Phật Sống Lưu Công Danh
Ông Trung uý này như thế nào mà được vinh hạnh gặp bác Hồ và Chính khách quốc tế như vậy?
.....
...........
................
Một sáng mùa hè năm 1958, chiếc xe com-măng-ca biển đỏ chở hai người sĩ quan dừng trước doanh trại Sư đoàn 338 đi tìm Ông Ba Chà tự gọi Phật sống ! ...
Cuộc tìm kiếm ông Ba Chà, đó là tên dân gian Nam Bộ. Ông này thứ ba người Chà (Ấn Ðộ) nên dân gian kêu là Ba Chà ! một hôm 3 sĩ quan đến Ðại đội 19 công binh, Trung đoàn 3. Một tiểu đội trưởng tình cờ nghe thấy các sĩ quan bàn nhau việc kiếm Phật sống Ba Chà, anh nói :
- Tôi có biết một ông Phật sống nhưng không rõ ổng có phải Ba Chà không ?
Tiểu đội trưởng là Trần Hữu Ðức dẫn họ tới Chợ Chuối xã Thăng Long huyện Nông Cống. Hai Ðức dẫn mấy anh em ra hiện trường thì gặp đại đội trưởng lò gạch là ông già to cao đang gánh đất, chân tay lấm bê bết :
- Ðó, ổng đó !
Khi được hỏi về Phật sống Ba Chà, ông trả lời thủng thẳng :
- Ông nầy tôi có biết nhưng không biết giờ ông ở đâu, để rồi tôi kiếm giùm.
Lát sau ông hỏi lại :
- Nhưng mấy cậu kiếm ổng có chuyện gì ?
Viên trung uý nói :
- Bộ Ngoại giao mời ông ấy về Hà Nội để tiếp khách Ấn Ðộ. Việc này được Bác yêu cầu bên quân đội tìm. Ðại tướng Nguyễn Chí Thanh trực tiếp giao nhiệm vụ cho chúng tôi…
Ông đại đội trưởng già vẫn giọng chậm rãi hỏi :
- Mời ra Hà Nội nhưng có gặp Bác Hồ được không ?
- Nếu ra thì sẽ gặp được.
Ông già nói tiếp, vẫn bằng giọng thủng thẳng :
- Ổng biểu, nếu được gặp Bác Hồ thì ổng ra, nếu không, ổng lội bộ về đó !
Mừng quá, mấy anh phái viên lôi xuống một thùng bia hơi để đãi Phật sống cùng anh em rồi đưa trung uý Lưu Công Danh về Bộ Tư lệnh Sư đoàn.
Chuyện là thế này : Hiệp định Giơnevơ năm 1954 lập Uỷ ban Giám sát và Kiểm soát đình chiến tại Việt Nam do Ấn Ðộ làm chủ tịch, hai thành viên là Ba Lan và Canada. Ấn Ðộ là nước trung lập nhưng lúc đó chưa hiểu ta nhiều nên trong nhiều vụ việc gây cho ta không ít khó khăn. Tranh thủ được Ấn Ðộ không chỉ có lợi lúc này mà còn là chiến lược lâu dài vì vai trò quan trọng của Ấn trong khu vực và thế giới.
Thực hiện nhiệm vụ ngoại giao cấp bách này, Bác Hồ đã mời Tổng thống Ấn Ðộ Praxat và phu nhân sang thăm nước ta với danh nghĩa nước Chủ tịch Uỷ ban quốc tế. Qua con đường ngoại giao, ta biết có một số vấn đề về quan điểm bạn chưa đồng ý với ta. Nếu không thuyết phục được bạn, cuộc viếng thăm sẽ kém kết quả. Thứ trưởng Ung Văn Khiêm chợt nhớ, trong kháng chiến ở miền Tây Nam Bộ có ông là Phật sống Ấn Ðộ tên Ba Chà làm Giám đốc Ðề lao binh. Nghe nói gia đình người vợ Ấn Ðộ của ông ta có họ hàng với Thủ tướng Ganđi. Tổng thống Praxat và phu nhân cũng là phật tử. Nếu có được ông Vua Phật Ấn Ðộ để giao thiệp với phái đoàn Ấn Ðộ thì quá ngon !
Ðại tướng Nguyễn Chí Thanh cử nhóm công tác đi Thanh Hoá là nơi hai sư đoàn bộ đội Nam Bộ đang đóng….
