CUỘC GIẢM QUÂN LỊCH SỬ (3)
2/ Bối cảnh trong nước:
Năm 1986, Việt Nam bắt đầu bước vào thời kỳ cải cách kinh tế. Sau một loạt chính sách về giá lương tiền, thì kinh tế xã hội lâm vào khủng hoảng và sa sút trầm trọng.
Trong khi đó, quân đội ta là sản phẩm của đấu tranh giành độc lập và là công cụ để bảo vệ hòa bình. Nay đất nước đã hòa bình “cần phải giảm hai phần ba quân số để tập trung sức xây dựng đất nước về mọi mặt”.
Cuối những năm 198x, Việt Nam bị bao vây cấm vận, nền kinh tế khủng hoảng trầm trọng, lạm phát lên 744%, quân đội thường trực lúc cao nhất có đến 1,6 triệu người, vượt quá xa khả năng bảo đảm của hậu cần quân đội. Trong lúc đó, chúng ta vừa thực hiện nhiệm vụ thường xuyên trong nước lại vừa thực hiện nghĩa vụ quốc tế tại Campuchia và đương đầu với hoạt động tranh chấp gây hấn thường xuyên ở phía Bắc.
Trong thời kỳ đó, ngân sách quốc phòng hằng năm chiếm đến 25% tổng ngân sách quốc gia nhưng vẫn không đủ trang trải các nhu cầu tối thiểu về ăn, ở, trang bị, huấn luyện và chiến đấu của bộ đội; đời sống bộ đội hết sức khó khăn, trang bị thiếu thốn; nếu không thực hiện được việc giảm quân số, không những nền kinh tế không chịu nổi mà sức chiến đấu của Quân đội cũng sẽ ngày càng giảm sút, an ninh quốc phòng không bảo đảm.
3/ Thực trạng quân đội cuối những năm 8x:
Năm 1986, Tổng Tham mưu trưởng đi thị sát dọc vùng biên giới sáu tỉnh phía bắc.
Khi đi thị sát, Bộ nhận thấy, hầu hết sư đoàn, quân đoàn chủ lực mạnh đều được điều hết lên biên giới bố trí theo kiểu “be bờ” với phương châm “Quyết tâm đánh thắng quân địch ngay từ tuyến đầu, trận đầu, loạt đạn đầu”.
Qua chuyến thị sát, Bộ nhận thấy: việc điều động hết chủ lực lên dàn hàng ngang trên biên giới có gì đó chưa thật ổn, lực lượng dày đặc nhưng thế trận phòng thủ thiếu chiều sâu, trong khi lực lượng phòng thủ biển đảo và Tây Nguyên thiếu được tăng cường các đơn vị chủ lực mạnh.
Cũng từ tìm hiểu thực tế, Bộ nhận thấy đời sống của bộ đội trên biên giới quá kham khổ. Bộ đội đóng quân trên các cao điểm sát biên giới, đường đi lại hiểm trở, công tác bảo đảm hậu cần rất khó khăn.
Lúc đó, Liên Xô tư vấn với ta là phải tăng quân thêm một quân đoàn, nhưng Bộ thấy rằng, tình thế buộc phải giảm quân số thường trực; việc giảm quân sẽ tập trung nguồn lực để tăng cường trang bị, huấn luyện, bảo đảm hậu cần, nâng cao sức chiến đấu của quân đội, đồng thời làm nhẹ gánh nặng chi phí quốc phòng, góp phần vào công cuộc đổi mới đất nước.
4/ Kế hoạch giảm quân:
Bộ đã báo cáo với Bộ Chính trị về kết quả chuyến thị sát, tình hình quân đội, tình hình biên giới phía bắc và đề xuất phải thực hiện hai việc cấp thiết trước mắt là bố trí lại đội hình, thế trận phòng thủ chiến lược và giảm quân số thường trực. Ðề xuất của Bộ được Bộ Chính trị chấp thuận và cho triển khai thực hiện.
Sau khi được Bộ Chính trị chấp thuận, Bộ xây dựng kế hoạch phòng thủ chiến lược theo tư duy mới. Trước mắt, điều chỉnh sơ bộ trên tuyến biên giới, đưa bộ đội địa phương và dân quân du kích lên tuyến một, các đơn vị chủ lực lui về tuyến hai nhằm tạo ra thế trận phòng thủ có chiều sâu, sau đó sẽ từng bước điều chỉnh lớn và cơ bản hơn.
Tiếp theo đó, việc giảm quân được tiến hành bởi nhiều giải pháp: giải thể những đơn vị được thành lập để thực hiện các nhiệm vụ lâm thời trước đó; giảm các đơn vị thứ tư của các tiểu đoàn, trung đoàn, sư đoàn trên tuyến biên giới; điều chỉnh rút gọn các đơn vị thực hiện nhiệm vụ quốc tế và bộ đội biên phòng; giảm gọn biên chế các sư đoàn bộ binh, trung đoàn binh chủng, đơn vị huấn luyện và cơ quan nghiệp vụ của các tổng cục, quân khu, quân chủng, binh chủng ở phía sau; chuyển bớt một số đơn vị xây dựng kinh tế sang Nhà nước quản lý; kiện toàn các ban chỉ huy quân sự quận, huyện.
Bộ Chính trị nhất trí giảm: từ quân thường trực 1,5 triệu xuống còn 45 vạn (trong đó đã bao gồm 5 vạn quân thực hiện nhiệm vụ xây dựng kinh tế) và ghi sổ có 5 vạn quân dự bị.
Giảm từ 9 quân đoàn giảm xuống còn 4 quân đoàn.
Di chuyển vị trí đóng quân của Quân đoàn 3, một trong những quân đoàn chủ lực cơ động của Bộ, từ miền Bắc vào Tây Nguyên. Ngoài lý do đi vào trấn giữ một địa bàn chiến lược, thì khi ấy, quân đoàn 3 mà còn ở lại miền Bắc, thì miền Bắc không cung cấp nổi hậu cần.
Có thể nói rằng, đây là cuộc giảm quân phi thường, chưa có trong tiền lệ Quân đội Nhân dân Việt Nam!
Với tính toán giảm hơn 60% số quân thường trực và chỉ nhận từ 15% đến 18% ngân sách thu trong nước chứ không phải tổng thu ngân sách, càng không phải tổng thu nhập quốc dân. Với lộ trình giảm trong ba năm => Cuối cùng, Việt Nam cũng dần bớt đói nghèo.
(còn tiếp)
Hình ảnh cụ Lê Đức Anh, trong chuyến thị sát Biên giới, khi thực hiện chủ trương giảm quân.