- Biển số
- OF-776971
- Ngày cấp bằng
- 11/5/21
- Số km
- 268
- Động cơ
- 39,005 Mã lực
- Tuổi
- 38
Ngày 8 tháng 9 năm Vĩnh Lạc VI (27/9/1408): Ngày Quý Sửu, thăng Tri phủ Lạng Giang Mạc Thúy chức Hữu Tham chính ty Bố Chính Giao Chỉ, thưởng 50 lạng bạc, 500 quan tiền, lụa nõn các loại 5 tấm. Thăng Phó Thiên hộ vệ Trung Giao Châu Nguyễn Như Ngẫu chức Chỉ huy Thiêm sự, thưởng giống như Thúy. Thăng Tri châu phủ Lạng Giang Mạc Huân chức Hữu Tham nghị ty Bố chính; thăng Chỉ huy Thiêm sự vệ Tả Giao Châu Trần Nhữ Thạch chức Chỉ huy Đồng tri; cùng Tri phủ Tân An Mạc Viễn được thưởng so với Thúy giảm một phần năm.
Bọn Thúy đều là người Giao Chỉ, khi đại quân vào nước họ là người đầu tiên qui thuận, giúp dẹp giặc chiêu dụ dân chúng có thành tích. Tân Thành hầu Trương Phụ do tiện nghi trao chức, đến nay vào triều, luận công lao theo thứ tự mà thăng thưởng. Còn lại bọn Bùi Như Long gồm 24 người đều được phong chức Thiên hộ, Bách hộ, cùng ban sắc tưởng thưởng.
Thiên tử đích thân làm thơ tặng bọn Thúy (Minh Thực lục I, 310-311).(17)
Hữu Tham chính là chức vụ hàng thứ năm thuộc ty Bố chính. Ông tham dự tiệc tùng nhiều lần cùng với sứ thần các nước.
Nhưng sự nghiệp phục vụ Đại Minh của Mạc Thúy không kéo dài được lâu. Theo Toàn Thư, ông mất trong cuộc hành quân đánh dẹp Nông Văn Lịch, thủ lĩnh nhóm người nói tiếng Thái ở Lạng Sơn, cộng đồng sắc tộc vốn có quan hệ thân hữu từ trước với vua Trần tại Thăng Long.
Ghi chép của Toàn Thư vào cuối năm Trùng Quang IV (1412): Nông văn Lịch ở Lạng Sơn tụ tập quân lính chiếm giữ đất ấy, chẹn lấp đường đi lại của người Minh, giết bắt vô số. Tham chính Mạc Thúy từng đem quân tiến sâu vào đất ấy, bị trúng tên thuốc độc mà chết (Toàn Thư II, 248).(20)
Như vậy, Mạc Thúy tử trận khoảng cuối năm 1411 hoặc đầu năm 1412
Trần Phong (? – 1428):
Theo Minh Thực lục, Trần Phong người châu Nam Sách (Hải Dương nay); theo Đại Việt Thông Sử, ông người xã Ma Lộng, huyện Chí Linh (Hải Dương nay). Như vậy, châu Nam Sách xưa bao gồm cả Ma Lộng.
Trần Phong đầu hàng quân Minh ngay từ đầu cuộc chiến. Tới tháng 2 năm 1407 đã thấy ông dẫn quân bản bộ phối hợp với Vương Hữu và Liễu Tông đánh phá đạo quân vùng Đông Bắc dưới quyền Hồ Đỗ. Sau khi đối đầu quân Minh thất lợi, bị thiệt hại nặng, Hồ Đỗ gom góp tàn quân trụ lại tại Bình Than. Trương Phụ ra lệnh Phong tấn công khiến Đỗ phải bỏ chạy về cửa Muộn.
Ghi chép ngày 19 tháng 11, Vĩnh Lạc V (18/12/1407): Ngày Kỷ Tỵ, viên quan Chỉ huy Đồng tri Hữu Vệ Giao Châu người địa phương tên là Trần Phong, cùng bọn Thiên hộ Nguyễn Chính, Bách hộ Tống Như Lộ tất cả 20 người đến kinh sư cống phương vật. Bèn ban 80 đĩnh tiền giấy, một bộ tơ gai; cùng ban cho bọn tùy tòng tiền, có sai biệt (Minh Thực lục I, 289).(26)
Tháng 4 năm 1411, vua Minh đã cử sứ sang Giao Chỉ thưởng tiền, lụa và triều phục cho người có công, tên Trần Phong được liệt kê trong danh sách võ tướng.
