- Biển số
- OF-320235
- Ngày cấp bằng
- 19/5/14
- Số km
- 1,852
- Động cơ
- 363,765 Mã lực
MẶT TRẬN CAO BẰNG-THÁNG 2 NĂM 1979
(Ký ức chiến tranh của Trọng Bảo, ‘đài trưởng’ điện đài thông tin 2W, tiểu đoàn 3, trung đoàn 246, sư đoàn 346)
Kỳ 9: Phần 6 – NGÀY 19/2: NGÀY THỨ BA CỦA CHIẾN TRANH
Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của bọn bành trướng Trung Quốc đã sang ngày thứ ba (19-2). Tiểu đoàn 3 của chúng tôi tuy đã bị thiệt hại nặng và vẫn trụ vững, nhưng lực lượng của Đại đội 11 ở các chốt tiền tiêu phía cửa khẩu Bình Mãng còn rất ít.
Khoảng 5 giờ sáng, bọn địch chiếm được mỏm ĐKZ, đến trưa cùng ngày thì chúng chiếm được phần lớn chốt cây đa thứ nhất của Đại đội 11. Tuy vậy, chúng cũng không thể tiến ngay sang được chốt cây đa thứ hai vì vấp phải sự kháng cự quyết liệt của bộ đội ta. Tại chốt cây đa thứ nhất bộ đội đang đánh giáp la cà với quân địch và khẩn thiết yêu cầu tiểu đoàn cho pháo cối bắn trùm lên trận địa. Khi những người lính cuối cùng đã ngã xuống, hỏa lực cối 82 của Đại đội 12 được lệnh bắn trùm lên chốt cây đa thứ nhất đang lúc nhúc quân bành trướng xâm lược.
Tối ngày 19-2, chỉ huy tiểu đoàn quyết định rút Đại đội 11 về khu trường cấp 1+2 thị trấn Sóc Giang xây dựng trận địa phòng ngự. Như vậy là toàn bộ các tuyến phòng ngự phía trước là các chốt cây đa thứ nhất, chốt cây đa thứ hai và mỏm ĐKZ đã lọt vào tay quân bành trướng xâm lược. Tuy vậy, tại mỏm 1 của chốt cây đa thứ nhất vẫn có tiếng súng bộ binh của quân ta kiên cường kháng cự.
Đến đêm, khi các chiến sĩ trinh sát bò lên kiểm tra mới biết binh nhất, chiến sĩ Lý Mý Sùng, dân tộc H’Mông, quê ở Hà Giang vẫn bám trụ suốt cả ngày giữ vững mỏm 1 chốt cây đa thứ nhất.
Nguyên do là bởi tối hôm trước (tối ngày 18/02-TB), một chiến sĩ khi lên gọi Lý Mý Sùng rút về chốt cây đa thứ hai đã bị trúng đạn hy sinh ngay gần đó. Không nhận được lệnh rút lui, Lý Mý Sùng một mình một khẩu súng máy, dù không được tiếp tế, không thức ăn nước uống gì vẫn cứ trụ lại đến cùng chiến đấu đẩy lui nhiều đợt tấn công của quân địch, giữ vững trận địa suốt ngày 19-2. Đến tối, các chiến sĩ trinh sát phải băng qua làn lửa đạn bò lên kéo chân gọi Lý Mý Sùng mới biết để rút về phía sau theo đơn vị.
Tôi đã gặp Lý Mý Sùng ngay sau đấy, khi Đại đội 11 đã rút về lập tuyến phòng ngự ở trường cấp 1+2 thị trấn Sóc Giang. Đó là một chiến sĩ còn rất trẻ, có lẽ chưa tròn hai mươi tuổi. Khuôn mặt Sùng trắng trẻo, dáng người thấp, vẻ hiền lành, ít nói. Tôi hỏi:
- Hôm trước, khi xung quanh mình không còn đồng đội nào Sùng lại không rút lui về phía sau?
Lý Mý Sùng ngạc nhiên:
- Ơ… Sao lại rút lui! Trung đội trưởng nó đã bảo mình phải chiến đấu, kiên quyết giữ chốt đến cùng cơ mà?
- Thế Sùng bắn nó chết nhiều không?
- Nó chết nhiều, nhưng còn đông lắm…
Với cách trả lời ngắn gọn của Lý Mý sùng, tôi biết chả khai thác được gì thêm ở người chiến sĩ dân tộc H’Mông này nữa.
Theo các chiến sĩ cùng bộ phận với Sùng cho biết:
Hai ngày đêm liền, Lý Mý Sùng bám trụ bảo vệ mỏm chốt, không được tiếp tế cơm cháo gì cả. Với một khẩu đại liên và hai hòm đạn Lý Mý Sùng chờ bọn giặc xông lên là bắn, tiêu diệt được hơn 60 tên địch. Chiến công của Sùng có ý nghĩa là đã chặn được đội hình quân địch, không cho chúng phát triển tấn công sang chốt cây đa thứ hai, đảm bảo cho số chiến sĩ còn lại và các thương binh ở đây rút lui an toàn về phía sau.
Sau chiến tranh, tôi lại gặp Lý Mý Sùng khi vừa ở đại hội liên hoan chiến thắng quân Trung Quốc xâm lược trở về. Tại đại hội, Lý Mý Sùng đã được Thủ tướng Phạm Văn Đồng hỏi chuyện. Khi biết Lý Mý Sùng chưa biết chữ, thủ tướng đã rút cây bút máy đang cài ở túi áo của mình, tặng cho Sùng.
(Bản báo cáo thành tích của Lý Mý Sùng là do tôi được chỉ huy tiểu đoàn giao chắp bút và hướng dẫn chiến sĩ này học thuộc lòng trước khi đi dự đại hội vì Sùng chưa biết chữ).
Lý Mý Sùng cho chúng tôi xem cây bút máy của Thủ tướng cho và nói:
- Thủ tướng dặn về phải học cái chữ đấy!
Tôi hỏi: - Thế Sùng đã học được nhiều cái chữ chưa?
Sùng ấp úng: - Khó lắm! Mới học được ít thôi…
Tôi nói:
- Ô! Phải cố gắng nhé. Đáng giặc được thì học chữ cũng phải được đấy nhé!
Lý Mý Sùng gật đầu. Tôi tin Lý Mý Sùng nhất định sẽ học được.
Những chiến sĩ của tiểu đoàn chúng tôi ngày đầu giáp trận đánh quân bành trướng xâm lược là như vậy đó.
Họ chủ yếu mới nhập ngũ năm 1978, mới huấn luyện bắn súng đến bài 2. Có chiến sĩ chưa sử dụng thành thạo các loại súng, chưa hiểu hết tính năng, tác dụng của các loại trang bị vũ khí.
