[Funland] Những trận đánh nổi tiếng thế giới

Trạng thái
Thớt đang đóng
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Liệu phương Tây có bỏ rơi Ukraine?

(Tiếp)

Bạn bè thời vụ?

Ở châu Âu, Mỹ là nguồn cơn gây lo lắng, có thể là mắt xích yếu trong chuỗi xuyên Đại Tây Dương. Trớ trêu thay, các nước châu Âu lại gây ra nỗi lo tương tự ở Washington. Việc trợ giúp hết sức cho Ukraine đã trở thành đặc trưng của chính phủ Phần Lan, Ba Lan, Thụy Điển, Anh và các quốc gia vùng Baltic. Những lo ngại rằng chính phủ cực hữu sẽ đảo ngược đường lối của Italy về Ukraine đã được chứng minh là vô căn cứ. Thay vào đó, Thủ tướng Giorgia Meloni đã tái khẳng định đường lối của phương Tây. Xét tới việc cuộc chiến của ông Putin không được lòng dân Pháp như thế nào, ngay cả nhân vật đối lập chính của Pháp theo chủ nghĩa dân túy cực hữu Marine Le Pen – người từng đã ủng hộ Putin và thậm chí còn tán thành việc sáp nhập Crimea vào năm 2014 – vẫn giữ nguyên quan điểm chỉ trích trước đó đối với cuộc tấn công toàn diện.

1701426604726.png

Thủ tướng Viktor Orban

Tuy nhiên, bà phản đối các biện pháp trừng phạt và việc chuyển vũ khí hạng nặng tới Ukraine. Hungary vẫn đứng ngoài, dù là một thành viên của EU và NATO nhưng rõ ràng không nhiệt tình với mục tiêu của Ukraine. Để đổi lại việc không phá vỡ sự đồng thuận ở Brussels về việc ủng hộ trừng phạt Nga, Hungary đã nhận được nhiều nhượng bộ từ EU. Cho đến nay, điều này đã đủ để giữ ghế Thủ tướng Viktor Orban.

Sự hỗ trợ vững chắc của châu Âu dường như khó có thể sớm thay đổi. Theo một cuộc khảo sát vào tháng 6/2023 của Eurobarometer, 64% người dân EU ủng hộ tài trợ cho việc mua và cung cấp thiết bị quân sự cho Ukraine. Con số này thấp nhất là 30% ở Bulgaria và cao nhất là 93% ở Thụy Điển. Không có đảng châu Âu nào ủng hộ chương trình nghị sự công khai thân Nga mà có thể xây dựng được một liên minh bầu cử bền vững. Quả thực, đa phần công chúng ở châu Âu đang ngày càng ủng hộ EU và NATO hơn kể từ khi chiến tranh bắt đầu.

1701426674173.png

Vũ khí phương tây trong quân đội Ukraine

Tuy nhiên, một trạng thái gần như kiệt sức đang ảnh hưởng đến châu Âu. Ví dụ điển hình nhất là Đức, quốc gia đã vượt qua tình trạng tắc nghẽn năng lượng do cuộc chiến gây ra và đã tiếp nhận một triệu người tị nạn Ukraine đồng thời tăng dần hỗ trợ cho nước này. Giống như trong đại dịch, chính giai đoạn khủng hoảng kéo dài đã gây ra sự thất vọng: giá năng lượng tăng cao, suy thoái kinh tế, lo ngại về vấn đề phi công nghiệp hóa và liên minh cầm quyền hoạt động kém hiệu quả đã gây ra tình trạng bất ổn, từ đó tạo thuận lợi cho đảng cực hữu Sự lựa chọn vì nước Đức (AfD). Theo các cuộc thăm dò, đảng này hiện là đảng mạnh thứ hai ở Đức. Đảng AfD muốn rút Đức khỏi NATO và ngừng hỗ trợ cho Ukraine, nhưng sự ủng hộ dành cho đảng này không xuất phát từ quan điểm thân Nga của họ. Đảng này khai thác sự bất mãn chung để khiến việc chỉ trích chính sách đối ngoại theo chủ nghĩa Đại Tây Dương của Đức có vẻ chính thống hơn.

1701426723436.png

Vũ khí phương tây trong quân đội Ukraine

Đối với châu Âu, cuộc chiến càng kéo dài thì càng khó giải quyết cũng như càng tốn kém, và càng trở thành phương tiện cho quyền lực của Mỹ hơn là vì lợi ích cốt lõi của châu Âu. Vì quan điểm ủng hộ cuộc chiến vẫn giữ nguyên ở châu Âu nên các chính trị gia có đầu óc kinh doanh có thể tập trung vào trong nước và đổ lỗi cho giới tinh hoa ở các thành phố thủ đô và Brussels vì quan tâm đến Ukraine hơn chính người dân của họ. Ví dụ, một nghị sĩ cánh tả nổi tiếng trong quốc hội Đức Sahra Wagenknecht gần đây so sánh sự hỗ trợ cho Ukraine như một cái hố không đáy, trong khi ngân sách liên bang bị cắt giảm trong mọi lĩnh vực khác. Những quan điểm này có thể dễ dàng trở nên phổ biến ở châu Âu, và những người ủng hộ chúng sẽ không cần đưa ra một chính sách thay thế khả thi nào; họ thậm chí không cần phải nói thật. Sẽ không cần đến một nhà mị dân đặc biệt giỏi để thuyết phục những người dân châu Âu đang chịu sức ép kinh tế rằng có cách để nhanh chóng kết thúc cuộc chiến và việc chấm dứt chiến tranh sẽ giải thoát họ khỏi nỗi khổ sở họ đang gặp phải, chẳng hạn như lạm phát cao.

1701426758379.png

Vũ khí phương tây trong quân đội Ukraine

Yếu tố khó đoán trong cuộc chiến chính là Mỹ. Trong các cuộc thăm dò gần đây, Tổng thống Joe Biden hoặc là xếp sau, hoặc là ngang bằng với cựu Tổng thống Donald Trump. Sự trở lại của Trump có thể sẽ là tai họa cho Ukraine. Trên cương vị tổng thống, Trump coi Ukraine như một phần phụ trong chiến dịch tái tranh cử của mình và cố gắng ép Zelensky phải làm tổn hại danh tiếng của Biden – đối thủ chính của Trump vào thời điểm đó. Theo tờ The New York Times, Trump đã nhiều lần đề xuất rút Mỹ khỏi NATO trước mặt các quan chức chính quyền cấp cao trong các cuộc trò chuyện riêng trong năm 2018. Ông chưa bao giờ làm theo ý tưởng này. Nhưng xét tới luận điệu của ông trong quá trình tranh cử, ông dường như quyết tâm tiến xa hơn nữa trong việc phá vỡ các chuẩn mực và truyền thống đã được thiết lập nếu ông quay trở lại Nhà Trắng. Và trong những tháng gần đây, Trump đã gợi ý rằng ông có thể kết thúc cuộc chiến ở Ukraine sau 24 giờ. Sự ồn ào trong chiến dịch tranh cử như vậy cho thấy rằng Trump thích giải pháp thương lượng để giải quyết cuộc xung đột (nhiều khả năng sẽ theo các điều kiện của Nga) hơn là việc tiếp tục viện trợ và hỗ trợ đều đặn cho Ukraine.

1701426792426.png

Vũ khí phương tây trong quân đội Ukraine

Trump có thể không trở thành ứng cử viên của đảng Cộng hòa. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là trong số các ứng cử viên khác, hai người có tỷ lệ ủng hộ cao nhất - Thống đốc bang Florida Ron DeSantis và doanh nhân Vivek Ramaswamy - lại là những người có thái độ chối bỏ Ukraine nhất. Cánh Reaganite của đảng Cộng hòa - những người ủng hộ việc bảo vệ mạnh mẽ các nền dân chủ đồng minh và bao gồm các nhân vật như cựu Phó Tổng thống Mike Pence và Thượng nghị sĩ Mitch McConnell của Kentucky - vẫn có sự hiện diện đáng kể ở Đồi Capitol và các tổ chức tư vấn ở Washington. Nhưng trong số các cử tri sơ bộ của đảng Cộng hòa, quan điểm này không còn được ủng hộ nữa. Phe Cộng hòa coi Trung Quốc là mối đe dọa lớn hơn nhiều so với Nga và nhiều thành viên đảng Cộng hòa nhận thấy sự đánh đổi giữa việc ủng hộ Ukraine và giải quyết các vấn đề trong nước. Theo một cuộc thăm dò do Gallup công bố vào tháng 6/2023, 50% đảng viên Cộng hòa tin rằng Mỹ đang hỗ trợ quá mức cho Ukraine, tăng từ mức 43% khi bắt đầu chiến tranh. 49% đảng viên Cộng hòa muốn kết thúc xung đột một cách nhanh chóng, ngay cả khi làm như vậy sẽ cho phép Nga giữ lại lãnh thổ đã chiếm được.

1701426839430.png

Vũ khí phương tây trong quân đội Ukraine

Ramaswamy viết vào tháng 8/2023, lặp lại một điệp khúc đã trở nên phổ biến trên các phương tiện truyền thông Mỹ: “Chúng ta đang cố gắng sử dụng nguồn lực quân sự Mỹ để bảo vệ trước một cuộc tấn công biên giới ở nước khác trong khi lại hoàn toàn không làm gì để ngăn chặn cuộc xâm lược do các băng đảng tiếp tay ở ngay biên giới phía Nam của chúng ta”. Lập luận này có thể nông cạn và bài ngoại, nhưng lại thu hút mạnh mẽ nhiều đảng viên Cộng hòa và những người bảo thủ. Lập luận này có thể gây được tiếng vang với nhiều người có tư tưởng độc lập và thậm chí cả một số đảng viên Dân chủ và những người cấp tiến.

.....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Vấn đề cam kết

Việc phương Tây cắt giảm hỗ trợ cho Ukraine sẽ không kết thúc cuộc chiến. Không có quốc gia phương Tây nào thực sự chiến đấu ở Ukraine, và mặc dù vũ khí cũng như tiền viện trợ của phương Tây đóng một vai trò chủ chốt, nhưng ngay từ đầu đây đã là cuộc chiến của Ukraine. Chính người Ukraine đã thể hiện lòng dũng cảm và sự hi sinh phi thường. Dù phương Tây có hỗ trợ hay không, Ukraine cũng sẽ phải đối mặt với tình trạng khó khăn tương tự: một đối thủ không chấp nhận sự tồn tại của quốc gia Ukraine, tính hợp pháp của văn hóa Ukraine hay tiếng Ukraine, và đối thủ này đã tự cho phép mình tấn công – để lại những hậu quả khủng khiếp. Ukraine phải đấu tranh với đối thủ này bằng mọi cách có thể.

1701489058052.png


Không có phương Tây hậu thuẫn, Ukraine sẽ đối mặt với hai vấn đề nan giải. Một là các thách thức của việc phải chiến đấu khi trang thiết bị của phương Tây trở nên đắt hơn hoặc ít có sẵn, hoặc vừa đắt vừa không có sẵn. Binh sĩ Ukraine đã dành thời gian đáng kể để huấn luyện sử dụng thiết bị của phương Tây. Các chiến lược gia Ukraine đã được hưởng lợi rất nhiều từ sự trợ giúp và chia sẻ tin tình báo mà nước này nhận được từ Mỹ và các nước khác. Việc truy cập Internet trên chiến trường thường được thực hiện thông qua Starlink - công nghệ do doanh nhân công nghệ Mỹ Elon Musk cung cấp miễn phí trong một thời gian (có giới hạn) và gần đây Lầu Năm Góc đã quyết định chi trả. Nếu châu Âu hoặc Mỹ (hoặc cả hai) cắt đứt viện trợ cho Ukraine, thì nước này sẽ chịu tổn thất khôn lường về sức mạnh quân sự.

1701489129868.png


Vấn đề nan giải thứ hai sẽ vượt ra ngoài Ukraine. Sự ủng hộ của phương Tây cho Ukraine và sự tự nhận thức của Nga có liên hệ sâu sắc với nhau. Cuộc tấn công của Putin không chỉ là một cuộc đánh cược rằng Ukraine sẽ sụp đổ và Nga có thể kiểm soát hoặc chia cắt nước này. Đó còn là một cuộc đánh cược vào phương Tây và đặc biệt vào Mỹ khi nước này cuối cùng từ bỏ nỗ lực thất bại ở Afghanistan sau một cuộc chiến kéo dài và phức tạp, vài tháng trước khi Nga tấn ông. Putin đang đặt cược chống lại sự nhạy bén chiến lược và lòng kiên nhẫn của Mỹ và rộng ra là của NATO. Nếu Mỹ và các thành viên NATO hết kiên nhẫn ở Ukraine, Nga có thể tuyên bố cuộc chiến này là một chiến thắng chiến lược ngay cả khi Nga vẫn mắc kẹt trong cuộc xung đột ở Ukraine, và đối với phạm vi toàn cầu, đây có thể coi là chiến thắng cho Nga.

1701489267581.png


Nếu sự ủng hộ dành cho Ukraine giảm dần ở châu Âu nhưng không giảm ở Mỹ, Nga có thể theo đuổi cách tiếp cận “chia để trị”. Nước này có thể đề xuất một giải pháp thương lượng giả tạo, tạm dừng giao tranh hoặc “ngoại giao thuốc độc” – như Nga đã tiến hành vào năm 2014 và 2015, khi nước này tạo ấn tượng là sẵn sàng thỏa hiệp nhưng thực tế lại đang tìm cách chiếm lấy Ukraine. Ý định của Nga là chia rẽ chính phủ một số nước châu Âu với Mỹ và chia rẽ Tây Âu với Đông Âu. Một châu Âu xung đột với Mỹ và một châu Âu xung đột nội bộ sẽ là nơi lý tưởng cho các nỗ lực của Nga (thông qua thao túng và gián điệp) nhằm bình thường hóa việc sáp nhập lãnh thổ Ukraine vào Nga. Tuy nhiên, nếu sự hỗ trợ và lãnh đạo của Mỹ được giữ vững, Ukraine sẽ có một nền tảng vững chắc. Tây Âu sẽ không thể tiếp cận với Nga hay đàm phán một thỏa thuận với Nga sau lưng Ukraine nếu Mỹ phản đối kết quả này.

1701489432695.png


Việc Ukraine mất đi sự hỗ trợ từ Mỹ, không phải từ châu Âu, sẽ mang lại tác động mạnh mẽ hơn. Các thành viên và tổ chức của EU hiện đã cam kết gần như gấp đôi tổng viện trợ Mỹ dành cho Ukraine (cả về tài chính, quân sự hay nhân đạo), thông qua các gói viện trợ kéo dài nhiều năm. Nhưng các cam kết quân sự của Mỹ sánh ngang với cam kết quân sự của tất cả các nước EU dành cho Ukraine. Châu Âu không thể thay thế sự hỗ trợ quân sự của Mỹ trên quy mô lớn như vậy và sẽ gặp khó khăn trong việc lấp đầy khoảng trống lãnh đạo. Nếu Mỹ cố gắng ép buộc các bên giải quyết thông qua đàm phán vấn đề Ukraine, châu Âu sẽ có rất ít khả năng chống lại. Một giải pháp thiển cận hay vội vàng sẽ gây nguy hiểm cho an ninh của Ukraine cũng như an ninh của châu Âu. Dưới góc nhìn của Nga, một giải pháp như vậy có thể chứng minh rằng mức độ cam kết của Mỹ đối với an ninh châu Âu đang giảm dần.

....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Vũ khí bí mật của Putin

Ukraine hầu như không thể tác động đến các vấn đề chính trị nội bộ của các đối tác thời chiến. Mặc dù không ai có thể trình bày vấn đề của Ukraine tốt hơn Zelensky, nhưng dư luận và các cuộc bầu cử ở châu Âu hoặc Mỹ sẽ tuân theo lý lẽ nội bộ của các quốc gia này. Chính phủ Ukraine nên vun đắp quan hệ với các nhân vật và chính đảng không ủng hộ Ukraine mạnh mẽ, bao gồm cả các đảng cực tả và cực hữu, giống như Chính phủ Ukraine đã phát triển quan hệ với Trung Quốc trong chiến tranh, bất chấp sự gần gũi của Trung Quốc với Nga. Bằng cách này, Kiev có thể chống lại sự phân cực chính trị mà có nguy cơ làm giảm dần sự ủng hộ dành cho Ukraine.