Về Hà Nội, trung uý Lưu Công Danh được đưa tới gặp Phó Thủ tướng Phan Kế Toại bàn về việc tiếp phái đoàn Ấn Độ, Trước khi đoàn tới ít ngày, Bác Hồ gặp Ông Ba Danh. Bác nói :
- Chính Phủ Ấn chưa hiểu mình nên trong công việc có gây cho Chính phủ ít nhiều khó khăn. Chú có thể giúp cho phái đoàn ta !
- Thưa Bác, cháu thì giúp được gì ạ ?
- Nếu biết cách thì chú giúp được đấy !
- Thế này nhé, có thể bà Tổng thống Praxat sẽ xin gặp chú. Nếu bà Praxat muốn gặp thì chú nên gặp.
- Nhưng thưa Bác, Ba Danh ấp úng, bà ta gặp cháu để làm gì ạ?
- Gặp chú vì chú là Phật sống Ấn Ðộ.
Ba Danh toát mồ hôi, không hiểu ông Cụ nhắc đến Phật sống với ý nghĩa gì.
- Thưa Bác !
- Bà Praxat là phật tử, Bác Hồ nói tiếp bằng giọng nhỏ trầm tĩnh, nên rất ngưỡng mộ Phật sống Ấn Ðộ. Vậy nếu bà ấy gặp chú thì rất tốt cho công việc của phái đoàn.
Ba Danh láng máng hiểu ra vấn đề, anh hỏi :
- Thưa Bác, gặp bả cháu phải thế nào ạ ?
- Chú cứ xử sự như trước đây chú tiếp các phật tử. Còn trong câu chuyện, chú cứ nói thật về cuộc đời chú và nhất là vì sao chú lại đi kháng chiến.
Ít ngày sau thì Tổng thống Praxát cùng phái đoàn Ấn Ðộ đến Hà Nội. Trong chuyến thăm ngoại giao này, Đoàn của Tổng thống Praxat tới Sài Gòn trước rồi mới ra Hà Nội, là chỉ dấu cho thấy Ấn Ðộ nghiêng về phía Ngô Đình Diệm. Quả như dự liệu lúc đầu, có một số vấn đề giữa ta và bạn khác quan điểm nên buổi hội đàm thứ nhất diễn ra không suôn sẻ. Trung ương rất lo. Qua câu chuyện hành lang, ta bóng gió cho người Ấn biết là Phật sống Ấn Ðộ Hăcxacôp Chanđra (tên ông Ba Chà) đang ở Hà Nội. Ông rất nhớ đất nước Ấn Ðộ, muốn biết tin tức gia đình. Biết tin này, phu nhân Tổng thống Praxat rất mừng, bà nhờ Đoàn Việt Nam xin tiếp kiến Phật sống.
Hai chiếc xe hơi sang trọng mang cờ Ấn Ðộ tiến vào biệt thự trên đường Quán Thánh bên bờ Hồ Tây. Từ ghế đầu, người sĩ quan tuỳ tùng bước xuống mở cửa. Người đàn bà Ấn nước da màu đồng hun mặc sary vàng bước ra khỏi xe. bà nhìn bao quát ngôi biệt thự. Hạt kim cương từ chiếc nhẫn trên ngón tay thon dài phản quang loé sáng. Từ chiếc xe trắng đi sau mang cờ của Ủy ban quốc tế giám sát và kiểm soát đình chiến ở Đông Dương, ba người đàn ông mang đồng phục trắng lần lượt xuống xe. Anh cán bộ lễ tân hướng dẫn phu nhân Tổng thống cùng các vị khách bước lên tam cấp, qua phòng khách lớn rồi lên cầu thang.
Tới một căn phòng cửa mở, hai sĩ quan người Ấn nhanh nhẹn đứng lại hai bên cửa, còn hai người khác tháp tùng phu nhân tổng thống bước vào. Vừa vào trong phòng, cả ba người khách nước ngoài bước vội lên trước rồi quỳ xuống tấm thảm Ba Tư trải trên sàn, đầu cả ba người cúi sát đất. Không xa trước mặt họ là cái sập gỗ mun khảm trai trải chiếu hoa. Trên đó Phật sống Ba Danh dáng cao lớn, nước da ngăm đen, mặc cà sa màu vàng trong tư thế tọa thiền, hai mắt nhắm lại. Trên cao phía sau ông là bàn thờ Phật với hình Quan Thế âm, những nén nhang cháy toả mùi trầm thơm sâu lắng. Sau khi lạy, cả ba người trong tư thế quỳ, hai tay chắp trước ngực, đầu cúi, mắt nhắm lại vẻ thành kính.
