải quân bảo: Dịp biển lặng như... ao, nhà giàn soi bóng xuống nước, lung linh như 1 nàng công chúa. Chả thế mà nhà giàn mang tên Huyền Trân, con gái vua Trần Nhân Tông, từ thủa giữ nước bộn bề, tít tắp quá khứ xa xưa.
Anh Việt gắn bó với nhà giàn từ khi những cái nhà cao cẳng, mọc lêu nghêu trên thềm lục địa phía Nam Tổ quốc, nên tỷ thứ chuyện liên quan, đều thuộc làu làu hơn cháo. Thế nên, câu chuyện của tụi mình, trong cả tháng hành quân từ bờ biển, từ đảo đến đảo, từ đảo qua nhà giàn, quanh đi quẩn lại vẫn chỉ là DK1.
Lẩn mẩn tính ra, trên toàn thế giới, chả có lực lượng Hải quân nào giống như Hải quân Việt Nam, mà trực tiếp là Lữ đoàn 171, bởi Lữ này, ngoài tàu bè, súng pháo, còn có 1 Tiểu đoàn rất đặc biệt, mang tên Tiểu đoàn DK1, chuyên làm nhiệm vụ canh trời giữ biển Tổ quốc trên những nhà giàn giống y tổ chim, cắm cheo leo trên mặt biển.
Diễn giải ra, thì vắn tắt thế này: DK1 là Cụm Dịch vụ kinh tế-khoa học-kỹ thuật, được xây dựng dưới dạng các nhà giàn, trên thềm lục địa phía Nam của Tổ quốc, cách đất liền khoảng 250-350 hải lý.
Trên khu vực Biển Đông, chúng ta đã xây dựng cụm 7 khu vực xây dựng nhà giàn, mỗi nhà giàn là một Trạm Dịch vụ Kinh tế-Khoa học kỹ thuật (DVKT-KHKT), giao cho Lữ đoàn 171 thuộc Vùng 2 Hải quân quản lý.
DK là chữ cái đầu viết tắt của cụm từ Dịch vụ-Khoa học kỹ thuật, được hiểu như một công trình phục vụ mục đích dân sự trên biển.
Số 1 chỉ những nhà giàn ở vòng ngoài cùng, xa nhất, so với phía gần đất liền hơn là hệ thống DK2.
Sau cuộc đụng độ 14/3/1988, Trung Quốc bất ngờ nổ súng chiếm đảo Gạc Ma và bắn chết 64 cán bộ chiến sĩ Hải quân Việt Nam đang làm nhiệm vụ xây dựng, canh giữ đảo, một số tàu chiến, tàu thăm dò của Trung Quốc được đà, xuất hiện sâu trong thềm lục địa phía Nam Việt Nam, nơi có tiềm năng lớn về dầu khí và có ý nghĩa chiến lược về an ninh, quốc phòng.
Trước tình hình đó, ngày 17/10/1988, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh ký văn bản 19/NQ-TƯ về việc bảo vệ khu vực bãi ngầm trong thềm lục địa phía Nam (gọi tắt là khu DK1).
Cùng thời gian này, Tư lệnh hải quân Giáp Văn Cương cũng đã khẩn cấp giao cho Lữ đoàn 171 nhiệm vụ trấn giữ, bảo vệ chủ quyền thềm lục địa phía Đông Nam.
Với những trang thiết bị đo độ sâu, biên đội tàu HQ-713 và HQ-668 do Trung tá Lữ đoàn trưởng Phạm Xuân Hoa chỉ huy đã ra khơi khảo sát, đo đạc trên vùng biển rộng 60.000km2, tìm ra các điểm cạn và định vị các bãi đá ngầm san hô Ba Kè, Phúc Tần, Phúc Nguyên, Quế Đường, Tư Chính và Huyền Trân.
Chính từ những dữ liệu đó, hệ thống nhà giàn DK1 được xây dựng
Từ ngày 10 đến 15/6/1989, Bộ Giao thông - Vận tải phối hợp với Bộ Tư lệnh Công binh tiến hành xây dựng xong nhà giàn đầu tiên tại bãi đá ngầm Phúc Tần (tên địa danh hành chính là Trạm KT-KHDV Phúc Tần). Đây là nhà giàn được khảo sát ở vị trí số 3 nên còn được gọi là nhà giàn DK1/3 và là nhà giàn đầu tiên được xây dựng hoàn chỉnh.
