Sở dĩ Trương Phụ có thể thắng được quân Hồ là nhờ phần lớn những người bản xứ giúp đỡ bao gồm các gương mặt sau.
1.Bùi Bá Kỳ người chạy sang cầu viện Yên Kinh và tố cáo cha con Quý Ly và mang Thiêm Bình về nước.
Khi đội quân áp tải Thiêm Bình về làm vua Giao Chỉ bị thất bại (năm 1406), hoàng đế Minh mới dùng lại Bá Kỳ, cho theo quân đội viễn chinh về Nam, ban cấp đai mão.
Mặc dù có những bài thơ ca ngợi Minh triều nhưng con bài Bùi Bá Kỳ đã hết giá trị khi cha con Quý Ly bị bắt.
Theo Toàn Thư, sau khi bắt được cha con Hồ Quý Ly, người Minh ngờ Hữu Tham nghị Bùi Bá Kỳ có bụng khác nên đưa ông về Kim Lăng quản thúc. Số phận Bá Kỳ chính thức khép lại.
2. Mạc Thúy
Về những người đầu hàng, tích cực nhất là nhóm họ Mạc, đứng đầu là Mạc Thúy người làng Long Động, châu Nam Sách, phủ Lạng Giang (nay thuộc xã Nam Tân, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương).
Lê Quý Đôn, có lẽ đã nghiên cứu gia phả Mạc tộc, ghi rõ trong Đại Việt thông sử vai vế cháu nội của Mạc Thúy đối với Mạc Đĩnh Chi. Lê tiên sinh cũng xác nhận Mạc Thúy là cao tổ của Mạc Đăng Dung, người sáng lập triều Mạc năm 1527
Mạc Thúy là người An Nam khiến Minh Thực lục tốn nhiều bút mực do có đóng góp quan trọng vào sự nghiệp chinh phục Giao Chỉ của thiên triều.
Trước tiên, hãy nhìn về Thúy từ phía Đại Ngu. Sau khi tường thuật việc quân Minh bày trận ở bờ bắc sông Cái (thượng nguồn sông Hồng), Toàn Thư ghi nhận sự kiện Mạc Thúy hàng Minh như sau:
Bọn Mạc Địch, Mạc Thúy, Mạc Viễn và Nguyễn Huân mạo nhận là họ Mạc đều là những kẻ bất đắc chí, đón hàng quân Minh, người Minh đều trao cho quan chức. Sau Thúy làm đến tham chính; Địch làm đến chỉ huy sứ; Viễn làm đến diêm vận sứ; Huân làm đến bố chính; (Thúy, Địch, Viễn là cháu Mạc Đĩnh Chi) (Toàn Thư II, 229).(6)
Minh Thực lục trong mục ngày 24 tháng 11 năm 1406 ghi nhận việc Mạc Thúy đầu hàng và hành trạng tiếp theo chi tiết hơn nhiều:
…các ngụy quan như Thiêm phán Đặng Nguyên; người châu Nam Sách, phủ Lạng Giang là Mạc Thúy, Mạc Viễn đến yết kiến. Bọn họ nói rằng:
“Giặc dựa vào Đông Đô, Tây Đô; cùng sự hiểm trở của các sông Tuyên, sông Thao, sông Đà, sông Phú lương. Đường huyết mạch từ phủ Tam Giang, qua bờ phía nam sông Đà, núi Tản Viên, đến phía nam sông Phú Lương, qua sông Ninh đi sang phía đông. Lại từ bờ bắc sông Phú Lương theo sông Hải Triều [sông Luộc], sông Hy, sông Ma Lao đến Bàn Than, núi Khốn Mai, dọc sông xây đồn. Ải Đa Bang cho xây thêm thành đất, đồn trại nối tiếp liên hoàn dài hơn 900 dặm; bắt hết dân các châu tại Giang Bắc trên 200 vạn, gồm nam phụ lão ấu vào, để trợ thanh thế. Phía nam sông Phú Lương đều đóng cọc gỗ; tập trung các thuyền bè trong vũng nước đằng sau cọc, các cửa sông cũng đóng cọc gỗ để đề phòng công kích. Giặc phòng bị nghiêm nhặt tại Đông Đô, thường bày voi trận, lính tráng dọc thành; rêu rao đông đến 700 vạn.” (Minh Thực lục I, 241).(7)
Như vậy, Đặng Nguyên Nguyên và Mạc Thúy đã báo cáo cho người Minh kế hoạch phòng thủ của quân Hồ.(8) Riêng số lượng nhân lực phía Đại Ngu rõ ràng bị thổi phồng quá đáng.