Lúc lâu sau Phật sống mở mắt, nhìn xuống ba phật tử, nói chậm rãi bằng tiếng Hinđu bằng giọng Newdelhi trầm ấm :
- Mừng các con tới đất nước Việt Nam. Thầy ban phước cho các con. Bữa nay thầy cho các con biết một phần của đời thầy. Chắc các con vẫn nhớ, theo quy định của người tu Phật, sau khi thành Phật, có thời gian hai năm để tế độ chúng sanh thì trở về trời trong giàn lửa. Nhưng năm ấy, thầy đã không về trời theo cách đó vì thầy còn có việc phải làm. Trong đêm thầy được chánh quả, Phật tổ có dạy rằng, sau thời gian ở Ấn Độ, thầy phải về nước Phật giáo sát bên đất nước của thầy để khi nước được độc lập thì về tế độ đồng bào mình. Vậy là theo lời Phật tổ, thầy đã về nước anh em là Miên quốc. Thầy tế độ chúng sinh ở đó. Khi Việt Nam được độc lập thì theo lời Phật tổ, thầy về nước. Nhưng đúng lúc đó thì giặc Pháp trở lại xâm lược. Không còn cách nào khác, thầy phải cùng Chính phủ đánh Pháp cứu chúng sinh, giữ vững nền độc lập cho Việt Nam. Cũng trong đêm thành chánh quả đó, Phật tổ có đem giáo lý đạo Phật truyền cho thầy. Trong những điều thầy được nghe thì chính Phật tổ nói : “Đạo Phật ưa sống hoà bình nhưng nếu có bọn ác tới tàn hại chúng sinh thì phải đánh đuổi chúng đi.”
Khi thầy về thì đánh nhau rất ác liệt, Chính phủ Việt Nam lo cho an nguy của thầy nên khuyên thầy trở lại Pnômpênh vì chúng sinh nơi đâu cũng là con của Phật tổ, giúp cho dân Miên cũng là giúp dân Việt. Nhưng thầy xin ở lại để cùng đánh giặc với đồng bào. Đức Phật tổ dạy rằng, không được sát sanh nhưng nếu có kẻ ác muốn giết mình thì phải cùng mọi người đánh lại chúng.
Hơn nữa thầy biết rằng, dắt dẫn dân tộc Việt Nam là Hồ Chủ tịch, một vị thánh nhân. Được chiến đấu dù có hy sinh dưới cờ của Bác Hồ cũng là làm tròn Phật sự.
Ba người quỳ nghe một cách thành kính. Im lặng một lúc lâu, ngài nói tiếp :
- Nay đất nước Việt Nam cũng như nước Ấn Độ cùng được độc lập. Thầy rất muốn về thăm lại Ấn Độ. Nhưng Việt Nam mới chỉ độc lập được một nửa. Đồng bào miền Nam còn sống trong áp bức, cho nên cả nước còn phải đấu tranh cho độc lập và thống nhất, đồng bào ai cũng được tự do hạnh phúc. Vì vậy công việc của thầy còn nặng… Nay các con sang Việt Nam cũng là làm công việc theo lời Phật dạy. Giúp người Việt Nam cũng là giúp cho nhân dân Ấn Độ. Rồi chúng sanh hai nước sẽ được sống hoà bình trong tình anh em…
Nói tới đây Phật sống dừng lại. Những vị khách im lặng chờ đợi. Lúc lâu sau không thấy ngài nói nữa, họ ngẩng nhìn lên thì nhận ra Phật sống ngồi im như pho tượng, hai mắt nhắm nghiền…
Lặng lẽ, cả ba người lết bằng đầu gối tới bên sập gụ. Họ khom người tới gần Phật sống, nâng vạt áo cà sa hôn một cách thành kính, sau đó vái ba vái rồi đi lùi ra cửa.
Cuộc hội đàm hôm sau diễn ra thuận lợi không ngờ, nhiều đề xuất của Việt Nam được chấp nhận, tuyên bố chung được ký kết, Tổng thống Praxat mời Bác Hồ sang thăm Ấn Ðộ, mở ra trang mới trong quan hệ Việt Ấn.
Năm 1958, sau khi công việc trong nước tạm ổn định, chính phủ Việt Nam tổ chức những chuyến thăm ngoại giao tới nhiều nước trên thế giới do Hồ Chủ tịch dẫn đầu. Lưu Công Danh được tham gia phái đoàn. Tại những nước Phật giáo, Phật sống Lưu Công Danh được quốc vương, chính quyền, giới chính khách và đông đảo phật tử hân hoan chào đón, đem lại uý tín lớn cho chính phủ Việt Nam.....