Ngày 20-2 trong trận đánh ở thị trấn Sóc Giang có một chiến sĩ mới người dân tộc H’Mông còn vác khẩu trung liên đuổi theo xe tăng quân địch bắn liền hai loạt. Thấy xe tăng không cháy, buồn thiu ôm súng quay lại quần nhau với bộ binh quân bành trướng trên cánh đồng trồng ngô phía trước bản Nà Nghiềng.
Vậy là hết ngày 19-2, Đại đội 11 đã bị đánh bật khỏi các điểm chốt sát cửa khẩu Bình Mãng. Bọn Trung Quốc đã chiếm được toàn bộ các chốt cây đa thứ nhất, chốt cây đa thứ hai và mỏm ĐKZ. Tình hình cuộc chiến ở khu vực Hà Quảng đã có những thay đổi do nhiều hướng tuyến phòng ngự cũng đã bị quân xâm lược chọc thủng. Tiểu đoàn 3 chúng tôi khẩn trương chuẩn bị cho những trận đánh mới ác liệt hơn... Dưới đây là đoạn nhật ký chiến tranh tôi ghi chép về ngày 19-2-1979:
- Địch: Tổ chức tấn công liên tục cả ngày với lực lượng đông đảo, có xe tăng yểm trợ. Chúng tấn công không thành đợt rõ ràng. 5 giờ sáng, địch chiếm mỏm ĐKZ và một mỏm trên chốt cây đa thứ nhất. Khoảng 1 giờ chiều chiếm nốt chốt cây đa thứ hai.
- Ta: Đại đội 11 chiến đấu rất ngoan cường dũng cảm, tiêu diệt gần 100 tên địch. Đến 1 giờ chiều thì bị đánh bật ra khỏi trận địa. Tối 19-2, lực lượng còn lại của đại đội 11 rút lui về khu vực trường cấp 1+2 thị trấn Sóc Giang tổ chức trận điạ phòng ngự chặn bọn địch từ hướng biên giới tràn xuống.
- Đại đội 12 hoả lực những ngày qua đã sử dụng cối 82 và súng 12ly7 chi viện hiệu quả cho các đơn vị chiến đấu tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Theo đại đội 12 báo cáo, đơn vị đã dùng cối 82 bắn sang bên kia biên giới trúng một kho xăng của địch cháy liên tục hai ngày liền. Hỏa lực 12ly7 bắn kiềm chế các ổ đại liên của quân địch ở khu vực đồi thông và khe núi, ngăn chặn bộ binh của địch từ biên giới tiến sang chốt cây đa thứ nhất của đại đội 11.
Bọn địch đã hình thành thế bao vây xiết chặt Tiểu đoàn 3 chúng tôi. Từ phía cửa khẩu Bình Mãng bộ binh, xe tăng quân giặc lúc nhúc tiến xuống đến gần khu vực bản Cốc Vường. Từ phía Đôn Chương pháo địch bắn dội lên. Bộ binh, xe tăng địch đã xuất hiện ở tuyến đường từ ngã ba Đôn Chương lên thị trấn Sóc Giang.
Bọn địch đã vượt qua được Nậm Lũng, Trường Hà tiến xuống đánh chiếm khu vực ngã ba Đôn Chương.
Đơn vị pháo lựu 122 ở khu vực Cốc Sâu bị bọn địch đánh tập hậu từ ngã ba Đôn Chương lên phải kéo pháo ra mặt đường ngắm bắn xe tăng của chúng. Hết đạn họ đã phá hủy pháo rút lên dãy núi đất cùng bộ binh phòng ngự.
Phía Mỏ Sắt, Thông Nông trinh sát báo về quân địch đang gấp rút hành quân ngược lên thị trấn Sóc Giang mà không gặp bất cứ sự chặn đánh nào.
Sau này tôi mới biết dọc tuyến biên giới bọn địch phá đá làm đường đưa xe tăng lên núi. Khi pháo binh đang bắn dứt, chúng đã thả trôi xe tăng sang đất ta. Xe tăng địch chạy vào thị trấn Thông Nông rồi ta mới biết nhưng không thông báo được cho các đơn vị tuyến sau vì đường dây thông tin bị cắt đứt. Những chiếc xe tăng quân địch che hai chữ “Bát-nhất”, cắm cờ đỏ sao vàng chạy xuống tận huyện lỵ Hòa An. Nhân dân hai bên đường còn tưởng là xe tăng quân ta diễn tập kéo ra xem.
(Chú thích của TB:
Ở cột mốc 108, phía trên hang Pắc-Pó, quân Trung Quốc dùng qoái chiêu là dùng tời-gìm trợ lực, thả xe tăng từ điểm cao có cột mốc 108 xuống ngay đầu quân ta, làm ta hoàn toàn bất ngờ.
Sau đó, đoàn xe tăng Trung Quốc này đã xộc thẳng vào sâu nội địa Cao Bằng)
Đoàn xe tăng địch gặp lực lượng của Sư đoàn 346 phục kích chặn đánh tại Bản Sảy, xã Bế Triều, huyện Hòa An. Trận đánh ở Bản Sảy ta đã tiêu diệt 12 xe tăng, 150 tên địch ngày 18-2. Đây chính là mũi tiến công của quân định thọc sâu vào vị trí chỉ huy của Sư đoàn 346 và tiến về thị xã Cao Bằng.
Tại điểm cao 505 ngay phía trên trận địa của Đại đội 10 xuất hiện lực lượng trinh sát đặc nhiệm sơn cước, thám báo của địch. Vậy là ba bên, bốn phía quân thù đang dồn đến. Thị trấn Sóc Giang như một ốc đảo chơ vơ giữa “biển người” của quân bành trướng xâm lược.
Trong khi đó kể từ ngày 18-2, Tiểu đoàn 3 chúng tôi không còn nhận được bất cứ sự chi viện nào của cấp trên, kể cả về lực lượng, hỏa lực và lương thực, đạn dược.
Việc vận chuyển thương binh về phía sau cũng không thể thực hiện được nữa.
Sở chỉ huy của trung đoàn và các trận địa pháo, các đơn vị ở phía sau đều bị bọn địch chia cắt tấn công dữ dội, phải chịu rất nhiều thiệt hại.
Các đơn vị trực thuộc trung đoàn và phối thuộc đều bị bao vây cô lập phải độc lập chiến đấu rất quyết liệt với bọn giặc đông gấp bội, không thể chi viện được cho nhau được nữa.
Không biết chúng tôi còn giữ được thị trấn Sóc Giang bao lâu nhưng chắc chắn là những ngày tiếp theo sẽ diễn ra những trận đánh vô cùng ác liệt.