Theo Minh Thực lục, quân Minh từ huyện Tân Phúc di chuyển đến bến sông thị trấn Cá Thiều (chợ Kẻ Chiêu), châu Tam Đái để đóng thuyền chuẩn bị cho chiến dịch công kích. Tướng Hồ Trần Đĩnh đánh quấy rối thu vài thắng lợi nhỏ khiến quân Minh phải ngừng lại để củng cố. Sau đó, cuộc tổng tấn công khai màn; giặc đánh thủng phòng tuyến quân Hồ nơi chỉ huy quân Tả Thần dực Nguyễn Công Khôi trấn giữ, tạo điều kiện làm cầu phao vượt sông Cái. Kỳ lạ là quân Minh mới đến còn dò dẫm địa hình lại thực hiện được trận đánh hiệu quả vào vị trí quân Tả Thần dực. Người Minh tiêu diệt toán quân này triệt để và chóng vánh đến mức các đạo quân Hồ bên trên và phía dưới dòng sông đều không nghe thấy tiếng động của chiến trận. Hẳn bàn tay Mạc Thúy có nhúng vào sự việc vì nếu không có thông tin trinh sát đầy đủ, chiến công như thế thật bất khả thi.
Giữa tháng 1 năm 1407, Trương Phụ và Mộc Thạnh tấn công thành Đa Bang. Có lẽ nhờ vào thông tin của Mạc Thúy mà kỵ binh Minh dưới quyền Du kích Tướng quân Chu Quảng đã có những tấm vải vẽ hình cọp để dọa voi Đại Ngu. Hỏa tiễn của Thần cơ Tướng quân La Văn cũng sẵn sàng với số lượng lớn. Quân kỵ, súng thần cơ và tên lửa khiến tượng binh Hồ dưới quyền tướng quân đạo Thiên Trường Nguyễn Tông Đỗ rối loạn tháo lùi. Quân Minh tràn vào Đa Bang, trấn thủ Lương Dân Hiến và Thái Bá Nhạc tử trận.
Người Minh tiến chiếm Đông Đô.
Hạ tuần tháng 1 năm 1407, Hồ Nguyên Trừng phản công trên sông Lỗ nhưng không thành công phải lui về giữ cửa Muộn. Người các châu thuộc lộ Tam Giang như Tuyên Giang, Thao Giang cùng nhiều phủ huyện quanh đó đến gặp tướng Minh để xin hàng.
Nói về trận phản công này, ghi chép ngày 26 tháng 1 năm 1407 của Minh Thực lục như sau:
Tả Tham chính Chinh thảo An Nam Phong Thành hầu Lý Bân, Hữu Tham tướng Vân Dương bá Trần Húc mang quân đánh giặc họ Lê tại Tây Đô.
Giặc nghe tin thành Đa Bang bị chiếm, bèn đốt phá cung thất kho tàng tại đây, rồi chạy ra biển. Bọn giặc dựa vào vùng đất tại núi Thiên Kiện, đưa quân từ sông Sinh Quyết, Đàm Xá đánh vào quân ta. Quan Tổng binh Tân Thành hầu Trương Phụ sai Đô đốc Hoàng Trung mấy lần đánh bại giặc. Do vậy các huyện của hai châu Tuyên Giang, Thao Giang thuộc lộ Tam Giang lần lượt đến cửa quân xin hàng (Minh Thực lục I, 247).(9)
Toàn Thư ghi nhận giờ phút đen tối nhất của nhà Hồ vào tháng 2 năm Hưng Khánh I (1407):
Kinh lộ phần nhiều theo giặc làm phản.(10)
Phối hợp với chính sách tái lập nhà Trần của vua Minh, chính Mạc Thúy đã kích động phong trào quay lưng lại với họ Hồ tại trung châu. Khi đồng bằng sông Hồng trù phú, giàu nhân lực ngảnh mặt, thậm chí chống lại, vận mệnh triều Hồ xem như đã được định đoạt.