Ngày 20 tháng 2 năm Vĩnh Lạc XIII (31/3/1415), Minh Thực lục ghi nhận việc ban thưởng của vua Minh cho những quan tướng có công trong việc trấn áp Trần Quý Khoáng. Trần Phong cũng có tên trong danh sách lĩnh thưởng với chức danh là Chỉ huy Đồng tri Giao châu Hữu vệ.
Ngày 27 tháng 11 năm Vĩnh Lạc XX (10/12/1422), Minh Thực lục ghi nhận việc Trần Phong, với chức vụ Đô Chỉ huy, dẫn đầu một đoàn gồm tám mươi ba người đến kinh đô dâng cống đồ vàng bạc cùng nhiều thứ khác. Vua Minh ban tặng quần áo lụa thêu kim tuyến, lụa, gấm, tiền giấy.
Khi bị vây trong thành Đông Quan, Trần Phong cùng Lương Nhữ Hốt đã tác động Vương Thông bãi bỏ giảng hòa lần đầu tiên với Lê Lợi khiến cuộc kháng chiến kéo dài thêm một năm. Khi viện binh của Liễu Thăng và Mộc Thạnh bị đánh bại, Vương Thông về nước, Phong mới chịu đầu hàng.
Trần Phong bị Lê Lợi giết ngày 24 tháng 11 ta năm Thuận Thiên I (1428), cùng với Lương Nhữ Hốt và Trần An Vinh do âm mưu thông đồng với người Minh để làm loạn. Tuy nhiên, gia đình và bộ thuộc của Phong được miễn xá.
Nguyễn Huân:
Người Biến Khả (Chí Linh, Hải Dương). Ông đầu hàng quân Minh cùng lúc với Mạc Thúy dưới danh nghĩa là người họ Mạc.
Trong ghi chép việc ban thưởng của vua Minh ngày 27/9/1408 tại Kim Lăng, Minh Thực lục thể hiện Nguyễn Huân họ Mạc, được thăng từ Tri châu Lạng Giang lên chức Hữu Tham nghị.
Trong ghi chép ngày 28/10/1408 nói về đại yến ban cho sứ đoàn các nước, Minh Thực lục ghi rõ chức vụ Mạc Huân là Hữu Tham nghị Ty Bố chính Giao Chỉ, tức dưới Mạc Thúy một cấp.
Tháng 4 năm 1411, vua Minh sai sứ sang Giao Chỉ thưởng tiền, lụa và triều phục cho người có công, trong đó Huân đứng hàng thứ hai, sau Mạc Thúy. Huân xả thân phục vụ nhà Minh không ngại thủ đoạn. Nguyễn Liễu, người Lý Nhân (nay thuộc Hà Nam), nổi dậy chống Minh ở Lục Na (nay thuộc Bắc Giang), Vũ Lễ (nay thuộc Lạng Sơn). Nguyễn Huân vờ kết thông gia rồi gài bẫy giết Liễu vào năm Trùng Quang IV (1412).
Năm 1416, Nguyễn Huân lại sang Kim Lăng triều yết. Minh Thực lục ghi nhận sự kiện nguyên văn như sau:
Ngày 10 tháng 6 năm Vĩnh Lạc XIV (4/7/1416): Ngày Canh Ngọ, Hữu Tham nghị Mạc Huân thuộc ty Bố chính Giao Chỉ đưa các thổ quan tại các phủ Tam Giang, Phụng Hóa gồm 139 người đến triều cống ngựa cùng đồ dùng vàng bạc.