1701489553950.png


Khi Zelensky lên nắm quyền năm 2019, ông gần như ngay lập tức bị cuốn vào những âm mưu chính trị từ Washington – nhưng ông đã vượt qua để lãnh đạo Ukraine khi đất nước cần ông nhất. Zelensky giỏi trong việc không liên kết quá chặt chẽ với bất kỳ đảng phái chính trị nào. Đối với các khu vực bầu cử chưa xuôi theo việc ủng hộ cuộc chiến, ví dụ như các đảng cánh tả ở Đức, cực hữu ở Pháp, và các đảng dân túy đang nổi lên ở một số nước như Slovakia, Zelensky nên nhấn mạnh đến phí tổn kinh tế và quân sự khổng lồ mà từng nước phương Tây phải chịu nếu Nga chiến thắng ở Ukraine, nhất là phí tổn do làn sóng di cư ồ ạt từ Ukraine.

Ở Washington và các thủ đô châu Âu, sự ủng hộ cho Ukraine không thể được duy trì vĩnh viễn. Tất cả các lựa chọn chính sách đối ngoại sẽ được đưa ra thử thách trong các cuộc bầu cử, nhưng một số ưu tiên có thể được bảo vệ. Việc hỗ trợ tài chính và đảm bảo an ninh cho Ukraine có thể được đưa vào các luật và dự luật ngân sách dài hạn. Ví dụ như trong EU, Ủy ban châu Âu đã đề xuất phân bổ hơn 50 tỷ USD để phục hồi, tái thiết và hiện đại hóa Ukraine trong giai đoạn 2024-2027. Brussels và các nước thành viên EU nên mở rộng những cam kết nhiều năm này trong tương lai.

1701489597946.png


Không cuộc bầu cử nào, ngay cả cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2024, là một cuộc trưng cầu dân ý mang tính sống còn với chính sách của phương Tây: Trump đã vận động tranh cử năm 2016 dựa trên việc nối lại quan hệ hợp tác với Nga và rốt cuộc Mỹ đã viện trợ vũ khí sát thương cho Ukraine. Việc phân chia quyền lực và các cuộc bầu cử định kỳ chính là những biện pháp bảo vệ dân chủ trước tình huống xấu nhất. Bất kể hiện trạng ở phương Tây có giữ nguyên hay không, các quan chức vẫn phải đưa ra lý do giúp đỡ Ukraine một các liên tục và sáng tạo.

Khi xung đột kéo dài, Ukraine sẽ phải điều chỉnh câu chuyện về cuộc chiến của mình cho phù hợp với công chúng phương Tây. Thay vì một chiến thắng nhanh chóng và quyết đoán như nhiều người hy vọng khi cuộc phản công mùa Hè mới diễn ra, Kiev sẽ cần phải giải thích về kết cục của một cuộc chiến kéo dài, vốn là vấn đề sống còn của Ukraine. Nếu không, cảm giác xa cách có thể xuất hiện, đặc biệt nếu chiến tranh ngày càng chuyển sang lãnh thổ Nga thông qua các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái cũng như các loại hình tấn công khác. Mặc dù có thể là cần thiết cho khả năng tự vệ và nâng cao tinh thần cho người Ukraine, những cuộc tấn công như thế này có thể gây nhiều hệ quả chính trị nếu chúng góp phần vào tư tưởng “tại anh, tại ả” trong các cuộc tranh luận ở phương Tây.

1701489633628.png


Vào năm 2015, sau khi cuộc giao tranh tồi tệ nhất ở miền Đông Ukraine kết thúc sau một thỏa thuận ngừng bắn với đầy thiếu sót, phương Tây đã mắc lỗi cơ bản, đó là thiếu sự quan tâm. Bằng cách nào đó, cuộc khủng hoảng này đáng lẽ đã tự chấm dứt. Từ đây, Putin đã học được điều mà ông cho là sự thật thiết yếu về tính hay thay đổi của các nhà lãnh đạo phương Tây. Trong tương lai, châu Âu và Mỹ phải tiếp tục chứng minh rằng Putin đã đưa ra kết luận sai lầm. Ngăn chặn Nga và bảo vệ chủ quyền của Ukraine là lợi ích hàng đầu của phương Tây. Những điều này không thể chỉ phụ thuộc vào các hình ảnh bạo lực khủng khiếp, vào sự chú ý liên tục của truyền thông hay vào sức hút của bất kỳ chính trị gia Ukraine nào. Sự thờ ơ và thiếu kiên nhẫn của phương Tây là vũ khí tối thượng của Putin. Không có những điều đó, Putin sẽ phải đối mặt với ngõ cụt trong chiến lược.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Các nhà phân tích quân sự Israel cảnh báo Hamas có kế hoạch 'khởi động chiến tranh' trước cuộc tấn công khủng bố

Ba tháng trước vụ tấn công ngày 7 tháng 10, một nữ nhà phân tích đã gửi cảnh báo với dòng tiêu đề: “Chết ở Kibbutz, bằng bất cứ giá nào”. Cấp trên của cô đã bác bỏ nó như một “kịch bản tưởng tượng”.

1701489708156.png

Các chiến binh Hamas tiến về cửa khẩu Erez giữa Israel và phía bắc Dải Gaza vào ngày 7/10

Ba tháng trước vụ tấn công khủng bố ngày 7 tháng 10, các nhà phân tích trong quân đội Israel đã cảnh báo cấp trên của họ về mối đe dọa nghiêm trọng từ các chiến binh Hamas - một “kế hoạch được thiết kế để bắt đầu một cuộc chiến tranh”. Nhưng mối lo ngại của họ đã bị cấp trên bác bỏ, theo một quan chức Israel quen thuộc với vấn đề này.

Vụ việc này là một phần trong ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy chính phủ của Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu đã bỏ qua - hoặc phớt lờ - những cảnh báo quan trọng về kế hoạch tấn công đất nước của Hamas.

Ông Netanyahu, cũng như các quan chức tình báo và quân đội Israel, bị giám sát chặt chẽ hơn hôm thứ Năm sau khi tờ New York Times đưa tin rằng chính quyền Israel đã có được kế hoạch của Hamas về một cuộc tấn công kiểu ngày 7 tháng 10 một năm trước khi nó xảy ra.

Theo tờ Times, các chuyên gia Israel không tin Hamas có khả năng thực hiện cuộc tấn công và bỏ qua kế hoạch chi tiết từng bước, dựa trên các tài liệu, email và các cuộc phỏng vấn. Hơn 1.200 người thiệt mạng và hơn 200 người bị bắt cóc trong vụ tấn công, vụ tấn công khủng bố tồi tệ nhất trong lịch sử Israel.

1701489855366.png

Các chiến binh Hamas tiến về cửa khẩu Erez giữa Israel và phía bắc Dải Gaza vào ngày 7/10

NBC News chưa xác nhận độc lập báo cáo của New York Times hay có được bản sao của bản thiết kế dài 40 trang mà các quan chức Israel được cho là có mật danh là “Bức tường Jericho”.

Một quan chức Mỹ cho biết các cơ quan tình báo Mỹ dường như chưa nhận được bản sao của tài liệu này. Quan chức này cho biết: “Tại thời điểm này, không có dấu hiệu nào cho thấy cộng đồng tình báo đã được cung cấp tài liệu về 'Bức tường Jericho' được New York Times đưa tin đêm qua”, đồng thời cho biết thêm rằng cộng đồng tình báo Mỹ sẽ tiếp tục xem xét thông tin của mình.

Trong một email vào ngày 6 tháng 7, một nữ nhà phân tích tình báo Israel tập trung vào Hamas đã mô tả một buổi huấn luyện vào tháng 5 của nhóm đó bắt đầu từ sáng sớm và kéo dài đến tối muộn. Cuộc huấn luyện bao gồm xe jeep và mô tô, cùng với kịch bản bắn hạ máy bay.

Dòng chủ đề viết: “Chết ở Kibbutz, bằng bất cứ giá nào.”

Cô tiếp tục email ban đầu với thông tin về việc các chiến binh Hamas nói về việc chờ chỉ thị.

Những email này lần đầu tiên được kênh tin tức Channel 12 của Israel và tờ Financial Times đưa tin , đã được xác nhận với NBC News bởi một quan chức cấp cao của Israel, người phát biểu với điều kiện giấu tên.

1701489927959.png


Theo quan chức Israel, trong phản hồi được gửi sáu ngày sau cảnh báo, một chỉ huy IDF thừa nhận công việc tốt của nhà phân tích nhưng quyết định rằng buổi huấn luyện chỉ nhằm mục đích trình diễn, một "kịch bản tưởng tượng" - không phải là một kế hoạch chiến đấu cụ thể, theo quan chức Israel.

Nhà phân tích nữ trả lời với lời cảnh báo rõ ràng: “Đây là một kế hoạch được thiết kế để bắt đầu một cuộc chiến tranh” và lưu ý khả năng làm điều đó của Hamas. Một trong những đồng nghiệp của cô ấy đã hỗ trợ cô ấy trên cùng một chuỗi email. Ông viết: “Tôi nhấn mạnh rằng chúng tôi hoàn toàn không đồng ý với giả định rằng đây là một kịch bản tưởng tượng”.

Theo nữ nhà phân tích, các chiến binh Hamas đã hô vang những câu như "Chuẩn bị giết lợn Do Thái" và "Chuẩn bị tiến vào và chặt đầu". Cô nói thêm: “Họ đang huấn luyện với lực lượng đông đảo cho một sự kiện lớn… đây là sự chuẩn bị cho sự kiện thực sự”.

Trả lời câu hỏi của NBC News, một phát ngôn viên của IDF cho biết quân đội hoàn toàn tập trung vào việc chống lại Hamas. Người phát ngôn cho biết: “Sau chiến tranh, IDF sẽ tiến hành một cuộc điều tra chuyên sâu, sắc bén và không khoan nhượng và công bố những phát hiện của mình cho công chúng”.

1701490018267.png


Ngoại trưởng Antony Blinken, khi phát biểu với báo cáo của Times hôm thứ Sáu, đã hứa rằng sẽ có “trách nhiệm giải trình, xem xét những gì đã dẫn đến ngày 7 tháng 10”.

“Ngay bây giờ, trọng tâm là đảm bảo rằng họ có thể làm mọi thứ có thể để điều đó không xảy ra lần nữa,” Blinken nói với các phóng viên trên đường băng ở Dubai, nơi ông tham dự hội nghị thượng đỉnh về khí hậu COP28.

Thất bại về mặt tình báo có thể làm suy yếu thêm vị thế chính trị của ông Netanyahu ở Israel, nơi những lời kêu gọi ông từ chức ngày càng gia tăng trong những tuần gần đây. Ông Netanyahu đã phải đối mặt với những cuộc phản đối dữ dội vào mùa hè này về kế hoạch cải tổ hệ thống tư pháp của đất nước .

Những tiết lộ này được đưa ra khi thỏa thuận ngừng bắn mong manh kéo dài 7 ngày giữa Israel và Hamas bị phá vỡ hôm thứ Sáu, sau khi Hamas bắn tên lửa vào Israel và không cung cấp danh sách các con tin mà họ sẽ thả.

1701490099002.png


Sự yên tĩnh kéo dài một tuần đã cho phép thả khoảng 100 con tin bị giữ ở Gaza để đổi lấy các tù nhân Palestine bị giam giữ ở Israel, cũng như dòng viện trợ nhân đạo vào Gaza. Theo thống kê của Israel, vẫn còn khoảng 150 con tin bị giữ ở Gaza, bao gồm cả công dân Mỹ.

Bộ Y tế do Hamas điều hành tại vùng đất bị bao vây của người Palestine cho biết, đợt giao tranh mới nổ ra hôm thứ Sáu đã khiến 178 người thiệt mạng và 589 người khác bị thương ở Gaza. Bộ tuyên bố rằng hầu hết nạn nhân trong ngày là phụ nữ và trẻ em.

Tổng cộng, hơn 15.000 người đã thiệt mạng ở Gaza kể từ khi chiến tranh nổ ra, theo văn phòng truyền thông của chính phủ Palestine.

Các quan chức hiện tại và trước đây của Israel, đồng thời là cựu liên lạc viên của Mỹ với các cơ quan an ninh của Israel, nói rằng các quan chức Israel tin rằng Hamas sẽ không thực hiện một cuộc tấn công trên diện rộng vì các thủ lĩnh của nhóm này hài lòng với việc cai trị Gaza và tước đoạt viện trợ quốc tế.

1701490179992.png


Trước ngày 7 tháng 10, chính phủ của Netanyahu đã cho phép người dân Gaza vào Israel để làm việc và cho phép hàng triệu đô la viện trợ chảy vào vùng đất này để hỗ trợ phát triển các nguồn năng lượng.

Theo một cựu quan chức an ninh cấp cao của Israel, các nhà lãnh đạo Israel tin rằng Hamas đã “được kiểm soát”. “Chúng tôi đã sai,” ông nói.
 

hkm417

Xe điện
Biển số
OF-781052
Ngày cấp bằng
18/6/21
Số km
4,122
Động cơ
68,774 Mã lực
Tuổi
124
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Nga, Ukraine và việc sử dụng tình báo chiến lược trong tương lai

Trước cuộc tiến công vào Ukraine của Nga vào tháng 2 năm 2022, Mỹ và Vương quốc Anh đã tiến hành một chiến dịch thông tin công khai và riêng tư tích cực nhằm cố gắng đạt được hai mục tiêu đồng thời. Mục tiêu chính là thuyết phục các đồng minh của họ về mối đe dọa từ cuộc tấn công đang được chuẩn bị của Nga (và tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động hỗ trợ cho Ukraine sau sự việc) và ở mức độ thấp hơn, mục tiêu thứ yếu là cố gắng ngăn chặn Mátxcơva hành động. Trọng tâm của chiến dịch này là việc sử dụng thông tin tình báo một cách rõ ràng và được công bố rộng rãi. Quả thực, như Dan Drezner đã viết trên tờ Washington Post, “Cộng đồng tình báo Mỹ gần đây chắc chắn đã bàn tán nhiều về những gì họ cho rằng Nga đang làm”. Việc sử dụng thông tin tình báo để hỗ trợ các nỗ lực chính sách hoặc ngoại giao và để đạt được hiệu quả chiến lược, về bản chất, không phải là điều mới lạ. Thông tin tình báo nhằm mục đích thông báo cho các nhà hoạch định chính sách và các quyết định của họ.

1701598347712.png

Quân đội Nga tại biên giới Nga-Ukraine cuối năm 2021, đầu năm 2022

Điều mới lạ là tốc độ, tần suất và mức độ thông tin tình báo được tiết lộ cho công chúng rộng rãi hơn - tình báo thể hiện sự thâm nhập đáng kể của con người hoặc kỹ thuật số vào hệ thống phân cấp chính trị và quân sự của Nga và được thiết kế để đạt được hiệu quả cụ thể. Những tiết lộ này cũng được hưởng lợi từ một sự phát triển ngoài kế hoạch: sự tồn tại của bên xác nhận thứ ba bên ngoài trong cộng đồng tình báo nguồn mở. Lĩnh vực non trẻ và đang trưởng thành này cung cấp một công cụ để một số thông tin, mặc dù không phải tất cả, có thể được xác thực trong thời gian gần. Hoạt động ở cấp độ chiến thuật được các cộng đồng này xác minh đã giúp củng cố thông điệp lớn hơn của Washington rằng các nhà hoạch định chính sách đang thúc đẩy việc sử dụng các năng lực tình báo nhạy cảm.

Việc sử dụng thông tin tình báo này, sự thành công được nhận thấy của nỗ lực và tính hữu ích của thông tin đó có thể sẽ dẫn đến sự gia tăng nhu cầu của cả các chính trị gia và công chúng nói chung. Điều này đặt ra những vấn đề mới và tái khẳng định những thách thức tồn tại từ trước có tác động và ảnh hưởng đến việc sử dụng thông tin tình báo. Theo nghĩa đó, chiến dịch ở Ukraine phản ánh những bài học từ những thành công trong quá khứ, đồng thời quan trọng hơn là cũng phản ánh những bài học từ những thất bại trong quá khứ và đưa ra những cảnh báo về rủi ro cho tương lai. Nhiều bài học trong số này không mới. Sự cần thiết phải bảo vệ nguồn tin và phương pháp thu thập; nguy cơ các chính trị gia sẽ sử dụng có chọn lọc thông tin tình báo cho các mục đích chính trị; tầm quan trọng của việc điều chỉnh thông điệp phù hợp với các đối tượng cạnh tranh và khác nhau; tất cả những điều này đều là những chủ đề quen thuộc xuyên suốt lịch sử tình báo.

1701598412037.png

Quân đội Nga tại biên giới Nga-Ukraine cuối năm 2021, đầu năm 2022

Điều có lẽ mới lạ nhất về việc sử dụng thông tin tình báo ở Ukraine và có thể sẽ tiếp tục là điều này thể hiện nỗ lực của Mỹ nhằm giành lại thế chủ động trong cuộc chiến tranh thông tin mà phần lớn đã nhường lại cho Nga bằng sự thiếu sót và ủy thác. Nỗ lực này mang lại thêm những thách thức chính sách và những cân nhắc mới.