Giữa vòng vây trùng trùng lớp lớp của quân thù thế này chúng tôi khó có thể thoát ra, những người còn sống sót sẽ không còn đường rút lui. Nghĩ vậy nhưng tự dưng tôi cảm thấy không còn sợ và lo lắng nhiều như những ngày đầu nữa.
Hình như tất cả mọi người có mặt trong hang đều có cảm nhận và suy nghĩ như vậy. Có lẽ mọi người cũng như tôi đều nghĩ ngày mai nhất định mình sẽ quyết chiến một trận với bọn xâm lược và nhất định sẽ chết ở cái thị trấn miền biên ải này nên không ai còn thấy lo lắng sợ hãi. Chúng tôi nhắc nhau sẽ bắn đến viên đạn cuối cùng nhưng sẽ để lại cho mình một quả lựu đạn cuối cùng.
Tình hình tạm lắng xuống tôi mới có chút thời gian để ghi chép tình hình trong ngày. Chút mực tím trong lọ penexlin sắp hết. May là tôi còn mấy cái bút chì vốn là “học cụ” được cấp để ghi và dịch điện huấn luyện chuyên ngành thông tin vô tuyến.
Ánh sáng trong hang hơi tối nhưng tôi vẫn nhận ra chính trị viên Hoàng Quốc Doanh. Anh đang đi đi lại lại giữa hang vẻ suy tư. Khi tôi đang cắm cúi ghi chép thì có người vỗ nhẹ trên vai. Tôi ngẩng đầu lên nhận ra là chính trị viên Hoàng Quốc Doanh. Theo phản xạ của người lính tôi định đứng dậy trước người chỉ huy thì anh bảo: - Viết gì thì cứ viết đi...
Đoạn, anh đi qua chỗ các thương binh đang nằm ngồi dựa vào vách hang. Anh hỏi chuyện một chiến sĩ bị thương vào tay, căn dặn mấy chiến sĩ vận tải vừa đi chuyển thương về. Giữa lúc đó thì trợ lý tham mưu tiểu đoàn Bùi Đức Thọ đến báo cáo. Chắc là có việc khẩn cấp nên chính trị viên Hoàng Quốc Doanh vội theo trợ lý tham mưu Thọ đi ra phía cửa hang chính.
Đêm 19-2, Tiểu đoàn 3 nhận được bức điện của chỉ huy Trung đoàn 246 qua tổ đài vô tuyến 2W:
-“Trung đoàn lệnh cho Tiểu đoàn 3 cơ động lực lượng, rút lui về phía nam cao điểm 505 tổ chức trận địa phòng ngự”.
Đảng ủy tiểu đoàn lập tức tiến hành họp phiên bất thường ngay sau đó. Tham dự cuộc họp có đại úy Đàm Đình Ngữ, trung đoàn phó, TMT Trung đoàn 246 đang có mặt trực tiếp theo dõi chỉ huy chiến đấu tại Tiểu đoàn 3. Đảng ủy tiểu đoàn ra nghị quyết “xin được tiếp tục ở lại chiến đấu bảo vệ thị trấn Sóc Giang, ngăn chặn bước tiến của quân xâm lược Trung Quốc”. Quyết tâm ấy đã được báo cáo về trung đoàn ngay trong đêm cũng qua mạng thông tin vô tuyến điện 2W. Trung đoàn đồng ý với quyết định của Tiểu đoàn 3. Ngay sau đó liên lạc bằng vô tuyến điện 2W với chỉ huy trung đoàn cũng bị mất hẳn luôn.
Từ vị trí chỉ huy của Tiểu đoàn 3 cũng chỉ còn liên lạc với các đơn vị trực thuộc được bằng các máy vô tuyến điện sóng cực ngắn 884 của tiểu đội tôi là chủ yếu. Các tuyến đường dây lên các trận địa đã bị đạn pháo băm nát không khắc phục được nữa. Các chiến sĩ hữu tuyến và một số anh em tiểu đội truyền đạt được biên chế vào các bộ phận trực tiếp chiến đấu và tăng cường cho các đơn vị. Tổ đài vô tuyến điện đảm bảo thông tin cho Đại đội 11 của chiến sĩ Châu cũng đã được rút về hang huyện ủy.
Do đó, tại sở chỉ huy tiểu đoàn bây giờ có hai máy 884 và ba chiến sĩ thông tin tương đối giỏi nên tôi thấy yên tâm hơn. Trung đội trưởng Phạm Hoa Mùi giao lại cho tôi ba khối pin dự trữ cuối cùng. Tôi giữ lại một khối cho máy vô tuyến ở sở chỉ huy tiểu đoàn, gửi cho tổ đài ở Đại đội 10 và Đại đội 12mỗi tổ một khối pin dự trữ. Tôi căn dặn anh em phải hết sức tiết kiệm nguồn pin để luôn giữ vững liên lạc phục vụ chiến đấu.
Khi tôi đang ngồi dựa vào thành hang nhắm mắt mong sẽ ngủ được một lát thì Nguyễn Văn Trọng, tiểu đội phó truyền đạt, người vừa tham gia chiến đấu ở chốt của Đại đội 11 về lần đến tìm. Nguyễn Văn Trọng kéo tôi ra gần cửa hang phụ. Hai chúng tôi cùng ngồi bệt xuồng nền hang lạnh giá. Trọng rút từ trong túi ngực ra một cái ví đưa cho tôi và nói:
- Đây là cái ví của anh Đam. Em trao lại để anh giữ. Sau này nếu về được quê hương anh chuyển cho gia đình anh Đam nhé!
Tôi bảo: - Mày cứ giữ lấy không được à?
Trọng trả lời:
- Anh giữ nó thì hơn. Ngày mai, có khả năng em sẽ chuyển sang bộ phận trực tiếp chiến đấu nên… ….
Tôi hiểu nên không nói thêm nữa.
Tôi cầm và run run mở cái ví thấm máu của Nguyễn Văn Đam ra. Cái ví của Đam đựng ảnh bạn bè cùng số tiền là 70 đồng. Trong một ngăn ví còn có mấy mảnh giấy nhỏ gấp làm tư thấm máu. Tôi mở ra xem. Đó là các quyết định chuẩn y kết nạp đoàn cho ba thanh niên thuộc chi đoàn trung đội thông tin mà Nguyễn Văn Đam là bí thư chi đoàn. Đam đã nhận các quyết định này từ tối hôm 16-2. Đam chưa kịp họp ban chấp hành chi đoàn để tổ chức lễ kết nạp cho các đoàn viên mới thì cuộc chiến tranh nổ ra.