Hoàng thượng khen Huân có lòng thành ra qui thuận trước tiên, rồi chịu gian lao tham gia tòng chinh; đặc cách ban yến ủy lạo, thăng Huân chức ty Bố chính sứ; thăng Thổ quan Tri phủ Đỗ Kế Trung chức Hữu Tham chính, lại ban cho tỷ thư để tỏ sự ân sủng khác thường. Các quan còn lại được thăng chức một cấp, ban cho tơ lụa, tiền có phân biệt (Minh Thực lục II, 33).(27)
Minh Thành tổ xây dựng kinh đô Bắc Kinh. Huân tỏ lễ bầy tôi bằng cách gửi 500 người sang Trung Hoa để phụ giúp. Vua Minh ban thưởng rồi cho về, không nhận người. Minh Thực lục ghi lại như sau:
Ngày 13 tháng 7 năm Vĩnh Lạc XVI (14/8/1418): Ngày Tân Dậu, Hữu Tham chính sứ Giao Chỉ Mạc Huân, cùng Tri phủ Giao Châu Đỗ Hy Vọng tâu rằng:
“Giao Chỉ ở nơi hoang tịch, nhiều năm ngưỡng mộ sự giáo hóa của thánh nhân; được Hoàng thượng đối xử cùng chung một lòng nhân, cho đặt lại quận, huyện, để được giống như đất nội thuộc; phàm kẻ có một chút hay, đều được thu dùng. Tấm lòng biết ơn muốn được báo đáp, canh cánh ngày đêm. Nay được tin xây dựng thành Bắc Kinh; con dân bốn biển đều đến giúp sức, nhưng tấm lòng của kẻ hèn khuyển mã này cũng muốn mà không đến được để báo đáp. Nay kính cẩn đưa người làm trong nhà là bọn Đỗ Phiêu 500 người, sai Huyện thừa Lê Hiến dẫn đến, nguyện đến kinh khuyết góp một chút công nhỏ.”
Thiên tử đọc tờ tâu, gọi bọn Hiến đến ủy lạo, và phán rằng:
“Bọn người từ xa đến đây lo việc, bày tỏ đầy đủ lòng thành, nhưng việc xây dựng đã hoàn tất, không muốn làm mệt nhọc các ngươi thêm nữa.”
Mỗi người được thưởng 20 đĩnh tiền giấy rồi cho về (Minh Thực lục II, 55-56).(28)
Toàn Thư có chép thổ quan Hữu Bố chính sứ Nguyễn Đắc Huân theo đạo quân của Liễu Thăng đánh vào cửa Pha Lũy vào tháng 9 ta năm 1427 và sau đó tiến xuống Chi Lăng. Sau nhiều trận kịch chiến, đạo quân này bị Lê Lợi tiêu diệt hoàn toàn tại cánh đồng phía bắc thành Xương Giang. Hoàng Phúc bị bắt. Sau đó, không thấy tài liệu nào ghi lại hành trạng của Nguyễn Huân nữa.
Bọn Thúy đều là người Giao Chỉ, khi đại quân vào nước họ là người đầu tiên qui thuận, giúp dẹp giặc chiêu dụ dân chúng có thành tích. Tân Thành hầu Trương Phụ do tiện nghi trao chức, đến nay vào triều, luận công lao theo thứ tự mà thăng thưởng. Còn lại bọn Bùi Như Long gồm 24 người đều được phong chức Thiên hộ, Bách hộ, cùng ban sắc tưởng thưởng.
Thiên tử đích thân làm thơ tặng bọn Thúy (Minh Thực lục I, 310-311).(17)
Hữu Tham chính là chức vụ hàng thứ năm thuộc ty Bố chính. Ông tham dự tiệc tùng nhiều lần cùng với sứ thần các nước.
Nhưng sự nghiệp phục vụ Đại Minh của Mạc Thúy không kéo dài được lâu. Theo Toàn Thư, ông mất trong cuộc hành quân đánh dẹp Nông Văn Lịch, thủ lĩnh nhóm người nói tiếng Thái ở Lạng Sơn, cộng đồng sắc tộc vốn có quan hệ thân hữu từ trước với vua Trần tại Thăng Long.