Riêng cánh quân phía đông bắc của Hồ Đỗ, Hồ Xạ cũng phải rút lui sau trận quyết chiến với Vương Hữu và Liễu Tông. Toàn Thư chỉ ghi việc Đỗ, Xạ rút bỏ Bình Than về hợp binh với Trừng ở cửa Muộn. Thực lục lại miêu tả trận đánh tại vùng này như trận chiến có thành quả lớn nhất chiến dịch chinh Nam.
Ghi chép ngày 8 tháng 2 năm 1407:
Ngày hôm nay, quan Tổng binh Chinh thảo An Nam Chinh Di Tướng quân Tân Thành hầu Trương Phụ điều động Thanh Viễn bá Vương Hữu, Tả Phó Tướng quân Tây Bình hầu Mộc Thạnh điều bọn Đô Chỉ huy Liễu Tông hợp binh dẹp giặc. Quan quân vượt sông Chú Giang tập kích quân giặc tại sách Trù Giang, lại làm khốn giặc tại Mai Sơn, sông Vạn Kiếp và núi Phả Lại; chém 37.390 thủ cấp, bắt Đoàn phó là Đinh Bộ Khúc giết đi, dư đảng giặc tan rã. Lúc này tướng giặc Hồ Đỗ tụ thuyền tại sông Bàn [Bình] Than; Trương Phụ nhân dịp người bản xứ châu Nam Sách là Đội chính Trần Phong đến xin hàng, bèn sai đi đánh Hồ Đỗ. Đỗ thua chạy đến sông cửa Muộn, tịch thu hết thuyền bè. Lại sai Trần Phong chiêu dụ dân chúng các xứ Lạng Giang và Đông Triều, nhân dân được yên nghiệp, do đó quận ấp châu Phong tiếp tục đầu hàng, sĩ phu dâng thư kết tội giặc họ Lê độc ác trăm cách (Minh Thực lục I, 247-248).(11)
Cánh quân được chỉ huy bởi hai phó tướng, tức không phải mũi nhọn chính nhưng hiệu quả giết chóc rất lớn. Thực lục cho thấy quân Hồ phòng ngự chông chênh ở vùng đông bắc, đội lính địa phương dưới quyền Trần Phong ngả về người Minh khiến quân chính quy nhà Hồ bị bật gốc kéo theo sự sụp đổ của hệ thống cai trị.
Tuy vậy, quân Hồ vẫn còn sinh khí. Hạ tuần tháng 2 năm 1407, tướng chỉ huy quân Thần Đinh là Ngô Thành nương thủy triều đột kích đến Giao Thủy. Phụ, Thạnh chặn đánh từ hai bờ sông. Thành tử trận, được truy phong Kiêu vệ Tướng quân.
Minh Thực lục miêu tả trận này khá quyết liệt, cũng cho biết chiến công của người Minh có sự cộng tác đắc lực của Mạc Thúy. Đặc biệt tin tình báo về hoạt động quân Hồ nhiều khả năng do họ Mạc cung cấp. Người Minh ghi lại tên các tướng Hồ hi sinh mà sử Việt bỏ qua.
Ghi chép ngày 21 tháng 2 năm 1407:
Ngày hôm nay, quan Tổng binh Chinh thảo An Nam Tân Thành hầu Trương Phụ, Tả Phó tướng Tây Bình hầu Mộc Thạnh đánh bại giặc họ Lê tại sông Mộc Hoàn.