Mục tiêu và Hiệu quả

Điều quan trọng ngay từ đầu là phải thiết lập những phác thảo tổng quát về những gì Mỹ và Vương quốc Anh hy vọng đạt được bằng việc sử dụng thông tin tình báo và đối tượng mà thông tin hướng tới - cụ thể là các nhà hoạch định chính sách trong nước và giữa các đồng minh, đối thủ (Nga), và thế giới rộng lớn hơn.

Ở cấp độ chiến lược, những nỗ lực của phương Tây trước cuộc xâm lược Ukraine của Nga có hai mục tiêu chính. Việc đầu tiên và được cho là thành công nhất là thuyết phục các nhà hoạch định chính sách hoài nghi ở các đồng minh phương Tây và thậm chí cả Ukraine về mối đe dọa sắp xảy ra từ Mátxcơva. Việc tiết lộ thông tin có chọn lọc và liên tục, thường được tăng cường bởi thông tin nguồn mở đáng kể (mặc dù có lẽ không phải lúc nào cũng do lập kế hoạch trước hoặc cố ý), đã tìm cách xoa dịu những nghi ngờ của các đồng minh về mối đe dọa sắp xảy ra. Điều này góp phần vào mục tiêu phụ là bắt đầu quá trình huy động phản ứng tập thể của đồng minh sau cuộc xâm lược. Với mục đích này, nỗ lực đã thành công rõ ràng.

1701598457221.png

Quân đội Nga tại biên giới Nga-Ukraine cuối năm 2021, đầu năm 2022

Trong suốt mùa đông năm 2021 và những tháng đầu năm 2022, Mỹ đã nêu rõ các dấu hiệu và cảnh báo đều đặn về các ý định và kế hoạch có thể xảy ra của Nga đối với Ukraine. Vào tháng 12 năm 2021, một quan chức chính quyền giấu tên đã cảnh báo: “Kế hoạch của Nga kêu gọi một cuộc tấn công quân sự chống lại Ukraine sớm nhất là vào đầu năm 2022 với quy mô lực lượng gấp đôi những gì chúng ta đã thấy vào mùa xuân vừa qua trong cuộc tập trận chớp nhoáng của Nga gần biên giới Ukraine”. Họ nói thêm: “Các kế hoạch bao gồm việc di chuyển quy mô lớn 100 nhóm chiến thuật cấp tiểu đoàn với quân số ước tính 175.000 người, cùng với xe tăng, pháo binh và trang thiết bị.” Đây là một nỗ lực phối hợp nhằm chuẩn bị cho các chiến trường dư luận và hoạch định chính sách tư nhân bằng thông tin tình báo.

1701598500371.png

Quân đội Nga tại biên giới Nga-Ukraine cuối năm 2021, đầu năm 2022

Bằng cách tiết lộ thông tin tình báo nhạy cảm - thậm chí có thể gây rủi ro cho các nguồn và phương pháp - Mỹ đã báo hiệu cho Nga rằng họ biết trước kế hoạch và ý định của mình, do đó có thể đạt được hiệu quả ngăn chặn. Sau khi đặt quân bài lên bàn về những gì cộng đồng tình báo biết, Chính quyền Biden đã thông báo về những hậu quả có thể xảy ra nếu Mátxcơva chọn hành động theo kế hoạch. Theo Cố vấn An ninh Quốc gia Jake Sullivan, để cố gắng răn đe Putin, họ “cần cử ai đó đến Mátxcơva để ngồi với người Nga ở cấp cao hơn và nói với họ: 'Nếu các bạn làm điều này, đây sẽ là những hậu quả.'” Về phần mình Tổng thống Biden nói: “Những gì tôi đang làm là tổng hợp những gì tôi tin là sẽ là tập hợp các sáng kiến toàn diện và có ý nghĩa nhất để khiến ông Putin rất, rất khó có thể tiếp tục triển khai kế hoạch của mình và làm những gì mọi người đang lo ngại là ông ấy có thể làm”.

....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Những nỗ lực ngăn chặn Nga có hiệu quả như thế nào vẫn là một câu hỏi mở. Nó có hiệu quả trong việc đi trước các chiến dịch bóp méo thông tin - các hoạt động được thiết kế để có vẻ như được thực hiện bởi một chủ thể khác - và tiết lộ những hành động khiêu khích mà Mátxcơva dự định thực hiện để làm nguyên nhân gây chiến cho chiến dịch quân sự của mình. Có vẻ như những cảnh báo của Mỹ về những hành động khiêu khích sắp xảy ra đã ngăn cản Nga hành động theo những kế hoạch đó. Thực hiện một cuộc tấn công như vậy sau khi sự việc đã xảy ra sẽ bị ảnh hưởng bởi cảnh báo trước. Điều này cho thấy rằng Nga cần có hành động khiêu khích ngay từ đầu và/hoặc phương Tây là đối tượng chính của hành động khiêu khích nói trên.

Những tiết lộ của tình báo Mỹ không làm thay đổi kế hoạch của ông Putin nhằm mở rộng cuộc xâm lược Ukraine. Tuy nhiên, chúng đã giúp thay đổi môi trường thông tin nơi cuộc chiến của ông diễn ra. Bằng cách tiết lộ thông tin tình báo trước cuộc tiến công, phương Tây đã làm suy yếu nguyên nhân gây chiến bề ngoài của Nga, loại bỏ những hành động khiêu khích tiềm ẩn có thể biện minh cho chiến dịch quân sự và buộc Điện Kremlin phải dựng lên những câu chuyện ngày càng phát triển cho cả khán giả trong và ngoài nước, việc phát triển chúng cần có thời gian và công sức. và điều này cuối cùng đã mang lại rất ít lợi ích cho Nga, theo ước tính của phương Tây.

1701598587680.png

Quân đội Nga tại biên giới Nga-Ukraine cuối năm 2021, đầu năm 2022

Trong khi hiệu quả cuối cùng của nỗ lực tình báo tổng thể vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi - đặc biệt là khi rất khó để chứng minh một kết quả tiêu cực hoặc phản thực tế - thì có thể thấy rằng một số xu hướng nhất định đã đoán ra từ trước. Nỗ lực của Mỹ nhằm thuyết phục các đồng minh của mình rằng mối đe dọa từ Nga sắp xảy ra dường như ít nhất đã đặt nền móng cho một phản ứng nhanh chóng hơn trước hành động gây hấn của Mátxcơva so với những gì lẽ ra có thể đã xảy ra. Rõ ràng từ báo cáo trên tờ Washington Post và những nguồn khác cho thấy rằng nỗ lực này không hề suôn sẻ. Đôi khi, Mỹ gặp khó khăn trong việc thuyết phục các đồng minh của mình (ngoài Vương quốc Anh và các nước vùng Baltic), và thậm chí cả Ukraine, về mức độ nghiêm trọng của mối đe dọa. Điều này có lẽ không có gì đáng ngạc nhiên vì có những đánh giá khác nhau về mối đe dọa từ Nga. Những nghi ngờ về tình báo Mỹ giữa các đồng minh cũng phản ánh những điểm yếu tương đương về khả năng tiếp cận và thâm nhập của các cơ quan tình báo của họ đối với các cơ quan an ninh Nga.

Quả thực, thành tích của Mỹ trước cuộc Chiến tranh Ukraine, về nhiều mặt, trái ngược với việc sử dụng thông tin tình báo một cách thiếu sót trước cuộc xâm lược Iraq năm 2003. Cộng đồng tình báo Mỹ được coi là đã bị ảnh hưởng quá mức bởi sự nhiệt tình của một số thành viên trong chính Chính quyền Bush khi xâm lược Iraq, những người này đã sử dụng thông tin tình báo có chọn lọc để đưa ra lý do xâm lược. Việc không tìm thấy vũ khí hủy diệt hàng loạt ở Iraq và sự hỗn loạn sau đó dẫn đến việc lật đổ Saddam Hussein được coi là vết nhơ đối với uy tín của tình báo Mỹ. Do đó, trong trường hợp Ukraine, Đức và Pháp đặc biệt nghi ngờ những tuyên bố của Mỹ về ý định của Nga, đặc biệt sau khi Washington từ chối chia sẻ tất cả thông tin tình báo có sẵn liên quan đến các mục tiêu của Mátxcơva.

1701598644357.png

Quân đội Nga tại biên giới Nga-Ukraine cuối năm 2021, đầu năm 2022

Trên thực tế, sẽ là ngây thơ nếu kỳ vọng rằng việc tiết lộ có chọn lọc thông tin tình báo của Mỹ và đồng minh cuối cùng sẽ ngăn cản Nga hành động. Khó có khả năng bất kỳ mức độ can ngăn nào - công khai hay riêng tư - có thể ngăn chặn được động thái tham chiến của Nga. Trong trường hợp tốt nhất, nó có thể trì hoãn hoặc làm gián đoạn các yếu tố trong kế hoạch của Điện Kremlin, nhưng sẽ là quá đáng nếu kỳ vọng rằng nó sẽ ngăn chặn được một cuộc xâm lược sắp xảy ra. Nếu có những kỳ vọng rằng những tiết lộ tình báo có chọn lọc sẽ ngăn chặn chiến tranh thì có thể đó là kết quả của việc giả định quá nhiều về khả năng của phương Tây và quá ít về ý định của Tổng thống Putin. Cần khẳng định rằng, có rất ít điều mà Mỹ hoặc các nước phương Tây có thể làm để ngăn cản Mátxcơva hành động, ngoại trừ việc Kyiv đầu hàng hoàn toàn.

Đối với thế giới rộng lớn hơn, nỗ lực sử dụng thông tin tình báo để kiểm soát thông tin về Chiến tranh Ukraine tỏ ra kém thành công rõ rệt và vẫn là một thách thức cho đến ngày nay. Trong khi người ta tranh cãi liệu có giá trị cao trong việc thuyết phục Nam bán cầu về mối đe dọa sắp xảy ra hay sự cần thiết phải đáp trả việc Nga xâm lược Ukraine, thì thông điệp tới Trung Quốc và Ấn Độ có tầm quan trọng đặc biệt. Với mối quan hệ tương đối bền chặt của cả Delhi và Bắc Kinh với Mátxcơva, tiếng nói của họ trên trường quốc tế có ý nghĩa quan trọng - đặc biệt là khi những lời kêu gọi giải quyết cuộc khủng hoảng hiện đang gia tăng.

1701598690341.png

Quân đội Nga tại biên giới Nga-Ukraine cuối năm 2021, đầu năm 2022

......
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Tình báo trong chính sách và ngoại giao

Việc sử dụng thông tin tình báo để thông báo chính sách theo cách truyền tải thông điệp không phải là một sự phát triển mới. Mỹ, và thực tế là tất cả các cường quốc, đã tìm cách sử dụng thông tin tình báo ở mọi cấp độ xung đột chính trị và quân sự để can ngăn đối thủ, thuyết phục các đồng minh hoặc giao tiếp với công chúng một cách rộng rãi hơn. Ngay cả việc sử dụng thông tin tình báo nhạy cảm – thu được thông qua các phương tiện hiện đại hoặc thông qua các nguồn cấp cao – để hỗ trợ các mục tiêu chính sách, bản thân nó cũng không phải là một bước phát triển mới.

1701598806169.png

Hình ảnh do máy bay U-2 chụp đượ khu vực nạp tên lửa của LX tại Cuba năm 1962

Chẳng hạn, Mỹ đã giải mật những bức ảnh do máy bay U-2 thu được trong Cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba và sử dụng những bức ảnh này trong bài phát biểu của Adlai Stevenson trước Liên Hợp Quốc. Mỹ và Vương quốc Anh cũng đã thực hiện những nỗ lực sâu rộng để làm sạch và tiết lộ thông tin thông qua các phương tiện không chính thức trong Chiến tranh Lạnh, ví dụ: cung cấp có chọn lọc thông tin tình báo cho các tổ chức thân thiện, các viện nghiên cứu và các nhóm hoạt động vô tình. Sau vụ đánh bom vũ trường La Belle ở Tây Berlin năm 1986, Washington đã sử dụng các tín hiệu thu thập thông tin tình báo đã được giải mật để chứng minh trường hợp Libya của Muammar al-Qaddafi phải chịu trách nhiệm. Gần đây hơn, và có lẽ gây tranh cãi nhất, Mỹ đã sử dụng điệp báo có giá trị đáng ngờ trước cuộc xâm lược Iraq năm 2003 vì chương trình vũ khí hủy diệt hàng loạt (WMD) của Baghdad.

1701599024187.png

Mỹ và Anh không tìm thấy vũ khí hủy diệt tại Iraq

Thật vậy, sau hậu quả của hoạt động tình báo thất bại liên quan đến chương trình WMD của Iraq, một số đánh giá đã được thực hiện để đánh giá xem điều gì đã sai, sai sót như thế nào và đưa ra khuyến nghị cho tương lai. Cần có sự cân bằng cẩn thận giữa việc cung cấp thông tin tình báo để đánh giá và việc sử dụng thông tin đó trong hoạch định chính sách. Thông thường, trường hợp sau bỏ qua những cảnh báo trước, những cảnh báo cực kỳ quan trọng để trình bày chính xác thông tin được đề cập. Tại Vương quốc Anh, “Đánh giá tình báo về vũ khí hủy diệt hàng loạt”, còn được gọi là Báo cáo Butler, cho thấy:

Nếu tình báo được các chính phủ sử dụng rộng rãi hơn trong các cuộc tranh luận công khai trong tương lai, thì những người làm như vậy phải cẩn thận giải thích cách sử dụng và những hạn chế của nó. Điều cần thiết nữa là phải thiết lập các ranh giới phân chia rõ ràng và hiệu quả hơn giữa đánh giá và vận động khi thực hiện việc này.

1701599082141.png

Mỹ và Anh không tìm thấy vũ khí hủy diệt tại Iraq

Báo cáo Điều tra Iraq, còn được gọi là Báo cáo Chilcot, lặp lại kết luận này, phát hiện ra rằng, “Các tuyên bố được Chính phủ Anh chuẩn bị và sử dụng trước công chúng từ cuối năm 2001 trở đi đã mang lại sự chắc chắn hơn so với các Đánh giá của [Ủy ban Tình báo Liên quân] về Các hoạt động bị cấm của Iraq và mối đe dọa tiềm ẩn mà chúng gây ra”. Theo nhiều cách, như được thảo luận dưới đây, việc sử dụng thông tin tình báo ở Ukraine đã phản ánh những bài học này.

.....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Rủi ro đối với nguồn và phương pháp

Có lẽ vấn đề quan trọng nhất do phương Tây sử dụng thông tin tình báo trong cuộc khủng hoảng gần đây nhất này là sự căng thẳng giữa việc bảo vệ các nguồn và phương pháp cũng như lợi ích của thông tin tình báo thu thập được. Đây không phải là một thử thách mới. Có sự cân bằng tốt giữa nhiệm vụ của sĩ quan tình báo là đảm bảo sự bảo vệ cho đặc vụ của họ hoặc việc bảo vệ tình báo mạng đối với một hoạt động khai thác hoặc lỗ hổng bảo mật duy nhất và nhu cầu thông báo cho các nhà hoạch định chính sách, những người sau đó tìm cách định hình môi trường chính trị và ngoại giao. Bất cứ khi nào thông tin tình báo được làm rõ và công bố, sẽ có nguy cơ nâng cao nhận thức của đối thủ về khả năng và dẫn đến việc mất tài sản hoặc hoạt động khai thác đó.

Luôn có và sẽ có những lo ngại về rủi ro đối với các nguồn và phương pháp - đó là quy tắc cơ bản của việc thu thập thông tin tình báo: bảo vệ các điệp viên và năng lực. Tuy nhiên, theo lời của một cựu sĩ quan tình báo cấp cao, điều đó có thể dẫn đến một sai lầm. Có nguy cơ là sự nhiệt tình bảo vệ các nguồn và phương pháp có thể hạn chế tiện ích đi kèm của chúng. Bảo vệ quá nhiều sẽ làm giảm tiện ích của chúng, sử dụng quá nhiều sẽ có nguy cơ bị lộ và mất mát. Điều này có thể tránh được bằng cách tiết lộ thông tin một cách thận trọng và có chọn lọc, nhưng nó vẫn là sự cân bằng tinh tế giữa tính bảo vệ và tính hữu ích.