Tôi lập tức thông báo ngay cho các anh em trong ban chấp hành chi đoàn và trung đội trưởng Phạm Hoa Mùi biết. Chúng tôi hội ý nhanh và quyết định sẽ thông báo qua vô tuyến điện việc kết nạp đoàn cho ba chiến sĩ ấy. Để tiết kiệm nguồn nên bức điện tôi gửi cho chiến sĩ Trần Đức Đình thuộc tiểu đội tôi hiện đang ở Đại đội 12 chỉ có một câu ngắn gọn: “Đ/c đã được kết nạp vào đoàn”.
Đêm ngày 19-2, chúng tôi nhiều người không ngủ. Người thì nhận nhiệm vụ vận chuyển, đưa các thương binh nặng lên Lũng Vỉ, Lũng Vài ở trên dãy núi đá, người thì mang xẻng cuốc đi đào huyệt chôn cất các liệt sĩ hoặc củng cố công sự, trận địa chuẩn bị cho trận đánh quyết liệt vào ngày mai.
Không biết bộ phận nuôi quân của tiểu đoàn bộ đã nấu nướng bằng cách nào dưới làn pháo của địch mà đến gần sáng chúng tôi mỗi người được phát một nắm cơm bằng nắm tay và một miếng thịt lợn nhỏ ướp muối. Chúng tôi vừa ăn vừa tiếp tục triển khai công việc chuẩn bị chiến đấu. Số đạn cối 82 ít ỏi còn lại được trung đội vận tải chuyển lên trận địa Đại đội 12 trên dãy núi đá, các loại đạn bộ binh và lựu đạn thì chia hết cho các bộ phận. Kho quân khí của tiểu đoàn trống rỗng kể từ buổi tối ngày hôm đó…
HÌNH MINH HỌA:
TRẬN BẢN SẨY.
(Câu chuyện NHẤT thứ 2 của Cao Bằng)
Đến ngày hôm nay, đã có hàng chục ngàn bài viết của cư dân mạng, cũng như hàng ngàn bài viết trên các tạp chí truyền thông điện tử, kể về trận Bản Sẩy. Trong số các bài viết trên, có bạt ngàn các bài viết với đủ các thể loại ‘vẽ rắn thêm chân’ cho trận Bản Sẩy.
Vì thế, Tuan Bim sẽ không đi vào chi tiết của trận Bản Sẩy này. Mà chỉ tóm tắt tích chuyện này, và môt câu chuyện ‘NHẤT’ số 2, của Cao Bằng, như sau:
1/Tóm tắt trận đánh:
-Bản Sẩy thuộc xã Bế Triều, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng ở về phía đông bắc đường 166 (thị xã Cao Bằng đi Hà Quảng), cách thị xã Cao Bằng 12km về phía tây bắc, cách biên giới Việt-Trung và mốc 113 khoảng 30km về phía đông nam.
-Ngày 18/02/1979, sau khi chiếm Thông Nông, Thạch An, để phối hợp với các hướng Trà Lĩnh, Trùng Khánh, quân Trung Quốc điều 1 sư đoàn tăng cường có 1 phân đội xe tăng phái đi trước, từ Thông Nông tiến theo đường 166 tấn công về thị xã Cao Bằng.
-Tại đây, đoàn xe tăng Trung Quốc không có bộ binh đi cùng, đã bị Đại đội 10, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 851, Sư đoàn 346, Quân khu 1 phục kích tiêu diệt.
-Kết quả là: Chúng ta diệt 150 tên địch, bắn cháy 12 xe tăng, thu 1 đại liên, 3 AK cùng một số đạn, khí tài khác.
2/ Hình ảnh minh họa:
Hình chụp ‘Loạt xe tăng quân thù Trung Quốc bị ta tiêu diệt’ ở Bản Sẩy, của phóng viên ảnh Trần Mạnh Thường , là các tấm hình trong bài.
TRƯỢT ANH HÙNG TRUNG QUỐC
(Câu chuyện NHẤT số 3 của Cao bằng, nói về số phận chiếc xe tăng Trung Quốc Type-62, số hiệu 706, theo tài liệu của Trung Quốc - theo tài liệu của Phan Trường Sơn)
Chiều 19-2-1979, Đại đội xe tăng 7, Tiểu đoàn 3 dẫn đầu đội hình Trung đoàn xe tăng của Quân đoàn 42, thuộc Đại quân khu Quảng Châu, tiến công trên hướng từ Đông Khê theo đường số 4 - về thị xã Cao Bằng.
Lúc 13h35, Đại đội 7 tổ chức vượt qua cầu số 9 (theo bản đồ Trung Quốc) - một cây cầu đá đã bị công binh VN đặt mìn phá hủy một phần. Chỉ chiếc đi đầu của Trung đội 1 mang số hiệu 706 qua được trước khi cầu sập, chiếc thứ hai phải dừng lại và bị bắn cháy. Toàn bộ đội hình phía sau phải dừng lại và mất liên lạc với xe 706.
Xe 706 tiếp tục lao thẳng về thị xã Cao Bằng với tốc độ 40km/h. Trên đường chiếc xe này bị trúng đạn làm trưởng xe trung đội trưởng Tạ Vinh Sinh bị thương nặng và pháo hai Dương Bỉnh Nam tử trận. Lái xe Lưu Yên Huy và pháo thủ Trịnh Hải Thạch tiếp tục điều khiển xe vừa chạy vừa bắn trả.
Chiếc xe này chạy vào trong thị xã Cao Bằng, sau đó vượt qua cầu sông Bằng và chạy lên đồi Nà Toòng (điểm cao 316). Tại đây, xe 706 đã bị bộ đội Việt Nam đã bao vây tấn công và bắn cháy xe.
Hai lính tăng Trung Quốc còn lại của kíp xe 4 người, phải trốn vào rừng, sau đó bị bắt làm tù binh chiều 21-2-1979 trong khi đang ra ngoài tìm thức ăn.
Quân Trung Quốc sau đó làm chủ khu vực và tìm thấy xác xe tăng. Cho rằng cả 4 thành viên kíp lái đều đã chết trong chiến đấu, chỉ huy đơn vị xe tăng này, đã viết báo cáo ca ngợi thành tích và đề nghị phong danh hiệu "anh hùng chiến xa" cho xe 706.
Phóng viên của xưởng phim Bát Nhất được điều đến quay phim, chụp ảnh để làm thành phim tài liệu.
Tuy nhiên giữa lúc đấy thì Đài Tiếng nói Việt Nam cho phát thanh lời khai của các tù binh Trung Quốc, trong đó có pháo thủ Trịnh Hải Thạch. Thế là tất cả đều bị hủy bỏ.
Kết thúc đợt chiến đấu tháng 2-1979, các xe 704, 705, 708 của Trung đội 1 đều được phía Trung Quốc tặng huân chương ‘Nhất đẳng công’, chỉ riêng xe 706 được coi như biến mất khỏi lịch sử.