Khởi đầu Phụ nhận được tin điệp báo cho biết thuyền giặc qua lại tại vùng sông Phú Lương, hạ lưu đất Giao Châu khoảng 20 dặm. Lại có tin Quí Ly và con là Trừng tụ tập thuyền bè tại sông Hoàng Giang, rồi đem quân đóng tại sông Mộc Hoàn. Thạnh cùng Tham tướng Phong Thành hầu Lý Bân suất quân bộ, kỵ, chiến thuyền từ sông Phú Lương đến đóng tại sông Lỗ. Giặc họ Lê dùng khoảng hơn 500 chiến thuyền đánh vào quân ta. Quân của Phụ thủy lục cùng tiến; bọn Đô đốc Liễu Thăng hăng hái đánh thuyền giặc tại Giao Thiển, khiến giặc đại bại. Tịch thu hơn 10 thuyền giặc, giết tướng giặc là Nguyễn Nhân Tử, Nguyễn Lỗi, Nguyễn Liệt, chém hơn một vạn đầu, bắt sống tướng giặc Hoàng Thế Cương, Đồng Văn Kiệt, Phùng Tông Thực, Mạc Thiết, Phạm Hài, Nguyễn Lợi hơn trăm tên, tất cả đều bị chém; riêng bọn giặc chết trôi không kể xiết. Lúc này người châu Nam Sách tên là Mạc Thúy, vốn giận giặc họ Lê, bèn mang lính địa phương vạn người đến theo, nhiều lần gắng sức lập công (Minh Thực lục I, 248-249).(12)
Ngày 10 tháng 3 năm 1407, Trương Phụ thông qua Mạc Thúy và bộ thuộc để công bố đức chính thiên tử nhà Minh đến quan lại, binh lính, dân chúng Đại Ngu ở khắp các quận huyện. Người Minh yêu cầu quan lại trở về nhiệm sở, binh lính quay lại doanh trại và dân chúng ở yên với chức nghiệp của mình. Mạc Thúy còn có nhiệm vụ tìm kiếm người đức hạnh thuộc dòng dõi họ Trần để gửi về Kim Lăng nhận phong vương.
Ngày 17 tháng 4 năm 1407, Mạc Thúy, Doãn Bái và nhóm bô lão 1.120 người từ Bắc Giang và các phủ khác, từ An Việt và các huyện khác đến gặp chỉ huy quân Minh. Nguyên văn phát biểu của Mạc Thúy ghi nhận bởi Minh Thực lục như sau:
“Được ơn cấp bảng dụ khắp trong nước, tuyên bố đức ý của thánh Thiên tử cho quan trở lại nguyên chức, lính trở lại nguyên đơn vị, dân trở về nghiệp cũ; hỏi tìm con cháu nhà Trần chọn một người hiền, tấu xin tước vương để làm chủ nước; lại chia người đi các nơi phủ dụ quan lại quân dân yên nghiệp như cũ. Duy con cháu nhà Trần trước đây bị giặc họ Lê tru diệt hết, không còn sót ai, không thể kế thừa. An Nam vốn là đất cũ của Trung Quốc, sau đó bị chôn vùi vào tục Man Di, không được nghe dạy dỗ lễ nghĩa. Nay may mắn được Thánh triều tảo trừ hung nghiệt, quân dân già trẻ được chiêm ngưỡng áo khăn thịnh trị, hân hạnh không kể xiết; xin được duy trì trở lại quận huyện cũ, ngõ hầu sửa đổi tục man di, vĩnh viễn thấm nhuần thánh hóa.”
Thúy kính cẩn cùng các bậc kỳ lão soạn sẵn biểu văn, xin dâng lên triều đình để lòng kẻ dưới được đề đạt. Quan Tổng binh Tân Thành hầu Trương Phụ cho rằng cha con giặc họ Lê chỉ trong sớm tối bị tiêu diệt, các phủ huyện đều được bình định, cần có sự thống trị để phủ ngự dân này, nên ngay ngày hôm nay cho người ruổi về kinh đô tâu trình (Minh Thực lục I, 250-251).(13)
Lê Tư “京路多從賊以叛 Kinh lộ đa tùng tặc dĩ phản” (Kinh lộ phần nhiều theo giặc làm phản.) – Toàn Thư Người hợp tác với quân Minh rất nhiều, đặc biệt ở đồng bằng sông Hồng, đến nỗi Toàn Thư phải t…
www.google.com