Ngay sau khi nhà giàn được xây dựng xong, một phân đội thuộc Lữ đoàn 171 Hải quân do Đại úy Nguyễn Văn Nam chỉ huy lần đầu tiên ra bám trụ nhà giàn.
Sau đó, ngày 16/6/1989, nhà giàn DK1/4 cũng hoàn thành.
Từ ngày 27/6/1989, Tổng cục Dầu khí phối hợp với Bộ Tư lệnh Công binh cũng hoàn thành nhà giàn DK1/1.
Ngày 5/7/1989, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra chỉ thị số 180U/T về việc xây dựng Cụm DVKT-KHKT thuộc Đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo, xác định lại chủ quyền Việt Nam đối với khu vực thềm lục địa này.
Ngày 2/11/1989, Trạm DVKT-KHKT Tư Chính B (hay Tư Chính 2, hay Nhà giàn DK1/5) được thành lập, trở thành nhà giàn DK1 thứ 4.
Ngày 10/11/1990, Trạm DVKT-KHKT Phúc Nguyên (hay Nhà giàn DK1/6) được xây dựng xong, trở thành nhà giàn DK1 thứ 5.
Giai đoạn đầu các nhà giàn tương đối thô sơ, kết cấu dạng pông-tông (một dạng phao lớn hình khối hộp làm bằng kim loại) đặt trên nền san hô, dễ bị dịch chuyển bập bềnh trong nước khi có sóng lớn cấp 4 hoặc dòng nước chảy mạnh.
Tháng 12/1990, một cơn bão lớn với gió giật cấp 12 đã giật sập nhà giàn DK1/3 làm 3 CBCS hy sinh (Chỉ huy phó Chính trị Trần Hữu Quảng, Trung sĩ cơ điện Hồ Văn Hiền và Trung úy Quân y Trần Văn Là). Các nhà giàn DK1/4, DK1/6 cũng bị bão giật sập nhưng không thiệt hại về người.
Không quản ngại khó khăn, chúng ta tiếp tục xây dựng thêm các nhà giàn để khẳng định chủ quyền trước sự gia tăng ảnh hưởng của Trung Quốc trên vùng Biển Đông. Các nhà giàn liên tục được xây dựng.
Những nhà giàn về sau được xây dựng trên 4 cọc thép chắc chắn cắm sâu xuống đáy biển, phía trên là tổ hợp sinh hoạt, công tác có diện tích sàn khoảng 100m2.
Ngày 12/12/1998, cơn bão Faith có sức gió giật trên cấp 12 quét qua vùng Biển Đông. Sáng ngày 13/12, nhà giàn Phúc Nguyên 2A bị sóng cuốn trôi, đánh sập, 9 người bị rơi xuống biển, trong đó có 3 CBCS Tiểu đoàn DK1 (Nguyễn Văn An, Lê Đức Hồng, Vũ Quang Chương) hy sinh.
Sau tai nạn của nhà giàn Phúc Nguyên 2A, Quân chủng Hải quân chấm dứt sử dụng các nhà giàn được xây dựng trên nền thiết kế cũ.
Ngày 28/8/2009, Vùng 2 Hải quân mới được thành lập, nhiệm vụ chính là quản lý, bảo vệ chủ quyền vùng biển từ Bình Thuận đến Bạc Liêu, trong đó có khu vực trọng điểm là khu DK1.
Như những cột mốc đánh dấu chủ quyền lãnh hải của Việt Nam tại vùng thềm lục địa , các nhà giàn được những người lính Hải quân canh giữ trong điều kiện cực kỳ thiếu thốn, không có điện, thiếu nước ngọt, khả năng liên lạc hạn chế.
Đầu năm 2009, Báo Tuổi Trẻ TP. Hồ Chí Minh phát động chương trình “Chung tay thắp sáng nhà giàn DK1”, vận động quyên góp tài chính để lắp đặt pin mặt trời và hệ thống điện gió trên toàn bộ các nhà giàn.
Ngày 22/8/2009, các nhà giàn DK1/21 và DK1/12 đã có điện mặt trời. Các nhà giàn khác cũng lần lượt được lắp đặt, đến ngày 1/1/2011, DK1/10 là nhà giàn cuối cùng cũng có điện.
Cùng thời gian này, Tập đoàn Viễn thông Quân đội cũng thực hiện việc cải tiến và tăng công suất nâng khả năng phát sóng của trạm BTS ở khu vực biển đảo đi xa 100 km, giúp 9/15 nhà giàn có thể liên lạc bằng điện thoại di động thông thường.
Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam cũng dùng cách nâng công suất trạm BTS cùng với việc lắp đặt các trạm thu sóng từ vệ tinh Vinasat-1, trạm tiếp sóng, giúp mở rộng cả khả năng kết nối Internet từ các nhà giàn.
Khu vực nhà giàn DK1 gồm 7 cụm Phúc Nguyên, Phúc Tần, Huyền Trân, Quế Đường, Tư Chính, Ba Kè và Cà Mau với cả thảy 20 nhà giàn, từng được xây dựng trên thềm lục địa.
Chiều sâu mực nước bãi cạn thấp nhấp là 7m tại DK1/3 và sâu nhất là 25m tại DK1/15. Các nhà giàn được xây dựng từ năm 1989 đến 1998.
Hiện tổng cộng có cả thảy 15 nhà giàn đang sử dụng, trong đó có 8 nhà giàn có bãi đỗ trực thăng trên nóc, 4 nhà giàn có hải đăng, 1 nhà giàn có trạm quan sát khí tượng. Có 14 nhà giàn ở khu vực giáp với vùng biển Trường Sa và một nhà giàn (DK1/10) ở bãi cạn Cà Mau trên vùng biển Tây Nam...
Kế hoạch của tụi mình, ngay từ khi ở Cam Ranh là chặng dừng chân làm việc tại nhà giàn trên bãi cạn Huyền Trân.
Cụm nhà giàn Huyền Trân được thành lập chính thức từ 11/11/1991, xây dựng trên bãi cạn Huyền Trân (Alexandra Bank) thuộc vùng biển Trường Sa với nhà giàn DK1/7,có ngọn hải đăng và Trạm quan sát khí tượng Huyền Trân
Cơ động từ Trường Sa Lớn đến Huyền Trân, tàu lùi lũi chạy trong đêm đen kịt.
Buổi chiều, biển lặng và đẹp là thế, nhưng đêm buông xuống, biển trở mặt đánh sóng ào ào như ngăn không cho qua nhà giàn.
Càng về khuya, sóng càng mạnh, lên đến cấp 5 khiến tàu nhô lên hụp xuống trên mặt nước sóng trắng lân tinh.
Ca ăn đêm, đã dọn sẵn ngoài boong dưới, cũng phải bê hết vào trong phòng, cho bộ đội lấy dây chằng buộc bàn ghế, xoong chảo nồi niêu.
Buổi chiều ăn cơm xong, mình cắm Headphone nghe Quang Dũng và đút túi quần sóoc mấy lon 333, lững thững ra mũi tàu, vắt vẻo như... Titanic, hút thuốc, uống bia và ngắm biển. Cứ miên man vậy, đến lúc ngất ngây con gà Tây mới phi về phòng, lấy võng ra boong dưới, trùm chăn nghe nhạc thiếp đi...
Gần sáng, chợt tỉnh dậy khi thấy... ướt ướt dưới mông. Tỉnh hẳn: "Ơ! Bằng tuổi này còn tè dầm á?". Sụp phát, tàu khụy xuống, sóng ào phát lên mặt, mới té ngửa: "Biển động!" và tỉnh hẳn khi chú Biên khoác AK, tùm hum trong bộ rằn ri lay đầu: "Biển động, tàu neo, đề nghị các Thủ trưởng vào phòng kẻo sóng tràn ướt hết người!". Lắc đầu sang trái, vầng sáng lung linh huyền ảo trong biển, trên ngất ngây đầu sóng, tỉnh hẳn: "Đã tới nhà giàn Huyền Trân". Thế là tỉnh ngủ luôn, ngồi nghĩ chuyện nhà giàn...
Mình đã mấy lần lên nhà giàn, bởi mỗi chuyến đi, ít nhất cũng có 1 chặng dừng ở 1-2 nhà giàn.
Thế nhưng, có lên nhà giàn, mới thấm thía cái ranh giới mong manh giữa sự sống và cái chết, để phục lăn những đồng đội, mang thân mình đặt lên cái nhà cũ kỹ, trên những cột thép yếu ớt để canh giữ biển trời, như những cột mốc sống, không cho lũ Tàu khựa cải trang trong tàu cá vào thăm dò, thục mũi khoan hút máu biển.