(Ký ức chiến tranh của Trọng Bảo, ‘đài trưởng’ điện đài thông tin 2W, tiểu đoàn 3, trung đoàn 246, sư đoàn 346)
Kỳ 9: Phần 6 – NGÀY 19/2: NGÀY THỨ BA CỦA CHIẾN TRANH
Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của bọn bành trướng Trung Quốc đã sang ngày thứ ba (19-2). Tiểu đoàn 3 của chúng tôi tuy đã bị thiệt hại nặng và vẫn trụ vững, nhưng lực lượng của Đại đội 11 ở các chốt tiền tiêu phía cửa khẩu Bình Mãng còn rất ít.
Khoảng 5 giờ sáng, bọn địch chiếm được mỏm ĐKZ, đến trưa cùng ngày thì chúng chiếm được phần lớn chốt cây đa thứ nhất của Đại đội 11. Tuy vậy, chúng cũng không thể tiến ngay sang được chốt cây đa thứ hai vì vấp phải sự kháng cự quyết liệt của bộ đội ta. Tại chốt cây đa thứ nhất bộ đội đang đánh giáp la cà với quân địch và khẩn thiết yêu cầu tiểu đoàn cho pháo cối bắn trùm lên trận địa. Khi những người lính cuối cùng đã ngã xuống, hỏa lực cối 82 của Đại đội 12 được lệnh bắn trùm lên chốt cây đa thứ nhất đang lúc nhúc quân bành trướng xâm lược.
Tối ngày 19-2, chỉ huy tiểu đoàn quyết định rút Đại đội 11 về khu trường cấp 1+2 thị trấn Sóc Giang xây dựng trận địa phòng ngự. Như vậy là toàn bộ các tuyến phòng ngự phía trước là các chốt cây đa thứ nhất, chốt cây đa thứ hai và mỏm ĐKZ đã lọt vào tay quân bành trướng xâm lược. Tuy vậy, tại mỏm 1 của chốt cây đa thứ nhất vẫn có tiếng súng bộ binh của quân ta kiên cường kháng cự.
Đến đêm, khi các chiến sĩ trinh sát bò lên kiểm tra mới biết binh nhất, chiến sĩ Lý Mý Sùng, dân tộc H’Mông, quê ở Hà Giang vẫn bám trụ suốt cả ngày giữ vững mỏm 1 chốt cây đa thứ nhất.
Nguyên do là bởi tối hôm trước (tối ngày 18/02-TB), một chiến sĩ khi lên gọi Lý Mý Sùng rút về chốt cây đa thứ hai đã bị trúng đạn hy sinh ngay gần đó. Không nhận được lệnh rút lui, Lý Mý Sùng một mình một khẩu súng máy, dù không được tiếp tế, không thức ăn nước uống gì vẫn cứ trụ lại đến cùng chiến đấu đẩy lui nhiều đợt tấn công của quân địch, giữ vững trận địa suốt ngày 19-2. Đến tối, các chiến sĩ trinh sát phải băng qua làn lửa đạn bò lên kéo chân gọi Lý Mý Sùng mới biết để rút về phía sau theo đơn vị.
Tôi đã gặp Lý Mý Sùng ngay sau đấy, khi Đại đội 11 đã rút về lập tuyến phòng ngự ở trường cấp 1+2 thị trấn Sóc Giang. Đó là một chiến sĩ còn rất trẻ, có lẽ chưa tròn hai mươi tuổi. Khuôn mặt Sùng trắng trẻo, dáng người thấp, vẻ hiền lành, ít nói. Tôi hỏi:
- Hôm trước, khi xung quanh mình không còn đồng đội nào Sùng lại không rút lui về phía sau?
Lý Mý Sùng ngạc nhiên:
- Ơ… Sao lại rút lui! Trung đội trưởng nó đã bảo mình phải chiến đấu, kiên quyết giữ chốt đến cùng cơ mà?
- Thế Sùng bắn nó chết nhiều không?
- Nó chết nhiều, nhưng còn đông lắm…
Với cách trả lời ngắn gọn của Lý Mý sùng, tôi biết chả khai thác được gì thêm ở người chiến sĩ dân tộc H’Mông này nữa.
Theo các chiến sĩ cùng bộ phận với Sùng cho biết:
Hai ngày đêm liền, Lý Mý Sùng bám trụ bảo vệ mỏm chốt, không được tiếp tế cơm cháo gì cả. Với một khẩu đại liên và hai hòm đạn Lý Mý Sùng chờ bọn giặc xông lên là bắn, tiêu diệt được hơn 60 tên địch. Chiến công của Sùng có ý nghĩa là đã chặn được đội hình quân địch, không cho chúng phát triển tấn công sang chốt cây đa thứ hai, đảm bảo cho số chiến sĩ còn lại và các thương binh ở đây rút lui an toàn về phía sau.
Sau chiến tranh, tôi lại gặp Lý Mý Sùng khi vừa ở đại hội liên hoan chiến thắng quân Trung Quốc xâm lược trở về. Tại đại hội, Lý Mý Sùng đã được Thủ tướng Phạm Văn Đồng hỏi chuyện. Khi biết Lý Mý Sùng chưa biết chữ, thủ tướng đã rút cây bút máy đang cài ở túi áo của mình, tặng cho Sùng.
(Bản báo cáo thành tích của Lý Mý Sùng là do tôi được chỉ huy tiểu đoàn giao chắp bút và hướng dẫn chiến sĩ này học thuộc lòng trước khi đi dự đại hội vì Sùng chưa biết chữ).
Lý Mý Sùng cho chúng tôi xem cây bút máy của Thủ tướng cho và nói:
- Thủ tướng dặn về phải học cái chữ đấy!
Tôi hỏi: - Thế Sùng đã học được nhiều cái chữ chưa?
Sùng ấp úng: - Khó lắm! Mới học được ít thôi…
Tôi nói:
- Ô! Phải cố gắng nhé. Đáng giặc được thì học chữ cũng phải được đấy nhé!
Lý Mý Sùng gật đầu. Tôi tin Lý Mý Sùng nhất định sẽ học được.
Những chiến sĩ của tiểu đoàn chúng tôi ngày đầu giáp trận đánh quân bành trướng xâm lược là như vậy đó.
Họ chủ yếu mới nhập ngũ năm 1978, mới huấn luyện bắn súng đến bài 2. Có chiến sĩ chưa sử dụng thành thạo các loại súng, chưa hiểu hết tính năng, tác dụng của các loại trang bị vũ khí.