1701599181528.png

LLVT Nga tập trung tại biên giới Nga-Ukraine cuối 2021, đầu 2022

Chắc chắn, trong cuộc đối đầu với Ukraine, có vẻ như Chính quyền Biden đã sẵn sàng sai lầm về mặt lợi ích hơn là bảo vệ. Những tiết lộ của chính quyền về khả năng và ý định của Nga rất ấn tượng vì tính cụ thể của chúng. Ví dụ:

• “Các thông tin liên lạc bị chặn mà Mỹ thu được đã tiết lộ rằng một số quan chức Nga lo ngại rằng một cuộc xâm lược quy mô lớn vào Ukraine sẽ tốn kém và khó khăn hơn những gì Tổng thống Nga Vladimir Putin và các nhà lãnh đạo Điện Kremlin khác nhận thấy, theo bốn người quen thuộc với thông tin tình báo”.

• Phát biểu với tờ New York Times, một quan chức Mỹ lưu ý rằng “Mỹ đã thu được thông tin tình báo về kế hoạch của Nga nhằm tạo ra cái cớ cho cuộc xâm lược Ukraine bằng cách sử dụng một video giả mạo được xây dựng dựa trên các chiến dịch thông tin sai lệch gần đây”.

• “Theo các quan chức Mỹ, Cộng đồng tình báo Mỹ đã thâm nhập vào nhiều điểm trong giới lãnh đạo chính trị, bộ máy gián điệp và quân đội của Nga, từ cấp cao đến tiền tuyến”.

Thông tin tình báo này chỉ có thể có được thông qua hoạt động thâm nhập cấp cao hoặc mạng lưới liên lạc của Nga bị xâm phạm. Chính việc tiết lộ thông tin này, dù đã được làm sạch, có thể gây nguy hiểm cho quyền truy cập của tác nhân được đề cập hoặc lỗ hổng hoặc hoạt động khai thác bị lợi dụng. Trong khi có lập luận được đưa ra rằng Nga và các nước khác có thể cho rằng ở một mức độ nào đó họ phải chịu sự giám sát gần như liên tục - đã cố gắng hoặc thành công - thì tính chất cụ thể của cảnh báo (nếu Mátxcơva chú ý) có thể sẽ gây lo ngại. Không còn nghi ngờ gì nữa, Mátxcơva đã hoặc sẽ khởi động một nỗ lực phản gián mạnh mẽ để xác định nguồn thông tin mà Mỹ sử dụng. Nếu thành công, việc khai thác hoặc điệp viên đó có thể bị “đốt cháy” theo cách nói của tình báo và không còn hữu ích nữa.

1701599248216.png

LLVT Nga tập trung tại biên giới Nga-Ukraine cuối 2021, đầu 2022

Có thể, mặc dù ít hợp lý hơn nhiều, là cộng đồng tình báo muốn tạo ấn tượng rằng họ có hiểu biết sâu sắc về quá trình ra quyết định của Nga trong khi trên thực tế, họ không gieo rắc nghi ngờ và nhầm lẫn. Mặc dù có thể tạo ra những thông tin tình báo như vậy, nhưng làm như vậy gần như chắc chắn sẽ bị người Nga hoặc đồng minh vạch trần và chắc chắn sẽ làm xói mòn uy tín của cộng đồng vào thời điểm mà uy tín đó rất quan trọng giữa các đồng minh.

Trong trường hợp của Ukraine, rõ ràng là tính cấp bách của mối đe dọa và nhu cầu huy động sự hỗ trợ của đồng minh đã lấn át một số, nhưng không phải tất cả, những lo ngại về nguồn gốc và phương pháp. Như tờ Washington Post đã đưa tin và đã thảo luận ở trên, Mỹ đã tiết lộ một số thông tin tình báo liên quan đến những gì họ biết về ý định của Nga, nhưng không cung cấp các thông tin tình báo thô hoặc báo cáo thu thập được cho nhiều đồng minh châu Âu của mình. Sự thận trọng này không có gì đáng ngạc nhiên, vì những thông tin như vậy bị hạn chế ngay cả trong Nhóm Ngũ nhãn (Five Eyes). Mặc dù đây chắc chắn là một động thái thận trọng, nhưng nó đã làm dấy lên sự hoài nghi hiện có về chất lượng và tính xác thực của thông tin tình báo Mỹ, đồng thời chắc chắn làm dấy lên mối lo ngại từ Berlin và Paris về việc chính trị hóa các thông tin tình báo nói trên (đặc biệt là trước sự hoài nghi từ trước của họ về mối đe dọa từ Nga). và có khả năng hạn chế quyền tiếp cận của các cơ quan tình báo của họ vào Điện Kremlin).

1701599322076.png

LLVT Nga tập trung tại biên giới Nga-Ukraine cuối 2021, đầu 2022

.....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Xác thực nguồn mở

Trong trường hợp Nga tiến công Ukraine, Mỹ và Vương quốc Anh đã được hưởng một lợi thế ở cấp độ chưa từng có trong các cuộc khủng hoảng trước đây: thông tin tình báo nguồn mở. Trong suốt thời gian chuẩn bị cho cuộc tiến công quy mô lớn của Nga vào Ukraine, đã có và hiện vẫn còn một cơ quan phân tích tình báo nguồn mở mạnh mẽ. Bắt nguồn từ các công cụ có sẵn công khai, hình ảnh vệ tinh thương mại và đội ngũ thám tử truyền thông xã hội tận tâm, cộng đồng nguồn mở đóng vai trò là người xác thực bên ngoài hoặc kiểm chứng một số tuyên bố của Mỹ và Vương quốc Anh. Những tuyên bố của chính phủ về các hoạt động huy động, ít nhất ở cấp độ vĩ mô, có thể được xác minh dựa trên những gì hình ảnh thương mại tiết lộ và thông qua phân tích đối chiếu từ các nhóm như Bellingcat. Việc xác thực thêm thông tin này có thể thấy thông qua các kênh truyền thông xã hội như Telegram - các hoạt động di chuyển của quân đội có thể được theo dõi thông qua nội dung các cuộc trò chuyện của binh lính Nga và sự quan sát của cộng đồng mà các đơn vị di chuyển qua đó. Theo các báo cáo, có lẽ điều thú vị nhất là hoạt động di chuyển của binh lính Nga được theo dõi thông qua việc họ sử dụng các ứng dụng hẹn hò.

1701599400961.png

LLVT Nga tập trung tại biên giới Nga-Ukraine cuối 2021, đầu 2022

Thông tin nguồn mở mạnh mẽ đóng vai trò kiểm tra bán minh bạch đối với thông tin do chính phủ công bố. Bellingcat và những người khác chứng minh công việc của họ, công khai nó cho công chúng giám sát theo cách mà cộng đồng tình báo của Mỹ và Vương quốc Anh không thể và gần như chắc chắn sẽ không làm. Tuy nhiên, có những rủi ro đi kèm khi dựa vào những nhà phân tích tình báo nghiệp dư và bán chuyên nghiệp có thiện chí này. Có một chất lượng không đồng đều đối với cộng đồng nguồn mở - không phải mọi tổ chức đều là Bellingcat và không phải lúc nào cũng có sự khôn ngoan trong đám đông. Về lý thuyết, bản chất thị trường tự do của cộng đồng này mang lại sự kiểm tra về chất lượng phân tích. Các cơ quan truyền thông gây hiểu lầm, định hướng sai hoặc rao bán thông tin không chính xác sẽ bị loại bỏ và trừng phạt nếu hệ thống hoạt động như dự định.

Theo một cựu sĩ quan điều hành Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA), trong trường hợp của Ukraine, Mỹ có lợi thế lớn nhất ở chỗ sự thật đứng về phía họ và sự thật này đã được xác thực bằng phân tích nguồn mở. Mặc dù tình báo nguồn mở chắc chắn là một sự phát triển mới và phụ thuộc vào các công nghệ vẫn còn ở giai đoạn sơ khai trong nhiều trường hợp, nhưng vẫn có nguy cơ tự đáp ứng những kỳ vọng. Các cuộc kiểm chứng bên ngoài như Bellingcat và những tổ chức khác đã và đang hữu ích trong cuộc khủng hoảng hiện nay, nhưng chỉ ở một mức độ nào đó. Trong tương lai, những cuộc kiểm chứng bên ngoài này sẽ cung cấp tính xác thực cho thông tin của phương Tây trong một số trường hợp và trong một số trường hợp khác, nó sẽ mâu thuẫn với thông tin do tình báo phương Tây cung cấp. Theo nghĩa này, bản thân cộng đồng nguồn mở có thể trở thành một phần của địa hình chiến tranh thông tin cạnh tranh trong tương lai. Mặc dù phương Tây có lợi thế về sự thật nhưng điều đó không nhất thiết phải luôn như vậy. Các nỗ lực chống tình báo nguồn mở cũng có thể xuất hiện, hoặc thông qua sự tài trợ trực tiếp của nhà nước đối với các tổ chức - một dạng chống Bellingcat - hoặc thâm nhập vào các tổ chức hiện có.

1701599431036.png

LLVT Nga tập trung tại biên giới Nga-Ukraine cuối 2021, đầu 2022

Hơn nữa, mặc dù cộng đồng nguồn mở đã hoạt động đáng ngưỡng mộ trong nhiều trường hợp, nhưng vẫn có những giới hạn đối với những gì nó có thể xác minh. Chính phủ sẽ vẫn giữ lại các công cụ hiện đại vượt quá khả năng của các nhà phân tích nguồn mở để khẳng định hoặc xác nhận. Trong tương lai, tình báo nguồn mở sẽ có thể chứng thực sự hiện diện của các lực lượng và sự di chuyển của các lực lượng đó, hoặc thậm chí tiến hành các cuộc điều tra tình báo quy mô nhỏ của riêng họ - ví dụ: xác định danh tính các sĩ quan GRU chịu trách nhiệm về vụ đầu độc Novichok ở Salisbury, Anh. Tuy nhiên, nó sẽ không thể đoán được ý định của những người ở Điện Kremlin (hoặc trong tương lai, có lẽ ở Trung Nam Hải ở Bắc Kinh). Đây sẽ vẫn là công việc đặc trưng không thể thay thế của cộng đồng tình báo.

Ngoài ra còn có câu hỏi là điều gì sẽ xảy ra nếu thông tin tình báo nguồn mở mâu thuẫn với các nguồn thông tin chính thức của chính phủ. Cuộc tiến công mở rộng của Nga vào tháng 2 năm 2022 đã tạo ra một thử nghiệm hoàn hảo về thời điểm mọi việc diễn ra suôn sẻ cũng như thời điểm sự thật và lợi ích được liên kết liền mạch. Sự liên kết như vậy sẽ không phải lúc nào cũng đúng. Các chính phủ chắc chắn sẽ có thông tin mà cộng đồng nguồn mở không thể truy cập được. Cũng sẽ có lúc các chính phủ quan tâm đến việc theo đuổi một chính sách và sử dụng thông tin tình báo một cách có chọn lọc để hỗ trợ chính sách đó, điều này có thể dẫn đến mâu thuẫn với cộng đồng nguồn mở. Bình phương sự khác biệt này sẽ là một thách thức vì tất cả đều được đưa vào hệ sinh thái thông tin rộng lớn hơn; ví dụ: một cộng đồng nguồn mở đáng tin cậy không đồng ý với đánh giá của chính phủ, giới truyền thông xoáy vào sự bất đồng nói trên, giới truyền thông đặt câu hỏi về đánh giá của chính phủ, v.v.

1701599479716.png

LLVT Nga tập trung tại biên giới Nga-Ukraine cuối 2021, đầu 2022

Vì vậy, câu hỏi về tính hữu ích chắc chắn sẽ xuất hiện sau đó. Cộng đồng nguồn mở đã được chứng minh là một trợ thủ đặc biệt hữu ích trong cuộc khủng hoảng hiện nay, nhưng chỉ là trợ giúp hữu ích cho cơ quan chính trị phương Tây. Đối với Nga, Trung Quốc, Ấn Độ và Nam bán cầu, thực tế là Bellingcat và các cơ quan nguồn mở khác xác minh thông tin tình báo của phương Tây ít quan trọng hơn nhiều, cũng như bản thân thông tin tình báo đó. Trên thực tế, trên phạm vi toàn cầu, tình báo nguồn mở có thể đang cạnh tranh trong một môi trường thông tin có nhiều tranh cãi hơn. Đã có vô số cáo buộc rằng Bellingcat và những tổ chức khác chỉ đơn thuần là cánh tay của CIA hoặc Cơ quan Tình báo Đặc biệt, khiến những người có xu hướng nghi ngờ những tuyên bố của họ coi chúng là nguồn tuyên truyền của phương Tây, không khác gì tuyên bố do Mátxcơva đưa ra. Với sự hỗ trợ của Chiến tranh Lạnh của Mỹ và Vương quốc Anh đối với các phong trào bất đồng chính kiến, các viện nghiên cứu và các cơ quan báo chí, những tuyên bố như vậy không phải là không có cơ sở lịch sử, cho dù ngày nay chúng vẫn còn đáng nghi ngờ.

.....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Tương lai của tình báo như một hiệu ứng

Có xu hướng tin rằng hoạt động của phương Tây trước Chiến tranh Ukraine sẽ trở thành chuẩn mực trong tương lai - nói cách khác, việc tiết lộ thường xuyên các thông tin tình báo nhạy cảm đã được làm sạch sẽ trở nên phổ biến. Mặc dù không hoàn toàn sai lầm nhưng điều quan trọng cần nhớ là tình hình ở Ukraine là duy nhất. Trong khúc dạo đầu cho cuộc chiến tranh lớn nhất ở châu Âu kể từ Chiến tranh Thế giới lần thứ II, Washington và các đồng minh tin rằng mọi biện pháp và bước đi đều cần thiết. Đó là một cuộc khủng hoảng trong đó Mỹ đang nỗ lực thuyết phục các đồng minh của mình về một mối nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu, và ở mức độ thấp hơn, nhằm cố gắng ngăn cản Nga thực hiện hành động của mình.

Nếu hi vọng Mỹ và các đồng minh sẽ cố gắng liên lạc hoặc gửi tín hiệu thông qua việc sử dụng thông tin tình báo chiến lược theo cách tương tự trong mọi cuộc khủng hoảng trong tương lai thì sẽ là sai lầm. Phổ biến rộng rãi thông tin tình báo chiến lược có thể là một công cụ hữu ích, nhưng như nhà sử học tình báo Rory Cormac của Đại học Nottingham đã nói, nó không phải là một viên đạn ma thuật. Giám đốc CIA William Burns có quan điểm tương tự như vậy, khi nói rằng: “Tôi nghĩ chúng ta sẽ phải cẩn thận xem xét trong các trường hợp khác, cho dù đó là các mối đe dọa mạng hay các loại thách thức khác mà Mỹ và các đồng minh của chúng ta sẽ phải đối mặt trong tương lai".

1701663038576.png

LLVT Nga tập kết gần biên giới Ukraine cuối 2021, đầu 2022

Ngoài ra còn có nguy cơ quá tự tin khẳng định thông tin sau nỗ lực thành công ơ Ukraine. Chiến dịch thuyết phục các đồng minh châu Âu còn hoài nghi đã thành công ở một mức độ nào đó nhờ một phần không nhỏ vào tính chính xác của thông tin và thực tế là Chính quyền Biden đã và đang được coi là nhà môi giới trung thực hoặc nguồn đáng tin cậy. Nếu Cộng đồng Tình báo hiểu sai trong tương lai, hoặc nếu thông tin tình báo bị coi là được sử dụng để hỗ trợ mục đích chính trị, như trường hợp năm 2002 và 2003 với Iraq, thì thiện chí đó sẽ nhanh chóng bị xói mòn. Thông tin tình báo không hoàn hảo - theo lời của một cựu sĩ quan tác chiến, nó không bao giờ được xác nhận, nó chỉ được chứng thực, xây dựng một bức tranh chưa hoàn chỉnh và bổ sung những phần còn thiếu bằng phân tích.

Theo podcaster Sarah Bils, các tài khoản mạng xã hội Donbass Devushka là những tài khoản thân Nga, sử dụng tiếng Anh lớn nhất tham gia vào “chiến tranh thông tin kiểu Nga”.

Mặc dù việc phổ biến thông tin tình báo ra công chúng có thể không trở thành điều “bình thường mới”, nhưng nó cũng khó có thể là sự phát triển chỉ xảy ra một lần. Hiệu quả của nó trong cuộc khủng hoảng này có thể báo trước một sự thay đổi trong thái độ của cộng đồng tình báo. Con lắc có thể đã tránh xa việc tích trữ thông tin tình báo và ác cảm với rủi ro. Thay vào đó, Mỹ và phương Tây sau đó có thể sử dụng thông tin tình báo thường xuyên hơn một cách công khai.