Quay lại câu chuyện của Thượng tá Lê Đình Việt, cứ thấm thía lời trầm trầm, giữa ầm ào sóng biển: "Ở đảo, hy sinh còn giữ được xác. Lính nhà giàn, hy sinh là mất xác trong lòng biển!"
Ra thăm nhà giàn dịp sóng yên biển lặng, khối khách đất liền xuýt xoa: "Đẹp quá! Trong lành quá! Sướng quá!" khiến lính ta cứ quay mặt đi, cười cũng không nổi: Chả sướng đâu. Mỗi năm chỉ có 3-4 tháng biển lặng cho các Đoàn ra thăm và nhìn nhà giàn dưới con mắt "ăn chơi ngủ nghỉ", còn lại chỉ mấy anh em co ro với nhau trên cái chuồng chim bện bẳng sắt thép, sóng to gió lớn là nghiêng ngả. Những lúc ấy, hết thảy lính tráng phải mặc áo phao , đút tài liệu - vũ khí khí tài quan trọng vào túi bảo quản, chờ lệnh nhảy xuống biển, kéo lên tàu trực theo kiểu... "bỏ của chạy lấy người". Hết bão gió, người lại lướt thướt quay ra, với "của".
Cứ lẩn mẩn, trời sáng lúc nào chả biết. Chỉ thấy phía Đông, ửng lên quầng sáng như cà chua chín, thêm chút nữa, quả cà chua chín được nhúng nước ướt rượt thèn thẹn nhô lên, khiến lũ sóng lâu nhâu bu đến, trên đầu đứa sóng nào cũng nhấp nháy những đốm nắng xinh xinh.
Loa phóng thanh trên tàu lại: "Toàn tàu báo thức! Báo thức toàn tàu!", khiến tất cả bừng tỉnh, xô hết sang mạn vẫy tay chào nhà giàn.
Sáng hẳn, kế hoạch lên nhà giàn thay đổi: Sóng to, biển động nên số xuống xuồng chuyển tải chỉ gồm bộ đội, thuộc loại đàn ông đã có kinh nghiệm đi biển, lên nhà giàn...
Buộc chặt túi bảo quản, siết quai mũ, căng quai dép và đợi sóng dềnh lên, nhảy bụp xuống lòng xuồng trước sự thán phục của những người ở lại, đang xanh mặt nhìn sóng cao đến cả mét đập ầm ầm vào thân tàu, xô dúi dụi chiếc cano chuyển tải.
Lại lạch tạch, ngất ngư nhô lên ngụp xuống giữa mênh mông biển. Tiếng bộ đàm léo nhéo trên giàn, chỉ dẫn xuồng cập chân cột thép. Nới dây, cột thừng và đảo ra lắc vào đến cả chục lần, gần 20 con người mới co chân, đạp lên bậc cầu thang rêu bám xanh, theo đà kéo của bộ đội, chính thức đặt chân lên tổ chim Huyền Trân.
Nhà giàn Huyền Trân được đặt ở vị trí có độ sâu từ mặt san hô lên đến mặt nước biển khoảng 12-15m, độ cao từ mặt nước biển lên sân thượng khoảng 15m.
Nhà giàn được thiết kế, chế tạo đáp ứng các hoạt động công tác hằng ngày, thiết kế chống rung lắc khi sóng lớn, bão mạnh trên cấp 12.
Nhà giàn thiết kế như một căn hộ với các phòng khách, ngủ, bếp, các phòng lắp đặt thiết bị nghiệp vụ chuyên môn.
Dưới chỉ có biển và biển, xung quanh đều hợp kim sắt thép, lên xuống bằng các bậc thang thép dốc đứng, nhưng Huyền Trân vẫn có chuồng chăn nuôi ngan, chó, những ô rau xanh mơn mởn với mùng tơi, rau lang, dền, ớt cay…
Khác với các đảo của Lữ đoàn 146, bộ đội trên nhà giàn của Lữ đoàn 171 chủ yếu là QNCN. Cậu Thiếu úy QNCN tên Quang, người Bắc Ninh dẫn mình đi sục sạo khắp 3 tầng của chuồng cu, tủm tỉm: "Báo cáo! Đã hết chỗ đi!".
Xuống tầng... trệt, nhìn lũ cá bâu đen dưới chân cột sắt, mình nổi hứng: "Hay câu tý nhỉ?". Quang lắc đầu: "Bọn cá này, bọn em chả câu làm gì cho... phí công!".