Ngày 20-2 trong trận đánh ở thị trấn Sóc Giang có một chiến sĩ mới người dân tộc H’Mông còn vác khẩu trung liên đuổi theo xe tăng quân địch bắn liền hai loạt. Thấy xe tăng không cháy, buồn thiu ôm súng quay lại quần nhau với bộ binh quân bành trướng trên cánh đồng trồng ngô phía trước bản Nà Nghiềng.
Vậy là hết ngày 19-2, Đại đội 11 đã bị đánh bật khỏi các điểm chốt sát cửa khẩu Bình Mãng. Bọn Trung Quốc đã chiếm được toàn bộ các chốt cây đa thứ nhất, chốt cây đa thứ hai và mỏm ĐKZ. Tình hình cuộc chiến ở khu vực Hà Quảng đã có những thay đổi do nhiều hướng tuyến phòng ngự cũng đã bị quân xâm lược chọc thủng. Tiểu đoàn 3 chúng tôi khẩn trương chuẩn bị cho những trận đánh mới ác liệt hơn... Dưới đây là đoạn nhật ký chiến tranh tôi ghi chép về ngày 19-2-1979:
- Địch: Tổ chức tấn công liên tục cả ngày với lực lượng đông đảo, có xe tăng yểm trợ. Chúng tấn công không thành đợt rõ ràng. 5 giờ sáng, địch chiếm mỏm ĐKZ và một mỏm trên chốt cây đa thứ nhất. Khoảng 1 giờ chiều chiếm nốt chốt cây đa thứ hai.
- Ta: Đại đội 11 chiến đấu rất ngoan cường dũng cảm, tiêu diệt gần 100 tên địch. Đến 1 giờ chiều thì bị đánh bật ra khỏi trận địa. Tối 19-2, lực lượng còn lại của đại đội 11 rút lui về khu vực trường cấp 1+2 thị trấn Sóc Giang tổ chức trận điạ phòng ngự chặn bọn địch từ hướng biên giới tràn xuống.
- Đại đội 12 hoả lực những ngày qua đã sử dụng cối 82 và súng 12ly7 chi viện hiệu quả cho các đơn vị chiến đấu tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Theo đại đội 12 báo cáo, đơn vị đã dùng cối 82 bắn sang bên kia biên giới trúng một kho xăng của địch cháy liên tục hai ngày liền. Hỏa lực 12ly7 bắn kiềm chế các ổ đại liên của quân địch ở khu vực đồi thông và khe núi, ngăn chặn bộ binh của địch từ biên giới tiến sang chốt cây đa thứ nhất của đại đội 11.
Bọn địch đã hình thành thế bao vây xiết chặt Tiểu đoàn 3 chúng tôi. Từ phía cửa khẩu Bình Mãng bộ binh, xe tăng quân giặc lúc nhúc tiến xuống đến gần khu vực bản Cốc Vường. Từ phía Đôn Chương pháo địch bắn dội lên. Bộ binh, xe tăng địch đã xuất hiện ở tuyến đường từ ngã ba Đôn Chương lên thị trấn Sóc Giang.
Bọn địch đã vượt qua được Nậm Lũng, Trường Hà tiến xuống đánh chiếm khu vực ngã ba Đôn Chương.
Đơn vị pháo lựu 122 ở khu vực Cốc Sâu bị bọn địch đánh tập hậu từ ngã ba Đôn Chương lên phải kéo pháo ra mặt đường ngắm bắn xe tăng của chúng. Hết đạn họ đã phá hủy pháo rút lên dãy núi đất cùng bộ binh phòng ngự.
Phía Mỏ Sắt, Thông Nông trinh sát báo về quân địch đang gấp rút hành quân ngược lên thị trấn Sóc Giang mà không gặp bất cứ sự chặn đánh nào.
Sau này tôi mới biết dọc tuyến biên giới bọn địch phá đá làm đường đưa xe tăng lên núi. Khi pháo binh đang bắn dứt, chúng đã thả trôi xe tăng sang đất ta. Xe tăng địch chạy vào thị trấn Thông Nông rồi ta mới biết nhưng không thông báo được cho các đơn vị tuyến sau vì đường dây thông tin bị cắt đứt. Những chiếc xe tăng quân địch che hai chữ “Bát-nhất”, cắm cờ đỏ sao vàng chạy xuống tận huyện lỵ Hòa An. Nhân dân hai bên đường còn tưởng là xe tăng quân ta diễn tập kéo ra xem.
(Chú thích của TB:
Ở cột mốc 108, phía trên hang Pắc-Pó, quân Trung Quốc dùng qoái chiêu là dùng tời-gìm trợ lực, thả xe tăng từ điểm cao có cột mốc 108 xuống ngay đầu quân ta, làm ta hoàn toàn bất ngờ.
Sau đó, đoàn xe tăng Trung Quốc này đã xộc thẳng vào sâu nội địa Cao Bằng)
Đoàn xe tăng địch gặp lực lượng của Sư đoàn 346 phục kích chặn đánh tại Bản Sảy, xã Bế Triều, huyện Hòa An. Trận đánh ở Bản Sảy ta đã tiêu diệt 12 xe tăng, 150 tên địch ngày 18-2. Đây chính là mũi tiến công của quân định thọc sâu vào vị trí chỉ huy của Sư đoàn 346 và tiến về thị xã Cao Bằng.
Tại điểm cao 505 ngay phía trên trận địa của Đại đội 10 xuất hiện lực lượng trinh sát đặc nhiệm sơn cước, thám báo của địch. Vậy là ba bên, bốn phía quân thù đang dồn đến. Thị trấn Sóc Giang như một ốc đảo chơ vơ giữa “biển người” của quân bành trướng xâm lược.
Trong khi đó kể từ ngày 18-2, Tiểu đoàn 3 chúng tôi không còn nhận được bất cứ sự chi viện nào của cấp trên, kể cả về lực lượng, hỏa lực và lương thực, đạn dược.
Việc vận chuyển thương binh về phía sau cũng không thể thực hiện được nữa.
Sở chỉ huy của trung đoàn và các trận địa pháo, các đơn vị ở phía sau đều bị bọn địch chia cắt tấn công dữ dội, phải chịu rất nhiều thiệt hại.
Các đơn vị trực thuộc trung đoàn và phối thuộc đều bị bao vây cô lập phải độc lập chiến đấu rất quyết liệt với bọn giặc đông gấp bội, không thể chi viện được cho nhau được nữa.
Không biết chúng tôi còn giữ được thị trấn Sóc Giang bao lâu nhưng chắc chắn là những ngày tiếp theo sẽ diễn ra những trận đánh vô cùng ác liệt.