Ghi chép của Toàn Thư vào cuối năm Trùng Quang IV (1412): Nông văn Lịch ở Lạng Sơn tụ tập quân lính chiếm giữ đất ấy, chẹn lấp đường đi lại của người Minh, giết bắt vô số. Tham chính Mạc Thúy từng đem quân tiến sâu vào đất ấy, bị trúng tên thuốc độc mà chết (Toàn Thư II, 248).(20)
Như vậy, Mạc Thúy tử trận khoảng cuối năm 1411 hoặc đầu năm 1412
Trần Phong (? – 1428):
Theo Minh Thực lục, Trần Phong người châu Nam Sách (Hải Dương nay); theo Đại Việt Thông Sử, ông người xã Ma Lộng, huyện Chí Linh (Hải Dương nay). Như vậy, châu Nam Sách xưa bao gồm cả Ma Lộng.
Trần Phong đầu hàng quân Minh ngay từ đầu cuộc chiến. Tới tháng 2 năm 1407 đã thấy ông dẫn quân bản bộ phối hợp với Vương Hữu và Liễu Tông đánh phá đạo quân vùng Đông Bắc dưới quyền Hồ Đỗ. Sau khi đối đầu quân Minh thất lợi, bị thiệt hại nặng, Hồ Đỗ gom góp tàn quân trụ lại tại Bình Than. Trương Phụ ra lệnh Phong tấn công khiến Đỗ phải bỏ chạy về cửa Muộn.
Ghi chép ngày 19 tháng 11, Vĩnh Lạc V (18/12/1407): Ngày Kỷ Tỵ, viên quan Chỉ huy Đồng tri Hữu Vệ Giao Châu người địa phương tên là Trần Phong, cùng bọn Thiên hộ Nguyễn Chính, Bách hộ Tống Như Lộ tất cả 20 người đến kinh sư cống phương vật. Bèn ban 80 đĩnh tiền giấy, một bộ tơ gai; cùng ban cho bọn tùy tòng tiền, có sai biệt (Minh Thực lục I, 289).(26)
Tháng 4 năm 1411, vua Minh đã cử sứ sang Giao Chỉ thưởng tiền, lụa và triều phục cho người có công, tên Trần Phong được liệt kê trong danh sách võ tướng.
Ngày 20 tháng 2 năm Vĩnh Lạc XIII (31/3/1415), Minh Thực lục ghi nhận việc ban thưởng của vua Minh cho những quan tướng có công trong việc trấn áp Trần Quý Khoáng. Trần Phong cũng có tên trong danh sách lĩnh thưởng với chức danh là Chỉ huy Đồng tri Giao châu Hữu vệ.
Ngày 27 tháng 11 năm Vĩnh Lạc XX (10/12/1422), Minh Thực lục ghi nhận việc Trần Phong, với chức vụ Đô Chỉ huy, dẫn đầu một đoàn gồm tám mươi ba người đến kinh đô dâng cống đồ vàng bạc cùng nhiều thứ khác. Vua Minh ban tặng quần áo lụa thêu kim tuyến, lụa, gấm, tiền giấy.
Khi bị vây trong thành Đông Quan, Trần Phong cùng Lương Nhữ Hốt đã tác động Vương Thông bãi bỏ giảng hòa lần đầu tiên với Lê Lợi khiến cuộc kháng chiến kéo dài thêm một năm. Khi viện binh của Liễu Thăng và Mộc Thạnh bị đánh bại, Vương Thông về nước, Phong mới chịu đầu hàng.
Trần Phong bị Lê Lợi giết ngày 24 tháng 11 ta năm Thuận Thiên I (1428), cùng với Lương Nhữ Hốt và Trần An Vinh do âm mưu thông đồng với người Minh để làm loạn. Tuy nhiên, gia đình và bộ thuộc của Phong được miễn xá.
Nguyễn Huân:
Người Biến Khả (Chí Linh, Hải Dương). Ông đầu hàng quân Minh cùng lúc với Mạc Thúy dưới danh nghĩa là người họ Mạc.
Trong ghi chép việc ban thưởng của vua Minh ngày 27/9/1408 tại Kim Lăng, Minh Thực lục thể hiện Nguyễn Huân họ Mạc, được thăng từ Tri châu Lạng Giang lên chức Hữu Tham nghị.
Trong ghi chép ngày 28/10/1408 nói về đại yến ban cho sứ đoàn các nước, Minh Thực lục ghi rõ chức vụ Mạc Huân là Hữu Tham nghị Ty Bố chính Giao Chỉ, tức dưới Mạc Thúy một cấp.