Ối Giời phí!. Té ra ngoài này cá nhiều như vãi trấu. Mỗi bữa ăn, bộ đội thường đổ cơm nguội xuống biển, bọn cá chén cơm thành quen, lấy luôn nhà giàn thành nơi kiếm ăn - sinh sống. Mà thường thì bọn đói khát - gầy ốm mới le ve đợi... ăn sẵn, bộ đội lại chả thích tụi "chế độ chính sách", thi thoảng mới thả dây, câu bọn cá to - béo hú có đến vài chục cân ở mãi tít biển sâu...
Quang kéo mình lên tầng ở, lạch xạch mở cửa bếp, mở vung nồi nhôm to đùng đặt trên bếp dầu: Toàn cá là cá, chặt thành khúc dày khự. "Hôm nào có thời gian, anh ở lại đây 1 đêm, bọn em câu tôm hùm, nấu canh mời anh! Gì chứ tôm cá ngoài đây, có mà đầy!".
Loanh quanh trên sàn thép, thần kinh căng như dây đàn bởi dịp sóng yên biển lặng, là lúc bọn trộm cắp hay lén lút mò vào thềm lục địa, dịp bão gió lại lo chống đỡ giữ thân nhưng lính tráng vẫn hồn nhiên, vô tư và yêu đời lắm lắm.
Sự yêu đời của những người lính, mình bắt gặp trên vỏ hòm đạn 12,7 ly cải tạo thành thùng trồng rau xanh mướt; trên vỏ đạn gò thành chiếc kẻng báo động, trên vỏ bia 333 mài nhẵn thành cốc uống nước; trên mầm xanh của nhánh xương rồng, được cất cẩn thận sau bậc cầu thang vươn lộc xanh đón gió biển; trên cật tre bu gà, buộc chặt vào cột thép kiên trung...
Chia tay, mấy chàng sĩ quan trẻ gãi đầu ấp úng: "Hôm nay sóng to, chị em không lên được. Lát tàu nhổ neo chạy ngang qua, các Thủ trưởng cho phép chúng em ngắm chị em qua... ống nhòm nhé!. Nửa năm rồi, nhà chưa bóng văn công!" khiến tất cả lặng đi, không nói nổi. Bao năm rồi, cái thiếu thốn của bộ đội vẫn vậy và vo tròn thành nỗi nhớ giọng nói, ánh mắt, vòng eo con gái...
Về tàu, kéo neo. Tiếng loa phóng thanh hôm nay nhẹ hẳn: "Đề nghị các đồng chí nữ lên mạn chào nhà giàn!".
Trên cao chuồng chim, lính ta tràn hết ra lan can, cuống quýt chuyền tay nhau ống nhòm, vẫy tay đến hoa mắt, cho những vòng tay của các chị nữ cũng đáp lại hối hả.
Cô bé trong đoàn bỗng cởi chiếc khăn màu hồng, quàng kín cổ ngăn những trận ho, vẫy lên rối rít khi tàu ngang qua nhà giàn, hụ còi nói lời tạm biệt.
Trên cao nhà giàn, những chiếc mũ trắng Hải quân bỗng được chuyền hết lên tay, xếp thành đường thẳng, chao qua chao lại theo nhịp của lời hát: "Đời mình là một khúc quân hành, đời mình là bài ca chiến sĩ" quen thuộc, mà tất cả mọi người trên tàu, cùng cất lên giữa ầm ầm sóng vỗ, ngày biển động bất thường...
Và đến giờ thì mình mới hiểu: Ở cái nhà giàn xa đất liền nhất này, nằm trên vùng nước biến động của quần đảo Trường Sa này, mọi khó khăn vất vả, gian lao, người lính sẽ vượt qua được, bởi phía sau họ là vợ con, người yêu, bạn gái...
Nỗi nhớ ấy không chỉ là dòng thư nối tháng, tiếng điện thoại bập bõm sóng xa mà còn rành mạch trong từng hơi thở nóng, nụ cười quen, giọng nói trong trẻo và ngón tay mềm vẫy gọi, của con gái đất liền khi ghé ngang qua. Có phải vì nhớ thương, dấu yêu dằng dặc vợ con - người yêu đến cháy lòng, khát khao như vậy, nên căn nhà giàn xa xôi, khó khăn nhất trong các nhà giàn này, được đặt tên theo công chúa - Nàng công chúa yêu kiều trên biển Trường Sa?..