Giữa vòng vây trùng trùng lớp lớp của quân thù thế này chúng tôi khó có thể thoát ra, những người còn sống sót sẽ không còn đường rút lui. Nghĩ vậy nhưng tự dưng tôi cảm thấy không còn sợ và lo lắng nhiều như những ngày đầu nữa.
Hình như tất cả mọi người có mặt trong hang đều có cảm nhận và suy nghĩ như vậy. Có lẽ mọi người cũng như tôi đều nghĩ ngày mai nhất định mình sẽ quyết chiến một trận với bọn xâm lược và nhất định sẽ chết ở cái thị trấn miền biên ải này nên không ai còn thấy lo lắng sợ hãi. Chúng tôi nhắc nhau sẽ bắn đến viên đạn cuối cùng nhưng sẽ để lại cho mình một quả lựu đạn cuối cùng.
Tình hình tạm lắng xuống tôi mới có chút thời gian để ghi chép tình hình trong ngày. Chút mực tím trong lọ penexlin sắp hết. May là tôi còn mấy cái bút chì vốn là “học cụ” được cấp để ghi và dịch điện huấn luyện chuyên ngành thông tin vô tuyến.
Ánh sáng trong hang hơi tối nhưng tôi vẫn nhận ra chính trị viên Hoàng Quốc Doanh. Anh đang đi đi lại lại giữa hang vẻ suy tư. Khi tôi đang cắm cúi ghi chép thì có người vỗ nhẹ trên vai. Tôi ngẩng đầu lên nhận ra là chính trị viên Hoàng Quốc Doanh. Theo phản xạ của người lính tôi định đứng dậy trước người chỉ huy thì anh bảo: - Viết gì thì cứ viết đi...
Đoạn, anh đi qua chỗ các thương binh đang nằm ngồi dựa vào vách hang. Anh hỏi chuyện một chiến sĩ bị thương vào tay, căn dặn mấy chiến sĩ vận tải vừa đi chuyển thương về. Giữa lúc đó thì trợ lý tham mưu tiểu đoàn Bùi Đức Thọ đến báo cáo. Chắc là có việc khẩn cấp nên chính trị viên Hoàng Quốc Doanh vội theo trợ lý tham mưu Thọ đi ra phía cửa hang chính.
Đêm 19-2, Tiểu đoàn 3 nhận được bức điện của chỉ huy Trung đoàn 246 qua tổ đài vô tuyến 2W:
-“Trung đoàn lệnh cho Tiểu đoàn 3 cơ động lực lượng, rút lui về phía nam cao điểm 505 tổ chức trận địa phòng ngự”.
Đảng ủy tiểu đoàn lập tức tiến hành họp phiên bất thường ngay sau đó. Tham dự cuộc họp có đại úy Đàm Đình Ngữ, trung đoàn phó, TMT Trung đoàn 246 đang có mặt trực tiếp theo dõi chỉ huy chiến đấu tại Tiểu đoàn 3. Đảng ủy tiểu đoàn ra nghị quyết “xin được tiếp tục ở lại chiến đấu bảo vệ thị trấn Sóc Giang, ngăn chặn bước tiến của quân xâm lược Trung Quốc”. Quyết tâm ấy đã được báo cáo về trung đoàn ngay trong đêm cũng qua mạng thông tin vô tuyến điện 2W. Trung đoàn đồng ý với quyết định của Tiểu đoàn 3. Ngay sau đó liên lạc bằng vô tuyến điện 2W với chỉ huy trung đoàn cũng bị mất hẳn luôn.
Từ vị trí chỉ huy của Tiểu đoàn 3 cũng chỉ còn liên lạc với các đơn vị trực thuộc được bằng các máy vô tuyến điện sóng cực ngắn 884 của tiểu đội tôi là chủ yếu. Các tuyến đường dây lên các trận địa đã bị đạn pháo băm nát không khắc phục được nữa. Các chiến sĩ hữu tuyến và một số anh em tiểu đội truyền đạt được biên chế vào các bộ phận trực tiếp chiến đấu và tăng cường cho các đơn vị. Tổ đài vô tuyến điện đảm bảo thông tin cho Đại đội 11 của chiến sĩ Châu cũng đã được rút về hang huyện ủy.
Do đó, tại sở chỉ huy tiểu đoàn bây giờ có hai máy 884 và ba chiến sĩ thông tin tương đối giỏi nên tôi thấy yên tâm hơn. Trung đội trưởng Phạm Hoa Mùi giao lại cho tôi ba khối pin dự trữ cuối cùng. Tôi giữ lại một khối cho máy vô tuyến ở sở chỉ huy tiểu đoàn, gửi cho tổ đài ở Đại đội 10 và Đại đội 12mỗi tổ một khối pin dự trữ. Tôi căn dặn anh em phải hết sức tiết kiệm nguồn pin để luôn giữ vững liên lạc phục vụ chiến đấu.
Khi tôi đang ngồi dựa vào thành hang nhắm mắt mong sẽ ngủ được một lát thì Nguyễn Văn Trọng, tiểu đội phó truyền đạt, người vừa tham gia chiến đấu ở chốt của Đại đội 11 về lần đến tìm. Nguyễn Văn Trọng kéo tôi ra gần cửa hang phụ. Hai chúng tôi cùng ngồi bệt xuồng nền hang lạnh giá. Trọng rút từ trong túi ngực ra một cái ví đưa cho tôi và nói:
- Đây là cái ví của anh Đam. Em trao lại để anh giữ. Sau này nếu về được quê hương anh chuyển cho gia đình anh Đam nhé!
Tôi bảo: - Mày cứ giữ lấy không được à?
Trọng trả lời:
- Anh giữ nó thì hơn. Ngày mai, có khả năng em sẽ chuyển sang bộ phận trực tiếp chiến đấu nên… ….
Tôi hiểu nên không nói thêm nữa.
Tôi cầm và run run mở cái ví thấm máu của Nguyễn Văn Đam ra. Cái ví của Đam đựng ảnh bạn bè cùng số tiền là 70 đồng. Trong một ngăn ví còn có mấy mảnh giấy nhỏ gấp làm tư thấm máu. Tôi mở ra xem. Đó là các quyết định chuẩn y kết nạp đoàn cho ba thanh niên thuộc chi đoàn trung đội thông tin mà Nguyễn Văn Đam là bí thư chi đoàn. Đam đã nhận các quyết định này từ tối hôm 16-2. Đam chưa kịp họp ban chấp hành chi đoàn để tổ chức lễ kết nạp cho các đoàn viên mới thì cuộc chiến tranh nổ ra.