Tuy nhiên, cũng có nguy cơ là các nhà hoạch định chính sách và công chúng nói chung mong đợi đây sẽ là “điều bình thường mới”. Đại diện của Bộ Quốc phòng Vương quốc Anh (MoD) lưu ý rằng họ không mong đợi các chủ đề Twitter của họ về cuộc xung đột Ukraine sẽ trở nên phổ biến hoặc được tìm kiếm rộng rãi như những gì đã diễn ra. Nhóm MoD nhanh chóng trở thành nạn nhân của sự thành công của chính mình, với các nhà báo, bộ trưởng và công chúng đều yêu cầu có những bản thông tin cập nhật mới nhất. Điều này buộc nhóm phải nhanh chóng bố trí nhân sự để hỗ trợ nỗ lực này, một hoạt động vốn chỉ nhằm mục đích là một hoạt động tạm thời (thực sự, kể từ khi soạn thảo bài viét này, việc đăng nội dung gần như hàng ngày vẫn tiếp tục). Điều này tạo ra một động lực rủi ro – không phải mọi cuộc khủng hoảng đều tương tự như ở Ukraine và cũng nhận được sự chú ý tương tự – và việc giải quyết động lực đó sẽ đòi hỏi phải hoạch định chính sách cẩn thận và sắc sảo.

1701663352265.png

LLVT Nga tập kết gần biên giới Ukraine cuối 2021, đầu 2022

Một rủi ro khác là việc trộn lẫn việc sử dụng thông tin tình báo của công chúng với các hoạt động công vụ. Cái trước đòi hỏi sắc thái và bối cảnh, trong khi cái sau đòi hỏi cốt lõi và thường gay gắt, điều này loại bỏ sự cẩn thận cần thiết trong các sản phẩm tình báo. Đạt được sự cân bằng hợp lý giữa hai điều này sẽ mang lại cả thách thức và rủi ro. Quản lý kỳ vọng của cả công chúng và các chính trị gia cũng sẽ rất quan trọng. Đơn giản chỉ vì có một chủ đề khó hiểu trên Twitter về cuộc khủng hoảng hiện nay không có nghĩa là vấn đề này không nghiêm trọng hoặc chính phủ thiếu hiểu biết sâu sắc về những gì đang xảy ra.

Để đạt được sự cân bằng hợp lý giữa thông tin tình báo được các nhà hoạch định chính sách sử dụng để vận động chính sách và thông tin tình báo do cộng đồng cung cấp để đánh giá, sẽ đòi hỏi sự chú ý và thẩm định liên tục. Báo cáo của Butler nhấn mạnh sự căng thẳng này trong trường hợp của chính phủ với công chúng Anh liên quan đến chương trình vũ khí hủy diệt hàng loạt của Iraq:

Chính phủ muốn có một tài liệu công khai để có công bố nhằm tạo ra sự ủng hộ cho chính sách của mình. Cộng đồng tình báo Liên quân (JIC) tìm cách đưa ra đánh giá khách quan về thông tin tình báo và các tài liệu khác về các chương trình tên lửa đạn đạo, sinh học, hóa học và hạt nhân của Iraq…. Nhưng điều này sẽ gây áp lực lên họ trong việc tìm cách duy trì các tiêu chuẩn bình thường về đánh giá trung lập và khách quan.

Liệu Mỹ và phương Tây có rơi vào tình huống khủng hoảng tương tự, đòi hỏi phải thực hiện một chiến dịch tương tự để công khai thông tin tình báo chiến lược trong tương lai? Gần như chắc chắn. Trước nguy cơ Trung Quốc có thể xâm lược Đài Loan, Mỹ gần như chắc chắn sẽ tiết lộ thông tin tình báo một cách có chọn lọc cho các đồng minh trong khu vực và cho công chúng một cách rộng rãi hơn. Việc tiết lộ như vậy có thể diễn ra theo mô hình tương tự như cuộc đối đầu với Ukraine - một chiến dịch liên lạc riêng tư tích cực với các đồng minh trong khu vực và Bắc Kinh, được hỗ trợ bởi thông tin tình báo cấp cao đã được làm rõ để thuyết phục các nhà hoạch định chính sách về mối đe dọa sắp xảy ra (và nhận thức của phương Tây về vấn đề này), được hỗ trợ bởi một chiến dịch truyền tín hiệu và truyền thông công cộng. Một lần nữa, mục tiêu chủ yếu không chỉ là răn đe. Trong trường hợp đó, khó có khả năng Bắc Kinh có thể bị ngăn cản mà không triển khai kế hoạch hành động đã được quyết định của mình. Đúng hơn, những tiết lộ như vậy sẽ tìm cách thuyết phục các đồng minh trong khu vực và phương Tây về mối đe dọa nhằm huy động sự ủng hộ của họ.

1701663555406.png

LLVT Nga tiến vào Ukraine tháng 2-2022

....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Chính trị của tình báo như một hiệu ứng

Hành vi của Chính quyền Biden trước cuộc tiến công quy mô lớn vào Ukraine là một ví dụ về việc sử dụng thông tin tình báo nhạy cảm một cách chuyên nghiệp và có chừng mực để đạt được hiệu quả mong muốn. Chính quyền, với uy tín của mình, khá tự tin trong việc thực hành, khai thác và sử dụng thông tin tình báo cũng như những vấn đề nhạy cảm liên quan.

Trong tương lai, điều này có thể không phải lúc nào cũng đúng. Có thể các chính quyền trong tương lai sẽ không thành thạo và hiểu biết về việc sử dụng thông tin tình báo cũng như quy trình tạo ra thông tin đó hoặc thiếu thận trọng trong việc sử dụng thông tin đó. Căng thẳng gia tăng giữa cộng đồng tình báo với các quan chức được bầu và những chính trị gia được bổ nhiệm không nằm ngoài khả năng có thể xảy ra. Lịch sử gần đây đã chứng minh những căng thẳng nghiêm trọng giữa Nhà Trắng và cộng đồng tình báo phi chính trị hơn. Nhiệm vụ của các nhà phân tích và quan chức là phải thông báo cho các nhà hoạch định chính sách về những hạn chế của thông tin tình báo. Đây là phát hiện quan trọng trong “Báo cáo về Đánh giá tình báo trước chiến tranh của Cộng đồng Tình báo Mỹ về Iraq” của Ủy ban Lựa chọn thông tin Tình báo Thượng viện. Ủy ban nhận thấy rằng “Cộng đồng Tình báo đã không giải thích chính xác hoặc thỏa đáng cho các nhà hoạch định chính sách về những điều không chắc chắn đằng sau các phán đoán trong Đánh giá Tình báo Quốc gia năm 2002”. Việc các nhà hoạch định chính sách có đọc Đánh giá Tình báo Quốc gia hay không lại là một vấn đề khác.

1701909469628.png

Liên quân đã thất bại trong thu thập tình báo tại Iraq

Sự thành công – được nhận thức hay thực tế – của các nỗ lực tình báo của Mỹ và Vương quốc Anh ở Ukraine có thể đã đặt ra những kỳ vọng về cả tính khả dụng và tiện ích lớn hơn nhiều so với kết quả đạt được. Điều này có thể tạo ra một chu kỳ áp lực gia tăng đối với thông tin tình báo có thể sử dụng công khai hơn trong cả kịch bản khủng hoảng và không khủng hoảng - những áp lực mà cộng đồng tình báo ở Washington và London có thể cảm thấy buộc phải đáp ứng. Thông tin lẽ ra cần được cung cấp thận trọng đã phải đưa ra công khia vì công chúng cũng như các chính trị gia đều có thể yêu cầu tăng cường thông tin tình báo để hỗ trợ hoặc biện minh cho các hành động của nhà nước.

Thật vậy, lấy một ví dụ, làm cách nào để tách biệt truyền thông xã hội với các tài liệu “Cập nhật tình báo” của Bộ Quốc phòng Vương quốc Anh? Liên quan đến chính trị quan liêu nội bộ, sự thành công của nỗ lực này có thể được coi là một cách để thúc đẩy lợi ích của giới lãnh đạo và tăng cường sự công khai chính trị cũng như các nguồn lực tiềm năng. Nó có thể trở thành “vật thể mới sáng bóng” trong bộ công cụ của chính phủ. Con đường đó có thể dễ dàng dẫn đến việc gia tăng chính trị hóa hoạt động tình báo, điều mà các cơ quan tình báo không thể chấp nhận được.

1701909579956.png

Liên quân đã thất bại trong thu thập tình báo tại Iraq

Sự căng thẳng giữa các nhà hoạch định chính sách và các chuyên gia tình báo không phải là mới hay duy nhất - nó là vấn đề cố hữu trong sự giằng co giữa chính trị và tình báo. Đây không phải là một thách thức chiến lược mà là một vấn đề mang tính chiến thuật. Như được thấy trong Báo cáo của Butler:

Chúng tôi cũng nhận ra rằng có một tình thế tiến thoái lưỡng nan thực sự giữa việc cung cấp cho công chúng một báo cáo chính thức về bức tranh tình báo và việc bảo vệ tính khách quan của Cộng đồng tình báo liên quân trước những áp lực do việc cung cấp thông tin cho các cuộc tranh luận công khai gây ra. Rất khó giải quyết các yêu cầu này. [nhấn mạnh thêm]

Quản lý thành công thông tin tình báo trong tương lai sẽ cần có những cân nhắc bổ sung để phản ánh môi trường mới này. Điều này ngày càng trở nên phù hợp trong lĩnh vực chiến tranh thông tin. Ví dụ, để đạt được mục tiêu này, một cựu đại diện cấp cao của Bộ Quốc phòng Mỹ đã đề xuất rằng chính phủ Mỹ và Vương quốc Anh nên thiết lập các hướng dẫn rõ ràng về việc sử dụng thông tin tình báo trong không gian công cộng, đặc biệt là trong bối cảnh chiến tranh thông tin. Một lần nữa, đây không phải là một sự phát triển mới lạ mà là một phản ứng đối với sự phát triển của cả tốc độ của các sự kiện và hệ sinh thái thông tin rộng lớn hơn.

Hiệu quả của những nỗ lực của Chính quyền Biden nhằm thuyết phục các đồng minh về mối đe dọa từ Nga một phần không nhỏ nhờ tính kỷ luật của nỗ lực nhắn tin. Cả thông điệp công khai và riêng tư đều được gửi đến những đối tượng cụ thể. Trong trường hợp của Ukraine, chiến dịch này gần như không thể thành công nếu nó không có sự phối hợp, thông điệp không rõ ràng và các thành phần chính quyền hoạt động không có mục đích. Thật vậy, trong suốt mùa hè đã có lúc xuất hiện những khoảng nghỉ trong kỷ luật nhắn tin này. Ví dụ, tiết lộ vào tháng 5 năm nay từ các quan chức Mỹ giấu tên rằng Washington đã giúp Ukraine nhắm mục tiêu và tiêu diệt các tướng lĩnh Nga đã nhanh chóng bị xóa bỏ.

1701909700082.png

Quân đội Nga tiến vào Ukraine

Những rò rỉ hoặc tiết lộ có chọn lọc không phù hợp với định hướng truyền thông, hoặc thậm chí là những sáng kiến tư nhân có ý nghĩa, có thể làm suy yếu nỗ lực chung. Điều này nhấn mạnh sự cấp thiết của việc kiểm soát sử dụng thông tin tình báo để tránh tiết lộ những thông tin vô tình leo thang hoặc gây kích động - một lần nữa, đây không phải là một diễn biến mới mà là một diễn biến mang tính cấp bách mới do tốc độ truyền tải thông tin. Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskyy, trước cuộc xâm lược tháng Hai, đôi khi chỉ trích cách tường thuật thông tin, kêu gọi phương Tây đừng tạo ra sự hoảng loạn. Mặc dù có thể hiểu được nhưng nó nêu bật những thách thức của việc cạnh tranh các thông tin tường thuật và nguy cơ gây ra những hậu quả không lường trước được.

Về cơ bản, có nguy cơ thông tin tình báo bị vượt quá ý nghĩa dự định của nó và được sử dụng có chọn lọc để hỗ trợ chính sách của chính phủ. Để tránh điều này đòi hỏi một nhóm người tiêu dùng thông thái, hiểu rõ những hạn chế và khả năng của sản phẩm họ nhận được. Tương tự, nó đòi hỏi một cộng đồng các chuyên gia tình báo có khả năng đẩy lùi khi những cân nhắc chính trị dường như đang thúc đẩy các sản phẩm tình báo và phân tích hướng tới một mục đích cụ thể.

......
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Tình báo trong chiến tranh thông tin

Việc Mỹ sử dụng thông tin tình báo trước cuộc tiến công vào Ukraine của Nga được cho là một phần trong nỗ lực của Washington nhằm lấy lại thông tin chống lại chiến dịch thông tin sai lệch của Mátxcơva. Việc Nga sử dụng không gian thông tin như một lĩnh vực chiến tranh được hiểu rõ và trái ngược với cách hiểu của Mỹ về không gian đó.

Như đã được ghi chép rõ ràng, Nga sử dụng một loạt thông tin sai lệch, sai sự thật, tuyên truyền và “lời lẽ ủng hộ Putin”. Nó làm bão hòa không gian thông tin với những câu chuyện trái ngược nhau nhằm gây nhầm lẫn, gây rối và thuyết phục đối thủ, đồng minh cũng như khán giả trong nước.

1701909900296.png

Quân đội Nga tiến vào Ukraine

Ngược lại, Cormac lưu ý rằng có một giả định nhất quán của chủ nghĩa hiện đại phương Tây rằng sự thật sẽ tự nó nói lên điều đó. Tuy nhiên, “sự thật” của phương Tây chỉ là một câu chuyện trong một không gian thông tin ngày càng hỗn loạn, trong đó các đối thủ liên tục cố gắng phá hoại chính khái niệm về sự thật khách quan. Thách thức đối với Mỹ và Vương quốc Anh là tìm ra cách để sự thật vượt qua sự ồn ào và để tín hiệu dự định của họ tiếp cận được đối tượng mục tiêu để đạt được hiệu quả tối đa. Bởi vì thông tin sai lệch có nhiều con đường để lan truyền hơn trong khi các nguồn đáng tin cậy lại ít về số lượng và mức độ nổi bật hơn, nên tốc độ của thông tin sai lệch vượt xa tốc độ của sự thật.

Việc Nga sáp nhập Crimea vào năm 2014 thông qua “những người đội mũ màu xanh da trời” và sau đó là việc can dự vào miền Đông Ukraine đã được tiến hành với đủ sự che giấu và thông tin giả để làm rối loạn phản ứng của phương Tây. Mặc dù có nhiều báo cáo quan trọng có cơ sở cho rằng các lực lượng này là của Nga hoặc được Nga hậu thuẫn, nhưng sự xáo trộn chính trị và việc không sẵn sàng hành động đã nhường lại chiến trường thông tin cho Mátxcơva. Khi đó, chiến dịch quyết liệt của Mỹ chuẩn bị cho cuộc chiến tranh mở rộng vào tháng 2 năm 2022 nên được coi là sự khắc phục cho thất bại này và là dấu hiệu cho thấy sự nhận thức ngày càng tăng về tầm quan trọng của không gian thông tin và nhu cầu tích hợp tốt hơn thông tin tình báo vào bộ công cụ của sức mạnh quốc gia.

1701910023503.png

Quân đội Nga tại Krym

Cần có sự cân bằng giữa thông tin tình báo để cung cấp thông tin cho các nhà hoạch định chính sách và thông tin tình báo cho cuộc chiến thông tin. Mặc dù chúng có thể củng cố lẫn nhau nhưng căng thẳng giữa hai bên vẫn có thể tồn tại. Những tính toán về chiến tranh thông tin sẽ đòi hỏi sự hiệu chỉnh cẩn thận, đặc biệt khi nó liên quan đến tình báo. Điều này đi vào trọng tâm của việc sử dụng thông tin tình báo trong thời đại chiến tranh thông tin – tác động (hoặc các tác động) mong muốn là gì và cách tốt nhất để đạt được chúng là gì? Được gì và mất gì trong việc làm sạch và tiết lộ thông tin tình báo? Liệu một nguồn hoặc việc khai thác có bị lộ hay không và nếu có thì chi phí là bao nhiêu? Liệu đó có phải là một lợi ích chiến thuật ngắn hạn gây tổn hại đến lợi ích chiến lược lâu dài?