Tháng 4 năm 1411, vua Minh sai sứ sang Giao Chỉ thưởng tiền, lụa và triều phục cho người có công, trong đó Huân đứng hàng thứ hai, sau Mạc Thúy. Huân xả thân phục vụ nhà Minh không ngại thủ đoạn. Nguyễn Liễu, người Lý Nhân (nay thuộc Hà Nam), nổi dậy chống Minh ở Lục Na (nay thuộc Bắc Giang), Vũ Lễ (nay thuộc Lạng Sơn). Nguyễn Huân vờ kết thông gia rồi gài bẫy giết Liễu vào năm Trùng Quang IV (1412).
Năm 1416, Nguyễn Huân lại sang Kim Lăng triều yết. Minh Thực lục ghi nhận sự kiện nguyên văn như sau:
Ngày 10 tháng 6 năm Vĩnh Lạc XIV (4/7/1416): Ngày Canh Ngọ, Hữu Tham nghị Mạc Huân thuộc ty Bố chính Giao Chỉ đưa các thổ quan tại các phủ Tam Giang, Phụng Hóa gồm 139 người đến triều cống ngựa cùng đồ dùng vàng bạc.
Hoàng thượng khen Huân có lòng thành ra qui thuận trước tiên, rồi chịu gian lao tham gia tòng chinh; đặc cách ban yến ủy lạo, thăng Huân chức ty Bố chính sứ; thăng Thổ quan Tri phủ Đỗ Kế Trung chức Hữu Tham chính, lại ban cho tỷ thư để tỏ sự ân sủng khác thường. Các quan còn lại được thăng chức một cấp, ban cho tơ lụa, tiền có phân biệt (Minh Thực lục II, 33).(27)
Minh Thành tổ xây dựng kinh đô Bắc Kinh. Huân tỏ lễ bầy tôi bằng cách gửi 500 người sang Trung Hoa để phụ giúp. Vua Minh ban thưởng rồi cho về, không nhận người. Minh Thực lục ghi lại như sau:
Ngày 13 tháng 7 năm Vĩnh Lạc XVI (14/8/1418): Ngày Tân Dậu, Hữu Tham chính sứ Giao Chỉ Mạc Huân, cùng Tri phủ Giao Châu Đỗ Hy Vọng tâu rằng:
“Giao Chỉ ở nơi hoang tịch, nhiều năm ngưỡng mộ sự giáo hóa của thánh nhân; được Hoàng thượng đối xử cùng chung một lòng nhân, cho đặt lại quận, huyện, để được giống như đất nội thuộc; phàm kẻ có một chút hay, đều được thu dùng. Tấm lòng biết ơn muốn được báo đáp, canh cánh ngày đêm. Nay được tin xây dựng thành Bắc Kinh; con dân bốn biển đều đến giúp sức, nhưng tấm lòng của kẻ hèn khuyển mã này cũng muốn mà không đến được để báo đáp. Nay kính cẩn đưa người làm trong nhà là bọn Đỗ Phiêu 500 người, sai Huyện thừa Lê Hiến dẫn đến, nguyện đến kinh khuyết góp một chút công nhỏ.”
Thiên tử đọc tờ tâu, gọi bọn Hiến đến ủy lạo, và phán rằng:
“Bọn người từ xa đến đây lo việc, bày tỏ đầy đủ lòng thành, nhưng việc xây dựng đã hoàn tất, không muốn làm mệt nhọc các ngươi thêm nữa.”
Mỗi người được thưởng 20 đĩnh tiền giấy rồi cho về (Minh Thực lục II, 55-56).(28)
Toàn Thư có chép thổ quan Hữu Bố chính sứ Nguyễn Đắc Huân theo đạo quân của Liễu Thăng đánh vào cửa Pha Lũy vào tháng 9 ta năm 1427 và sau đó tiến xuống Chi Lăng. Sau nhiều trận kịch chiến, đạo quân này bị Lê Lợi tiêu diệt hoàn toàn tại cánh đồng phía bắc thành Xương Giang. Hoàng Phúc bị bắt. Sau đó, không thấy tài liệu nào ghi lại hành trạng của Nguyễn Huân nữa.