Tôi lập tức thông báo ngay cho các anh em trong ban chấp hành chi đoàn và trung đội trưởng Phạm Hoa Mùi biết. Chúng tôi hội ý nhanh và quyết định sẽ thông báo qua vô tuyến điện việc kết nạp đoàn cho ba chiến sĩ ấy. Để tiết kiệm nguồn nên bức điện tôi gửi cho chiến sĩ Trần Đức Đình thuộc tiểu đội tôi hiện đang ở Đại đội 12 chỉ có một câu ngắn gọn: “Đ/c đã được kết nạp vào đoàn”.
Đêm ngày 19-2, chúng tôi nhiều người không ngủ. Người thì nhận nhiệm vụ vận chuyển, đưa các thương binh nặng lên Lũng Vỉ, Lũng Vài ở trên dãy núi đá, người thì mang xẻng cuốc đi đào huyệt chôn cất các liệt sĩ hoặc củng cố công sự, trận địa chuẩn bị cho trận đánh quyết liệt vào ngày mai.
Không biết bộ phận nuôi quân của tiểu đoàn bộ đã nấu nướng bằng cách nào dưới làn pháo của địch mà đến gần sáng chúng tôi mỗi người được phát một nắm cơm bằng nắm tay và một miếng thịt lợn nhỏ ướp muối. Chúng tôi vừa ăn vừa tiếp tục triển khai công việc chuẩn bị chiến đấu. Số đạn cối 82 ít ỏi còn lại được trung đội vận tải chuyển lên trận địa Đại đội 12 trên dãy núi đá, các loại đạn bộ binh và lựu đạn thì chia hết cho các bộ phận. Kho quân khí của tiểu đoàn trống rỗng kể từ buổi tối ngày hôm đó…
HÌNH MINH HỌA:
TRẬN BẢN SẨY.
(Câu chuyện NHẤT thứ 2 của Cao Bằng)
Đến ngày hôm nay, đã có hàng chục ngàn bài viết của cư dân mạng, cũng như hàng ngàn bài viết trên các tạp chí truyền thông điện tử, kể về trận Bản Sẩy. Trong số các bài viết trên, có bạt ngàn các bài viết với đủ các thể loại ‘vẽ rắn thêm chân’ cho trận Bản Sẩy.
Vì thế, Tuan Bim sẽ không đi vào chi tiết của trận Bản Sẩy này. Mà chỉ tóm tắt tích chuyện này, và môt câu chuyện ‘NHẤT’ số 2, của Cao Bằng, như sau:
1/Tóm tắt trận đánh:
-Bản Sẩy thuộc xã Bế Triều, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng ở về phía đông bắc đường 166 (thị xã Cao Bằng đi Hà Quảng), cách thị xã Cao Bằng 12km về phía tây bắc, cách biên giới Việt-Trung và mốc 113 khoảng 30km về phía đông nam.
-Ngày 18/02/1979, sau khi chiếm Thông Nông, Thạch An, để phối hợp với các hướng Trà Lĩnh, Trùng Khánh, quân Trung Quốc điều 1 sư đoàn tăng cường có 1 phân đội xe tăng phái đi trước, từ Thông Nông tiến theo đường 166 tấn công về thị xã Cao Bằng.
-Tại đây, đoàn xe tăng Trung Quốc không có bộ binh đi cùng, đã bị Đại đội 10, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 851, Sư đoàn 346, Quân khu 1 phục kích tiêu diệt.
-Kết quả là: Chúng ta diệt 150 tên địch, bắn cháy 12 xe tăng, thu 1 đại liên, 3 AK cùng một số đạn, khí tài khác.
2/ Hình ảnh minh họa:
Hình chụp ‘Loạt xe tăng quân thù Trung Quốc bị ta tiêu diệt’ ở Bản Sẩy, của phóng viên ảnh Trần Mạnh Thường , là các tấm hình trong bài.
TRƯỢT ANH HÙNG TRUNG QUỐC
(Câu chuyện NHẤT số 3 của Cao bằng, nói về số phận chiếc xe tăng Trung Quốc Type-62, số hiệu 706, theo tài liệu của Trung Quốc - theo tài liệu của Phan Trường Sơn)
Chiều 19-2-1979, Đại đội xe tăng 7, Tiểu đoàn 3 dẫn đầu đội hình Trung đoàn xe tăng của Quân đoàn 42, thuộc Đại quân khu Quảng Châu, tiến công trên hướng từ Đông Khê theo đường số 4 - về thị xã Cao Bằng.
Lúc 13h35, Đại đội 7 tổ chức vượt qua cầu số 9 (theo bản đồ Trung Quốc) - một cây cầu đá đã bị công binh VN đặt mìn phá hủy một phần. Chỉ chiếc đi đầu của Trung đội 1 mang số hiệu 706 qua được trước khi cầu sập, chiếc thứ hai phải dừng lại và bị bắn cháy. Toàn bộ đội hình phía sau phải dừng lại và mất liên lạc với xe 706.
Xe 706 tiếp tục lao thẳng về thị xã Cao Bằng với tốc độ 40km/h. Trên đường chiếc xe này bị trúng đạn làm trưởng xe trung đội trưởng Tạ Vinh Sinh bị thương nặng và pháo hai Dương Bỉnh Nam tử trận. Lái xe Lưu Yên Huy và pháo thủ Trịnh Hải Thạch tiếp tục điều khiển xe vừa chạy vừa bắn trả.
Chiếc xe này chạy vào trong thị xã Cao Bằng, sau đó vượt qua cầu sông Bằng và chạy lên đồi Nà Toòng (điểm cao 316). Tại đây, xe 706 đã bị bộ đội Việt Nam đã bao vây tấn công và bắn cháy xe.
Hai lính tăng Trung Quốc còn lại của kíp xe 4 người, phải trốn vào rừng, sau đó bị bắt làm tù binh chiều 21-2-1979 trong khi đang ra ngoài tìm thức ăn.
Quân Trung Quốc sau đó làm chủ khu vực và tìm thấy xác xe tăng. Cho rằng cả 4 thành viên kíp lái đều đã chết trong chiến đấu, chỉ huy đơn vị xe tăng này, đã viết báo cáo ca ngợi thành tích và đề nghị phong danh hiệu "anh hùng chiến xa" cho xe 706.
Phóng viên của xưởng phim Bát Nhất được điều đến quay phim, chụp ảnh để làm thành phim tài liệu.
Tuy nhiên giữa lúc đấy thì Đài Tiếng nói Việt Nam cho phát thanh lời khai của các tù binh Trung Quốc, trong đó có pháo thủ Trịnh Hải Thạch. Thế là tất cả đều bị hủy bỏ.
Kết thúc đợt chiến đấu tháng 2-1979, các xe 704, 705, 708 của Trung đội 1 đều được phía Trung Quốc tặng huân chương ‘Nhất đẳng công’, chỉ riêng xe 706 được coi như biến mất khỏi lịch sử.