Một phép tính như vậy sẽ cung cấp thông tin cho các nhà hoạch định chính sách và các chuyên gia tình báo trong việc quyết định loại thông tin tình báo nào phù hợp nhất cho mục tiêu của họ. Các câu hỏi tự nhiên được đặt ra là liệu thông tin có phù hợp để tiết lộ hay không do những rủi ro đối với các nguồn và phương pháp - một phép tính rủi ro có thể đã thay đổi sau sự kiện Ukraine. Liệu tính cấp bách của cuộc khủng hoảng có nghĩa là rủi ro lớn hơn đối với các nguồn và phương pháp có được đảm bảo không? Hay rủi ro đối với việc tiếp cận lâu dài có lớn hơn nhu cầu thành công về tình báo chiến thuật không? Người đưa tin cũng quan trọng như thông điệp. Các tuyên bố từ Nhà Trắng hoặc Bộ Ngoại giao có trọng lượng với các cơ quan truyền thông truyền thống, nhưng việc cung cấp thông tin cho các đối tác hoặc phương tiện truyền thông phi truyền thống có thể hiệu quả hơn với các đối tượng khác nhau.

......
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Trong kỷ nguyên chiến tranh thông tin mới này, sự phức tạp của việc duy trì kỷ luật nhắn tin trong khi liên lạc với các đối tượng khác nhau - các nhà hoạch định chính sách trong nước và giữa các đồng minh, đối thủ (Nga) và thế giới rộng lớn hơn - sẽ chỉ tăng lên. Những điểm không nhất quán hoặc khác biệt trong các câu chuyện sẽ dễ dàng được phát hiện - những gì được nói với khán giả Nga có thể dễ dàng được so sánh với những gì được nói với một đồng minh châu Âu hoặc thậm chí là cử tri Mỹ. Phương tiện truyền thông xã hội đã khiến thách thức này trở nên khó khăn hơn rất nhiều - một tìm kiếm nhanh trên Google hoặc tìm kiếm API của Twitter sẽ cho phép phân tích dễ dàng.

Ngoài ra còn có sự cám dỗ để thực hiện hành vi lừa dối trực tiếp thông qua các kênh chính thức, mang lại rủi ro lớn. Một lần nữa, điều này không phải là mới. Trong Chiến tranh Thế giới thứ II, gần như mọi nguồn thông tin có sẵn cho quân đồng minh đều được cung cấp tương tự như nhau, như một phần của Chiến dịch Fortitude nhằm đánh lừa Đức Quốc xã tin rằng cuộc xâm lược đang diễn ra qua eo biển Anh ở một điểm khác chứ không phải tới Normandy. Trước D-Day, quân Đồng minh đã tham gia vào các chiến dịch lừa dối phức tạp và nhiều tầng để thuyết phục Berlin rằng một cuộc xâm lược đang nhắm vào Hy Lạp và Sardinia chứ không phải Sicily.

Chiến tranh Lạnh cũng có rất nhiều ví dụ về rò rỉ có chọn lọc cho các nhà báo thân thiện và cung cấp cho các tổ chức tư vấn được hỗ trợ những thông tin chính thức nhưng không được ghi lại để đảm bảo nội dung được đưa ra ủng hộ cách cung cấp thông tin của chính phủ. Mặc dù không phải là tuyên truyền thẳng thắn nhưng nó chắc chắn hỗ trợ mục tiêu phá hoại Liên Xô của chính phủ. Tất nhiên, có sự khác biệt giữa việc tiết lộ chính thức thông tin chính xác để đạt được kết quả chính trị mong muốn và việc tuyên truyền thẳng thắn. Có những hạn chế về mặt pháp lý, chẳng hạn như Đạo luật Smith-Mundt năm 1948 và Sắc lệnh hành pháp 12333, nhằm kiểm soát việc sản xuất tuyên truyền và nhằm mục đích cấm thông tin được thiết kế cho khán giả nước ngoài tiếp cận công chúng Mỹ. Việc duy trì những lệnh cấm và ranh giới này được cho là quan trọng trong thời đại truyền thông xã hội hiện nay cũng như bất kỳ thời điểm nào trước đây.

1702033559681.png


Sự thành công trong nỗ lực của Mỹ và Anh trong việc sử dụng thông tin tình báo nhạy cảm để nắm bắt câu chuyện trước cuộc xâm lược Ukraine gần đây nhất được hình thành dựa trên tính chính xác của thông tin được trình bày, thường được xác thực bởi thông tin nguồn mở bên ngoài. Đây là sự phục hồi rõ rệt sau cuộc khủng hoảng lòng tin do thông tin tình báo sai lệch xung quanh chương trình vũ khí hủy diệt hàng loạt của Iraq gây ra. Không nằm ngoài khả năng, bằng cách bỏ sót hoặc ủy quyền, một chính phủ có thể tìm cách thúc đẩy những câu chuyện sai sự thật hoặc chứa mầm mống của sự giả dối nhưng mang dấu ấn “thông tin tình báo”.

Tuy nhiên, thiệt hại về mặt danh tiếng nếu những thông tin sai sự thật đó bị tiết lộ sau đó sẽ rất nghiêm trọng. Tài khoản Twitter của Tình báo Quốc phòng Vương quốc Anh thành công như vậy một phần không nhỏ nhờ vào tính chính xác của nó và thực tế là nó mang sức nặng của con dấu chính thức của Bộ Quốc phòng. Thông tin là thực tế, không mang tính suy đoán và thường giới hạn trong phạm vi được biết hoặc có thể kiểm chứng. Nếu Tình báo Quốc phòng thúc đẩy những suy đoán chưa được xác minh - như người ta thấy nó đang làm bằng cách nêu bật các câu chuyện tin tức cùng với phân tích của chính mình - hoặc cố gắng bắt tay vào một chiến dịch lừa dối, niềm tin đó sẽ nhanh chóng bị xói mòn.

1702033619003.png


Điều này không có nghĩa là chính phủ không nên tham gia vào các hoạt động lừa dối. Có thể cho rằng trong tương lai, việc lừa dối và che giấu sẽ càng trở nên quan trọng hơn trên chiến trường thông tin. Đúng hơn, chính các cơ chế và phương tiện mang thông tin đó cũng như các nhãn hiệu mà nó mang theo sẽ đòi hỏi sự thẩm định kỹ lưỡng hơn. Washington Post sẽ muốn biết rằng thông tin gắn nhãn "tình báo" là thực tế nhất có thể và không được công bố để đáp ứng yêu cầu của một chính quyền hoặc câu chuyện chính trị cụ thể. Một lần nữa, đây không phải là một thách thức mới mà có thể sẽ trở nên trầm trọng hơn trong kỷ nguyên thông tin mới này.

......
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Kết luận

Việc Mỹ sử dụng thông tin tình báo trước cuộc tấn công quy mô lớn của Nga vào Ukraine đã đánh dấu một bước tiến hóa trong nghệ thuật quản lý nhà nước. Washington đã học được bài học từ những thất bại trong quá khứ và tìm cách giành lại không gian thông tin mà phần lớn đã được nhượng lại cho một Mátxcơva hiện tại.

Bản chất của cuộc khủng hoảng – cuộc xung đột quy mô lớn giữa các quốc gia đầu tiên ở châu Âu kể từ chiến tranh giới lần thứ II – đòi hỏi một phản ứng độc đáo. Do đó, Mỹ đã tìm cách tận dụng thông tin tình báo theo cách để thuyết phục các đồng minh về mối đe dọa sắp xảy ra, và ở cấp độ thấp hơn, ngăn cản Mátxcơva hành động, đồng thời báo hiệu rằng họ có hiểu biết sâu sắc về các kế hoạch của Điện Kremlin. Hơn bất cứ điều gì khác, Mỹ được hưởng lợi từ sự thật - Washington được hầu hết mọi người coi là nhà cung cấp thông tin đáng tin cậy, đặc biệt là khi đối mặt với một nước giỏi làm sai lệnh hoặc bóp méo thông tin như Nga. Hơn nữa, sự thật của thông tin tình báo đã được xác thực bởi cộng đồng nguồn mở bên thứ ba có uy tín hơn nhiều so với các sự cố trước đây.

1702033789898.png


Xét về nhiều mặt, những bài học rút ra từ cuộc khủng hoảng này không phải là duy nhất. Các quyết định trong tương lai về việc sử dụng thông tin tình báo để hỗ trợ các nỗ lực quân sự và ngoại giao sẽ phụ thuộc vào một phép tính quen thuộc: Liệu việc tiết lộ thông tin có gây nguy hiểm cho các nguồn và phương pháp không? Liệu cái được có lớn hơn cái mất? Ai là công cụ tốt nhất cho thông điệp? Quan trọng nhất, hiệu quả mong muốn là gì?

Điều độc đáo là miền thông tin đang phát triển nhanh chóng, trong đó thông tin lưu thông nhanh hơn nhiều và các quyết định phải được đưa ra nhanh hơn. Trong khi khán giả có thể vẫn như cũ - trong nước, đối thủ và quốc tế - thói quen sử dụng thông tin của họ sẽ đòi hỏi sự hiểu biết sâu sắc hơn nhiều trong hoạt động thông tin so với trước đây. Washington có thể đã đạt được thành công trên danh nghĩa trong việc nắm bắt thông tin về cuộc xung đột Ukraine, nhưng nó cũng có khả năng đặt ra những yêu cầu lớn hơn đối với các sản phẩm tình báo của mình so với mức họ sẵn sàng cung cấp. Không phải mọi cuộc khủng hoảng đều có quy mô hoặc phạm vi như chiến tranh giữa các quốc gia, cũng như không phải mọi cuộc khủng hoảng đều được hưởng lợi rõ ràng từ một số thông tin tình báo nói ra sự thật.

1702033811067.png


Cuộc xung đột Ukraine cho thấy rõ ràng rằng việc sử dụng thông tin tình báo trong chiến tranh thông tin hiện đại cần được xem xét và phân tích sâu hơn. Chẳng hạn, chúng ta đã thấy các công bố thông tin tình báo có chọn lọc của các nhà hoạch định chính sách được thiết kế để đạt được hiệu ứng báo hiệu - không ít trong số đó liên quan đến khả năng sử dụng vũ khí hạt nhân. Phương Tây cũng đã sử dụng thông tin tình báo để báo hiệu cho đối tác bề ngoài của mình là Ukraine rằng họ không hài lòng về vụ ám sát Darya Dugina, con gái của một nhà bút chiến theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan người Nga.

Cuộc xung đột Ukraine cũng có phần độc đáo. Ví dụ, trong một kịch bản khủng hoảng trong tương lai, áp lực tham gia và sự gia tăng nhanh chóng hướng tới một cuộc chiến sắp xảy ra cũng có thể đi ngược lại những nỗ lực của chính quyền nhằm xây dựng hoặc kiểm soát thông tin tương tự, một tình huống mà người ta có thể dễ dàng tưởng tượng trong kịch bản một cuộc xâm lược nhanh chóng của Trung Quốc nhằm vào Đài Loan. Thực tế cần luôn ghi nhớ trong tất cả các cuộc chiến tranh hiện đại là sự chênh lệch giữa tốc độ thông tin sai lệch và tốc độ thông tin chính xác sẽ luôn có lợi cho thông tin sai lệch.

1702033835939.png


Cộng đồng tình báo sẽ tiếp tục hoạt động tích cực trong việc thu thập và phân tích tinh tế. Những gợi ý rằng nó sẽ đơn giản chuyển các yêu cầu thu thập thông tin tình báo của mình sang cộng đồng nguồn mở là giả mạo. Chắc chắn nó sẽ ngày càng thúc đẩy cộng đồng này khi thích hợp (cũng như tăng cường khả năng nguồn mở nội bộ của chính mình), nhưng như đã lưu ý ở trên, khả năng của cộng đồng tình báo nguồn mở đang và sẽ vẫn còn hạn chế và sẽ không phải lúc nào cũng phù hợp cho chương trình nghị sự hoạch định chính sách. Như Tướng Sir Jim Hockenhull, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Chiến lược Vương quốc Anh, gần đây đã phát biểu, mối liên kết giữa nguồn mở và tình báo bí mật sẽ chứng tỏ là vô giá trong tương lai:

Mặc dù nguồn mở không cung cấp nắp hộp ghép hình nhưng nó cung cấp số lượng gần như vô hạn các mảnh ghép hình. Thử thách bây giờ là bạn có thể tạo ra số lượng hình ảnh gần như vô hạn nhờ những mảnh ghép có sẵn. Nó cũng đặt ra một thách thức về mặt quyền quyết định đối với thông tin và chúng tôi phải lọc để có thể tinh chỉnh. Đây là nơi mà sự kết hợp giữa thông tin nguồn mở và các nguồn thông tin bí mật trở nên vô giá trong việc có thể xem liệu chúng ta có thể xác định kết quả là sự hiểu biết lớn hơn hay không.

1702033905391.png


Cuộc xung đột ở Ukraine cũng cho thấy rằng những bài học từ các đánh giá tình báo hậu Iraq của Mỹ, cũng như những bài học được thực hiện ở Vương quốc Anh, vẫn có thể áp dụng và phù hợp ngày nay như khi chúng được soạn thảo lần đầu. Vẫn có sự cân bằng tốt giữa thông tin tình báo được tạo ra để thông báo cho các nhà hoạch định chính sách và việc sử dụng thông tin tình báo để đạt được hiệu quả mong muốn. Việc duy trì sự cân bằng giữa đánh giá, phân tích và sự biện hộ này đòi hỏi các quan chức phải hiểu và tôn trọng sự khác biệt. Những cám dỗ làm mờ đi sự khác biệt bằng cách bỏ sót hoặc ủy thác là rất thực tế và hậu quả có thể rất tai hại.

Mặc dù tồn tại các quy trình và giao thức để giải mật thông tin và phổ biến thông tin đó trong chính phủ và công chúng, nhưng các quy trình này không được thiết kế cho nhu cầu của chiến tranh thông tin. Quy trình đặc biệt do Chính quyền Biden thực hiện liên quan đến Ukraine, tuy hiệu quả nhưng cần có khuôn khổ và tiến trình chuẩn để các chính quyền trong tương lai áp dụng theo. Điều đó đặc biệt đúng trong những tình huống khủng hoảng khi các chính trị gia nắm quyền không hiểu rõ về việc sử dụng thông tin mật và sự khác biệt giữa các loại thông tin tình báo khác nhau. Tương tự, các chính quyền tương lai phải chuẩn bị cho khả năng cộng đồng tình báo có thể hiểu sai.

1702033927868.png


Chiến tranh Ukraine đã cho thấy rằng cạnh tranh trong lĩnh vực thông tin hiện đại đòi hỏi phải tận dụng mọi công cụ của sức mạnh quốc gia. Thông tin tình báo, cho đến nay chủ yếu được sử dụng để cung cấp thông tin cho các nhà hoạch định chính sách, sẽ ngày càng trở thành tài sản quan trọng trong kho vũ khí đó khi được sử dụng một cách thận trọng và phù hợp. Vai trò của tình báo sẽ càng trở nên quan trọng hơn khi phương Tây tìm cách giành lại thế chủ động trong cuộc chiến thông tin.

Cộng đồng tình báo Mỹ và các nhà hoạch định chính sách mà họ hỗ trợ đã chứng minh tính hữu ích tiềm tàng của thông tin này trong cuộc xung đột Ukraine năm 2022 và cuộc chiến thông tin chống lại Nga. Những thay đổi trong chiến tranh hiện đại sẽ đòi hỏi phải có những điều chỉnh trong cách cộng đồng tình báo nhìn nhận tình báo – không chỉ là một sản phẩm được cung cấp cho các nhà hoạch định chính sách mà còn là một công cụ có sẵn để đạt được các hiệu quả chiến lược trong kịch bản khủng hoảng. Rút ra những bài học đúng đắn từ việc sử dụng nó trong Chiến tranh Ukraine – nhận thức được điều gì đã thay đổi và điều gì không – sẽ đảm bảo rằng Washington ở vị thế tốt hơn để tiến hành các cuộc chiến tranh thông tin trong tương lai./.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Lằn ranh đỏ của Nga tại Crimea bị xoá bỏ

Những tuyên bố về tính thiêng liêng của bán đảo này rốt cuộc chỉ là hư cấu.


Tháng 12/2014, Tổng thống Nga Vladimir Putin đứng giữa Sảnh St. George của Điện Kremlin để đọc bài phát biểu thường niên trước Quốc hội Liên bang nước này. 9 tháng sau khi chính thức sáp nhập Crimea, Tổng thống Nga đã đưa ra cái nhìn tổng quan mang tính lịch sử về tầm quan trọng của Crimea đối với Nga.

1702034122584.png

Quân đội Nga tại Krym

Theo tuyên bố của Putin, Crimea không chỉ đơn giản là một vùng đất bất kham mà Nga kiểm soát hợp pháp. Đúng hơn, bán đảo này là “cội nguồn về tinh thần” của toàn dân tộc Nga – một khu vực tượng trưng cho “tầm quan trọng văn minh vô giá và thậm chí là thiêng liêng” đối với tất cả người dân Nga. Hàm ý này cũng được Putin nhắc đến trong tuyên bố sáp nhập hồi tháng 3/2014, khi ông tuyên bố rằng “trong trái tim và tâm trí người Nga, Crimea luôn là một phần không thể tách rời của Nga”. Theo quan điểm của Putin, Crimea được ví như Núi Đền của Nga – “thánh địa” của nước này. Và Putin đã đảm bảo trong bài phát biểu tháng 12/2014 rằng đó “chính xác là cách chúng ta đối xử với khu vực này từ giờ cho đến về sau”.

Vào thời điểm đó, rất ít người Nga tỏ ra không đồng tình. Phương Tây cũng tương tự, phần lớn người dân đã bỏ qua cuộc tấn công đầu tiên của Nga vào năm 2014. Bị cuốn theo lời tuyên truyền của Nga xoay quanh việc bán đảo này có xu hướng thân Nga và bị thuyết phục rằng bất kỳ cuộc tấn công nào của Ukraine vào Crimea đều có thể châm ngòi cho sự leo thang quân sự tiềm tàng, nhiều tiếng nói ở phương Tây phần lớn né tránh ủng hộ bất kỳ nỗ lực nào nhằm giành lại quyền kiểm soát bán đảo cho Kiev. Minh chứng rõ nhất là vào tháng 9/2023, nhiều nguồn tin cho biết Giám đốc điều hành Tesla Elon Musk đã chặn bớt nỗ lực của Ukraine nhắm mục tiêu vào bán đảo này vì lo ngại bất kỳ cuộc tấn công nào cũng “có thể dẫn đến chiến tranh hạt nhân”.

1702034287600.png

Quân đội Nga tại Krym

Những lo ngại này cũng dễ hiểu trong bối cảnh các quan chức Nga liên tục đe dọa sử dụng hạt nhân để bảo vệ Crimea trước bất kỳ nỗ lực nào của Ukraine nhằm giành lại lãnh thổ. Nhưng hiện giờ, khi Ukraine tiến hành các cuộc tấn công gần như hàng ngày trên bán đảo, quan điểm cho rằng Crimea tượng trưng cho một dạng Núi Đền – hoặc thậm chí lằn ranh đỏ - của Nga đã sụp đổ.

Trong các cuộc tấn công không ngừng bằng máy bay không người lái, tên lửa tầm xa, hay trong các chiến dịch phá hoại tài sản quân sự trên khắp Crimea, Nga dường như không coi bán đảo của Ukraine là một vùng đất thiêng liêng. Thay vì vội vàng bảo vệ Crimea, Nga đã tháo chạy khỏi khu vực. Thay vì chứng kiến người Nga xếp hàng tham gia hỗ trợ Điện Kremlin bảo vệ bán đảo, Moskva lại tiếp tục đề cập đến khả năng có một cuộc tổng động viên bắt buộc lần thứ hai với phạm vi rộng hơn nhiều. Và thay vì dẫn đến xung đột hạt nhân, phản ứng thờ ơ của Nga trước các cuộc ném bom không ngừng vào Crimea đã phá vỡ những tuyên bố trước đây của Putin rằng bán đảo này là một dạng vùng đất đặc biệt, bất khả xâm phạm. Như giáo sư Maria Popova đến từ Đại học McGill (Canada) đăng gần đây trên X (trước đây là Twitter), “Crimea không có gì đặc biệt, chứ đừng nói đến là một lằn ranh đỏ”.

1702034359535.png

Một mục tiêu tại Krym bị Ukraine tấn công

Quả thực, dù gần như không ai để ý, nhưng việc Ukraine tiếp tục pháo kích và tấn công bán đảo đã cho thấy một bài học rõ ràng: Ý tưởng Crimea là một “vùng đất thánh” mà Nga sẽ chạy đua để bảo vệ - ý tưởng mà trước đây có quá nhiều người phương Tây tin theo – đã bị chôn vùi. Từ đó, vô số cơ hội mới đã mở ra cho Kiev và các đối tác phương Tây – những người mới chợt nhận ra Crimea không phải vùng đất linh thiêng như Putin từng tuyên bố.

...........
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Đối với những người quen thuộc với lịch sử khu vực, quan điểm cho rằng Crimea từ lâu đã là một “trung tâm về tinh thần” của dân tộc Nga, hay quan điểm rằng bán đảo này vĩnh viễn là một phần không thể tách rời của Nga, luôn là lời tuyên bố lung lay. Mặc dù có những liên hệ lịch sử gắn kết bán đảo này với trung tâm Moskva – đặc biệt là vai trò to lớn của bán đảo trong Chiến tranh Crimea vào những năm 1850 hay Chiến tranh thế giới thứ hai – nhưng Crimea khó có thể là trung tâm đại diện cho bản sắc Nga như Putin và những người ủng hộ ông từng tuyên bố.

1702034477759.png

Quân đội Nga tại Krym

Hãy nhìn lại lịch sử dân tộc rộng lớn của bán đảo này. Trong khi các lực lượng Sa hoàng lần đầu tiên chiếm giữ khu vực này vào năm 1783, Crimea gần như không phải là điểm đến trọng tâm cho các nỗ lực thuộc địa hóa của Nga. Trong thực tế, phải đến Chiến tranh thế giới thứ hai, Crimea mới có đa số người gốc Nga – và thậm chí đó chỉ là kết quả của những nỗ lực khổng lồ theo chủ nghĩa Stalin trong việc thanh lọc sắc tộc, buộc hàng chục nghìn người Tatar phải rời bỏ quê hương của mình.

Hoặc hãy nhìn vào các ưu tiên chính trị của bán đảo này. Trong khi quyết định năm 1954 của Điện Kremlin về việc chuyển giao quyền kiểm soát Crimea cho Ukraine thuộc Liên Xô đã nhận được sự chú ý quá mức trong những năm gần đây, thì tiếng nói và lá phiếu thực sự của người dân Crimea ít được để tâm hơn nhiều. Có thể nói đến vào năm 1991, người dân Crimea đã cùng với các tỉnh khác của Ukraine bỏ phiếu đòi độc lập khỏi Moskva. Và trong những năm qua, trong khi giới lãnh đạo Crimea liên tục vận động đòi thêm quyền tự trị từ Kiev, người dân Crimea chưa một lần nào bỏ phiếu ủng hộ quay lại với Điện Kremlin.

1702034538620.png

Quân đội Nga tại Krym

Việc này không có gì bất ngờ. Như cuộc thăm dò trong những tháng trước cuộc xâm lược năm 2014 của Nga chỉ ra, những người mong muốn sáp nhập vào Nga chỉ là thiểu số ở Crimea - và rõ ràng ngày càng giảm. Một cuộc khảo sát đối với người dân Crimea do Viện Cộng hòa quốc tế thực hiện vào giữa năm 2013 cho thấy chưa đến 1/4 người dân Crimea muốn sáp nhập. Cuộc thăm dò tương tự cho thấy phần lớn người dân Crimea tự nhận họ không phải là người Nga. Họ có thể là người Ukraine, người Tatar, hoặc đơn giản chỉ là người Crimea.

Tất cả những điều trên chứng minh: Trái với những tuyên bố của Putin và người ủng hộ ông, Crimea không phải là nơi dành sự ủng hộ to lớn cho Điện Kremlin hay đang háo hức mong chờ Nga nắm quyền kiểm soát trở lại. Thực tế này đã được chứng minh trong một phóng sự, gần đây trong đó nhấn mạnh việc dân quân Nga đã buộc các đại biểu Crimea bỏ phiếu đồng ý sáp nhập như thế nào. (Như tội phạm chiến tranh khét tiếng Igor Girkin, một trong những nhân vật chủ chốt trong cuộc tấn công năm 2014 của Nga, nhớ lại ông và các dân quân thân Nga khác “không nhận thấy sự ủng hộ sáp nhập từ bất kỳ bộ phận nào trong bộ máy chính quyền Crimea). Khi đó, không mấy bất ngờ là thay vì bỏ phiếu tự do và công bằng về việc sáp nhập, Moskva đã sử dụng một cuộc trưng cầu dân ý cưỡng ép, cùng với đó tuyên bố con số lố bịch rằng 97% người dân Crimea ủng hộ chủ quyền của Nga đối với bán đảo này.

1702034563229.png

Một mục tiêu tại Krym bị Ukraine tấn công

Hiện giờ, gần một thập kỷ sau khi Putin lần đầu tuyên bố Crimea thuộc Nga, các nỗ lực bắn phá của Ukraine nhằm buộc bán đảo này phải khuất phục đang bước vào giai đoạn chính thức. Như tờ Economist gần đây đã viết, “Chiến tranh đã ập đến Crimea”. Trong khi cuộc tấn công năm 2022 vào cây cầu chính ở Crimea đã thu hút được nhiều sự chú ý thì trong các tuần qua, các cuộc tấn công vào tài sản quân sự của Crimea đã gia tăng lên đến mức độ chưa từng có. Hỏa hoạn ở các kho đạn dược địa phương; cuộc tấn công bằng tên lửa hành trình vào tài sản hải quân ở Sevastopol, phá hủy tàu và tàu ngầm; máy bay không người lái nhắm mục tiêu vào cơ sở hạ tầng phòng không của Nga; và nhiều cuộc tấn công khác – phần lớn chỉ diễn ra trong vài tuần. Hơn nữa, một loạt hỏa lực tầm xa của Ukraine đã tiêu diệt bộ chỉ huy trung tâm của Hạm đội Biển Đen của Nga – cuộc tấn công đã được ghi lại và đã tiêu diệt phần lớn bộ chỉ huy hải quân của Moskva trong khu vực.

......
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Tuy nhiên, ngay cả trong bối cảnh bạo lực gia tăng đang tàn phá bán đảo này, phản ứng của Nga phần lớn vẫn là im lặng, một phần xuất phát từ mong muốn của Putin là giảm tổn thất của Nga ở Ukraine cũng như nỗ lực duy trì sức mạnh quân sự của Nga. Nhưng một phần lý do cũng bắt nguồn từ bản thân người Nga đã liên tục thể hiện sự dửng dưng trước các cuộc tấn công vào Crimea. Thay vì phản ứng kiểu Trân Châu Cảng như nhiều nước phương Tây lo sợ, Nga phần lớn chỉ thờ ơ. Thay vì khơi dậy một làn sóng đăng ký nhập ngũ mới, Moskva phải vật lộn để đạt được các mục tiêu cơ bản về số người nhập ngũ, trong khi đó, Kiev tiếp tục chuẩn bị vũ khí mới để mở rộng kho vũ khí của nước này nhằm giành lại Crimea. Thay vì lao vào các cuộc trao đổi hạt nhân, mọi khả năng về việc Moskva đáp trả bằng hạt nhân đã tan biến – không chỉ nhờ sức ép từ các đồng minh của Moskva (đặc biệt là Bắc Kinh) mà còn nhờ Kiev đã lật tẩy trò bịp bợm của Moskva.

1702089378386.png

Cầu Krym bị Ukraine tấn công

May mắn thay, có vẻ như các nhà hoạch định chính sách phương Tây cuối cùng đã bắt đầu chấp nhận thực tế mới này. Trong khi các quan chức phương Tây, chẳng hạn như Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken, trước đây đã từng cảnh báo rằng Crimea đặt ra một “lằn ranh đỏ” cho Putin, thì những lo ngại từ Washington, London, và Brussels về các cuộc tấn công mới nhất trong các tuần gần đây phần lớn đã biến mất. Có chăng, các vụ đánh bom thành công của Kiev đã thuyết phục được các đối tác phương Tây tăng cường hỗ trợ; trong bối cảnh Ukraine leo thang bắn phá, Mỹ ra tín hiệu rằng nước này cuối cùng sẽ cung cấp cho Ukraine tên lửa tầm xa – còn gọi là ATACMS – cho phép Kiev mở rộng phạm vi tấn công ở Crimea.

Nói rộng hơn, quan điểm cho rằng Crimea đưa ra bất kỳ loại lằn ranh đỏ nào cho Putin, tương tự như những gì được cho là lằn ranh đỏ của Nga ở những nơi khác, tất cả đều đã sụp đổ. Và với sự biến mất của lằn ranh đỏ ở Crimea – cũng như việc từ bỏ ý tưởng rằng Crimea là một “vùng đất thánh” của người Nga –không còn lý do gì để các chính phủ phương Tây không làm mọi thứ trong khả năng để hỗ trợ các nỗ lực của Ukraine trong việc giành lại từng tấc lãnh thổ của nước này, bao gồm cả Crimea.

1702089482440.png

Trụ sở hạm đội Biển Đen bị Ukraine tấn công

Xét cho cùng, cuộc tấn công đòi lãnh thổ của Moskva xảy ra lần đầu tiên vào năm 2014 chính là tại bán đảo Crimea. Khi những lời hứa của Putin rằng người Nga sẽ tập hợp lại để bảo vệ bán đảo đã được chứng minh chỉ là lời giả dối và không thể thành hiện thực bởi chính sự kiêu ngạo của ông, thì những nỗ lực theo chủ nghĩa phục thù của Nga nên chấm dứt tại đây./.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Nga rút ra được bài học gì từ các chiến dịch tại Ukraine?

Chiến tranh Ukraine cũng là một cuộc không chiến. Sở dĩ DSI (tạp chí Quốc phòng và An ninh Quốc tế của Pháp) đã nhiều lần quay lại đề tài này là vì còn nhiều câu hỏi vẫn chưa được giải đáp. Đặc biệt là vấn đề về hiệu quả của lực lượng không quân Nga, về mặt lý thuyết, được thừa hưởng những lợi thế so sánh, cả về chất lượng và số lượng. Nếu như khả năng duy trì các chiến dịch trên không của Ukraine đã thu hút được sự chú ý và đem đến những kinh nghiệm, thì lần này chúng ta có thể rút ra được những bài học gì từ những hành động của Nga?

Cuộc chiến Ukraine có thể được phân tích theo các giai đoạn khác nhau, bởi mỗi giai đoạn có động lực của riêng nó. Giai đoạn đầu tiên là đợt triển khai lớn ở khu vực miền Nam và miền Đông Ukraine, cũng như nỗ lực chiếm Kiev (tháng 2 và 4/2022). Giai đoạn thứ hai là khi Nga rút quân khỏi miền Bắc Ukraine và tập trung vào vùng Donbass (tháng 4 và 6/2022). Cuộc phản công của Ukraine (cuối tháng 8 và 11/2022) được bắt đầu bằng giai đoạn chuẩn bị, đặc biệt ở miền Nam (tháng 6 và 8/2022). Đến cuối tháng 11/2022, Ukraine giành lại được hơn 50% diện tích do Nga chiếm giữ kể từ tháng 2/2022. Trong giai đoạn này, Nga đã tiến hành một chiến dịch không kích chiến lược nhằm vào cơ sở hạ tầng năng lượng của Ukraine - sau đó giảm bớt cường độ kể từ tháng 2/2023. Trong giai đoạn thứ tư, từ cuối tháng 11/2022 đến tháng 4/2023, Nga thực hiện cuộc tấn công mùa Đông, và đến giữa tháng 4, cuộc tấn công này đã hụt hơi. Vào thời điểm này, Nga chuyển sang thế phòng thủ và Ukraine đã tận dụng lợi thế mùa Đông để tiếp tục xây dựng và tái trang bị lực lượng, chuẩn bị phản công.

Vô hiệu hóa lẫn nhau

Trong giai đoạn đầu, VKS (Lực lượng hàng không vũ trụ Nga) dựa vào khoảng 350 máy bay có mặt tại các căn cứ gần chiến trường. Đầu tiên họ tập trung vào việc phá hủy các trận địa tên lửa đất đối không (SAM) cố định của Ukraine, phá hủy 75% chúng trong vòng 48 giờ đầu tiên. Hơn 100 trận địa radar, kho chứa, căn cứ và vị trí tấn công đã bị tập kích. Tiếp theo, họ tìm cách giành ưu thế trên không trong bối cảnh lực lượng phòng không Ukraine bị phân tán, tái cơ cấu và chủ yếu dựa vào các máy bay chiến đấu của họ. Trái ngược với phán đoán ban đầu, VKS thích ứng khá nhanh với diễn biến tình hình ở vùng chiến sự, ít nhất là ở một mức độ nhất định. Từ ngày thứ ba, chiến thuật chỉ một máy bay tấn công một mục tiêu định trước đã được thay đổi, nhiều máy bay được máy bay chiến đấu hộ tống và máy bay được trang bị tên lửa chống radar thực hiện các chiến dịch. Khi bị các khẩu đội pháo của Ukraine nhắm bắn, các máy bay và trực thăng của Nga chuyển sang bay ở độ cao rất thấp, điều này khiến chúng dễ bị hệ thống tên lửa phòng không vác vai (MANPADS) tấn công.

1702089703862.png

Su-25 của Nga bị tên lửa tầm thấp của Ukraine tấn công

Trong những tuần đầu tiên, việc Nga không thể giành được ưu thế trên không cũng như không bao quát được các trục tiến quân trên mặt đất đã tạo điều kiện để lực lượng không quân Ukraine tự do hành động, từ đó họ đã tận dụng được lợi thế. Sau đó, lực lượng không quân Ukraine còn thực hiện 20 đến 40 phi vụ - tất cả các nhiệm vụ kết hợp – hàng ngày so với 200 đến 300 phi vụ của VKS, trong đó khoảng 140 phi vụ tấn công vào sâu trong lãnh thổ Ukraine. Đây là các nhiệm vụ giành ưu thế trên không hay tấn công, sau nhiều cuộc không chiến. Từ ngày thứ 10, Nga tái tổ chức lực lượng giành ưu thế trên không của mình, sử dụng máy bay cảnh báo sớm trên không tiên tiến A-50. Đồng thời, việc triển khai các hệ thống tác chiến điện tử mặt đất còn gây ảnh hưởng đến hoạt động thông tin liên lạc của các phi công Ukraine, trong khi việc triển khai các khẩu đội SAM tạo ra các vùng cấm bay. Từ đó trở đi, các cuộc không chiến của Ukraine giảm dần, máy bay cũng phải bay ở độ cao rất thấp. Ở miền Nam Ukraine, các cuộc giao tranh của Nga nhiều hơn.

1702089767502.png

Su-34 của Nga tại Ukraine

Trong giai đoạn thứ hai của cuộc chiến, sau khi rút quân khỏi khu vực Kiev và tập trung lực lượng ở Donbass, Nga phải đối mặt với lực lượng phòng không Ukraine dày đặc hơn và được tái tổ chức. Đồng thời, việc ổn định tiền tuyến cho phép Nga triển khai các khẩu đội SAM, nhưng cũng gia tăng mật độ hệ thống tác chiến điện tử của họ, lên tới 10 khẩu đội cho một khu vực 20km mặt trận, do đó gây ảnh hưởng đến hoạt động hàng không và thông tin liên lạc của lực lượng không quân Ukraine. Về cơ bản, các hoạt động trên không của Nga có 2 kiểu:

- Các cuộc tấn công vào sâu lãnh thổ bằng tên lửa hành trình bắn từ không phận Nga. Từ tháng 2 đến tháng 5/2023, Nga đã bắn khoảng 180 tên lửa chống hạm AS-4 Kitchen (K-22/32) và AS-15 Kent (Kh-555). Một ngoại lệ trong các phi vụ lần này là các cuộc tấn công vào Mariupol, đặc biệt do máy bay ném bom siêu thanh mang tên lửa tầm xa Tu-22M Backfire thực hiện thả bom không điều khiển, kể cả đồng thời tác chiến trong phạm vi giao chiến từ các hệ thống SAM của Ukraine;

1702089825138.png

Tên lửa AS-15 Kent (Kh-555)

- Hoạt động trên không của VKS trong trận địa Donbass. Chiến thuật chính là triển khai 4 máy bay chiến đấu bay ở độ cao trung bình để gây nhiễu hệ thống SAM của Ukraine hoặc phóng các tên lửa chống radar. Bằng cách ngụy trang này, hai máy bay khác sau đó sẽ thả vũ khí không điều khiển vào mục tiêu, có thể sau một phát bắn "chùm", với hiệu quả tương đối may rủi.

Hoạt động không quân của Nga khi đó đạt đến đỉnh điểm, với 300 phi vụ hàng ngày vào tháng 3/2023. Từ đầu cuộc chiến đến giữa tháng 5/2023, VKS đã thực hiện khoảng 20.000 phi vụ trong tất cả các nhiệm vụ phối hợp, nhưng chỉ có khoảng 3.000 phi vụ được thực hiện trên lãnh thổ Ukraine - nhiều phi vụ trong số đó là các cuộc tấn công vào Mariupol. Sau đó, Tướng Surovikin, người chịu trách nhiệm về các chiến dịch ở Ukraine từ tháng 10/2022 đến ngày 11/1/2023, cho biết ra rằng 34.000 phi vụ đã được thực hiện từ ngày 23/2 đến ngày 17/10/2022 - một con số có thể đã được đánh giá quá mức. Vào giữa tháng 4/2023, đối mặt với hệ thống tên lửa phòng không SAM của Ukraine, máy bay Nga chỉ đặc biệt tác chiến bên ngoài tiền tuyến, và nếu họ thực hiện các hành động ngăn chặn trên chiến trường, thì đó là bằng việc bắn tên lửa Kh-29 từ các khu vực do Nga kiểm soát. Tuy nhiên, Ukraine không thể làm tốt hơn bởi Nga cũng triển khai hệ thống tên lửa SAM.

1702089899258.png

Su-34 mang bom lượn tấn công Ukraine

Giai đoạn thứ ba của cuộc chiến chứng kiến số lượng các cuộc giao tranh trên không và mặt đất tương đối thấp ngoại trừ các hoạt động tấn công sâu vào lãnh thổ Ukraine bằng tên lửa hành trình được triển khai, thậm chí cơ cấu phản công của Ukraine vốn bị phòng không phân tán và bao phủ, không thích ứng cho việc sử dụng máy bay. Ở Kherson cũng tương tự như vậy do ít có hoạt động không chiến của Nga, nhưng lại có phần lớn hoạt động của Ukraine và được hỗ trợ từ các hoạt động chống radar của tên lửa AGM-88 HARM đối với hệ thống SAM của Nga. Vào tháng 12/2022, hoạt động trên không của Nga sụp đổ. Tình báo Anh chỉ nhắc đến “vài chục” cuộc xuất kích hàng ngày. Kể từ đó, các hoạt động trên không của Nga khá hạn chế, dù ở miền Bắc (Svatove-Kreminna) hay miền Đông và Tây - Nam (Soledar-Vuhledar). Do đó, cuộc tấn công mùa Đông của Nga nhận được rất ít sự hỗ trợ từ trên không, trong bối cảnh cả hệ thống SAM của Nga và Ukraine đều tạo ra các vùng cấm, dẫn đến thái độ thận trọng của lực lượng không quân hai bên.


1702089947024.png

Máy bay Nga bị Ukraine bắn hạ

.....
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
30,099
Động cơ
654,674 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Những năng lực chưa được khai thác hết?

Tính đến ngày 23/2/2023, Nga có ưu thế rõ ràng về số lượng so với Ukraine, với 350 máy bay gần chiến trường, trong khi Ukraine sở hữu khoảng 140 chiếc Su-27, MiG-29, Su-24 và Su-25. Sự vượt trội của Nga còn ở chất lượng. Su-30SM và Su-35 có khả năng radar vượt trội hơn nhiều so với Su-27 và MiG-29 của Ukraine, đồng thời được trang bị tên lửa không đối không AA-12 hiện đại hơn và cho phép bắn xa hơn 100 km.

1702090071742.png

Su-35 của Nga

Nga cũng có máy bay chỉ huy và cảnh báo sớm tiên tiến A-50 Mainstay mà Ukraine không có - tuy nhiên Ukraine có thể tranh thủ sự hỗ trợ của máy bay NATO; nhưng các máy bay của NATO này lại hoạt động ngoài không phận của Ukraine, điều này hạn chế việc thiết lập nhận thức tình huống chuyên sâu. Trong bối cảnh như vậy, làm sao có thể giải thích cho sự kém hiệu quả của Nga và việc thiết lập một tình trạng trung lập hóa lẫn nhau khá nhanh chóng trong suốt cuộc chiến?

Trở lại các vấn đề cơ bản

Ở đây có nhiều yếu tố cần được xem xét, bắt đầu từ trình độ chung của đội ngũ chuyên viên. Theo đánh giá của Ukraine, VKS tham gia cuộc xung đột với chưa tới 100 phi công được huấn luyện đầy đủ theo tiêu chuẩn của Nga do thiếu giờ bay và thiếu kinh nghiệm diễn tập đơn vị. Việc đào tạo sử dụng vũ khí chính xác cũng bị hạn chế. Những giáo viên hướng dẫn ở các trường đào tạo cũng được huy động để tham gia vào các chiến dịch, không phải là không gây ảnh hưởng gì đến việc đào tạo thế hệ phi công tiếp theo. Việc đưa các phi hành đoàn giàu kinh nghiệm nhất tham gia vào các nhiệm vụ nguy hiểm nhất đã làm gia tăng tiêu hao đối với cơ cấu lực lượng không quân và trình độ kinh nghiệm chung của lực lượng này. Kỷ luật nghề nghiệp của các đội hỗ trợ bay và thợ máy cũng đặt ra các câu hỏi, khi xác của những máy bay Nga bị bắn rơi được tìm thấy với các lớp bảo vệ vẫn che phủ các cảm biến của chúng. Thêm vào đó là những khó khăn trong việc bảo dưỡng các máy bay trong các chiến dịch.

1702090265472.png

Máy bay Nga bị Ukraine bắn rơi

Một yếu tố khác liên quan trực tiếp đến mật độ của các hệ thống SAM của Ukraine, đặc biệt là các hệ thống di động. Do Nga mới chỉ loại bỏ được một phần các hệ thống tên lửa đất đối không tầm xa SA-10 và SA-11 của Kiev trong những ngày đầu tiên, nên một số lượng lớn hệ thống này hoàn toàn mang lại lợi thế cho Ukraine. Cho dù Nga có vô hiệu hóa được phần nào các hệ thống, đặc biệt là thông qua các biện pháp tác chiến điện tử, thì trong những ngày đầu của cuộc chiến, Ukraine dường như cũng đã cất giấu thành công nhiều hệ thống trong số này. Trong những tuần đầu tiên, Nga cũng phải giảm cường độ tác chiến điện tử, nếu không sẽ gây nhiễu hệ thống của chính họ, trong bối cảnh có sự chồng chéo giữa các đơn vị phối hợp kém hiệu quả và không trao đổi với nhau. Ngay từ đầu tháng 3/2023, các hệ thống SAM của Ukraine rõ ràng đã lấy lại được hiệu quả. Mặt khác, Nga cũng đã triển khai các hệ thống của riêng họ, trong đó có cả hệ thống S-400, có thể mang lại kết quả đáng ngạc nhiên, đôi khi tiêu diệt các máy bay Ukraine bay ở tầm rất thấp từ khoảng cách xa.

1702090224089.png

Máy bay Ukraine bị Nga bắn rơi

Một yếu tố khác mang tính học thuyết và có tầm quan trọng ở những cấp độ khác nhau. Một mặt, đó là các nhiệm vụ SEAD (trấn áp phòng không của đối phương) mà đáng lẽ chúng chỉ cho phép đạt hiệu quả hơn trước phòng không Ukraine. Không có thiết bị chuyên dụng và chỉ có tương đối ít hệ thống tình báo, giám sát và trinh sát (ISR) cho phép chống lại các chiến thuật của Kiev (theo đó chúng được bật radar vào phút cuối), các tên lửa đã tỏ ra khá hiệu quả. Nhưng trên hết, VKS đã không lường trước được nhu cầu của chúng, không bố trí các lực lượng và huấn luyện phù hợp trước cuộc chiến, phó mặc việc loại bỏ các hệ thống SAM cho lực lượng mặt đất mà khả năng tấn công sâu của các lực lượng này lại được yêu cầu ở nơi khác. Mặt khác, về hoạt động ngăn chặn và hỗ trợ tầm gần, học thuyết này đã rất ít phát triển kể từ cuộc chiến tranh Chechnya bởi nó không tích hợp được các bài học về sự can dự ở Syria.

Vấn đề về mặt tổ chức hệ thống chỉ huy và điều khiển (C2)

Sự phối hợp chung giữa các hoạt động chắc chắn là một trong những yếu tố quan trọng nhất để hiểu được tình trạng kém hiệu quả của VKS. Nó đã tỏ ra khó khăn ở nhiều khía cạnh. Một mặt, về trình độ kỹ thuật - chiến thuật trong các nhiệm vụ. Ở miền Bắc, trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, các nhà điều hành trên các máy bay chỉ huy không quân Il-22 Coot-B chịu trách nhiệm chỉ đạo các cuộc tuần tra của Nga với ưu thế trên không đối với các máy bay Ukraine đã không thể khai thác những thông tin được cung cấp từ các trạm radar Podlet K1 đặt ở Nga. Ở khu vực miền Nam, chỉ có 2 hoặc 3 đợt A-50 Mainstay xuất kích hàng ngày được thực hiện, tính hiệu quả của chúng cũng bị hạn chế do các chiến thuật bay ở tầm rất thấp của máy bay Ukraine (được tập trung huấn luyện trong quá trình đào tạo) cũng như do tính dễ bị tổn thương của chúng trong tác chiến điện tử.

1702090330490.png

Máy bay Il-22 Coot-B

Mặt khác, việc kết hợp trong các kế hoạch tác chiến - chiến thuật, và hơn thế nữa, bao gồm cả việc chỉ huy và thiết lập các kế hoạch tấn công – đã bị ảnh hưởng từ những lựa chọn về mặt tổ chức. Trong trường hợp đầu tiên, các chiến dịch không quân của Nga được giao trực tiếp cho các quân khu, mỗi quân khu có khu vực trách nhiệm riêng. Liên quan đến ưu thế trên không, điều này đã hạn chế việc thiết lập một hệ thống phòng không tích hợp bao gồm các tên lửa SAM tầm xa vì các thông tin trước hết được chuyển đến các máy tính của các quân khu. Trái lại, các khu vực do người Nga chiếm giữ được chia thành 8 vùng, ở đó hai chiếc Flanker hoặc hai chiếc MiG-31 hoạt động gần như liên tục, dường như là đã đạt được thành công nào đó - nhưng không nhận được sự tiếp nhiên liệu khi bay, điều đáng lẽ đã có thể khiến các chiến dịch trở nên hiệu quả hơn.

1702090384908.png

Mig-31 của Nga

Sự phụ thuộc của VKS vào các quân khu cũng gây ra những hậu quả về tầm nhìn tổng thể về cách tiếp cận và chiến trường. Không có CAOC (Trung tâm tác chiến liên hợp), VKS đã nhận thấy quyền tự do hành động của họ bị hạn chế, kể cả đối với các cuộc tấn công của máy bay không người lái Ukraine Tu-141/143 nhằm vào các căn cứ Engels-2 và Dyagilevo vào ngày 6/12/2022, không được phòng không tính đến. Vụ tấn công một chiếc A-50 tại căn cứ Machulishchy vào ngày 26/2/2022 dựa trên một logic khác, khi máy bay không người lái cỡ nhỏ thả bom lên chiếc máy bay gần căn cứ. Vụ tấn công bằng máy bay không người lái vào Điện Kremlin ngày 4/5/2023 vẫn còn là chủ đề suy đoán về các phương tiện được sử dụng và chủ thể đã thực hiện. Người ta cũng lưu ý rằng nhiều vụ tấn công bằng máy bay không người lái nhằm vào các vị trí ở Crimea hoặc gần bán đảo này chưa được phát hiện hoặc xử lý một cách có hệ thống.

1702090502864.png

Căn cứ không quân Engels-2 của Nga bị tấn công

Việc lựa chọn phụ thuộc vào các lực lượng lục quân cũng có tác động đến các chiến dịch ngăn chặn và hỗ trợ trên không. Vì ưu tiên hỗ trợ trực tiếp cho các đơn vị lục quân, nên chuỗi chỉ huy được lựa chọn không cho phép các chiến dịch không quân được thực hiện một cách tự chủ và bằng cách tập hợp các máy bay có sẵn cho mỗi vùng. Ngoài ra, hiệu quả chung của các chiến dịch không đối đất cũng chịu thiệt thòi trên phương diện đánh giá thiệt hại trong trận chiến (BDA). Cụ thể, các phi công Nga đã cho biết trong báo cáo là họ có đạt được mục tiêu hay không - với nguy cơ rằng mong muốn làm hài lòng các cấp trên của họ khiến họ phải nói dối – những thông tin của họ có thể đã được xác nhận bằng hình ảnh vệ tinh. Kết quả là các mục tiêu không bị tiêu diệt hoặc hầu như không bị hư hại sẽ không bị tấn công lại, dẫn đến việc đánh giá quá cao sự thành công của các chiến dịch không quân.


.....
 
Trạng thái
Thớt đang đóng
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top