Hạm đội Nhật hồi sinh
6:33 PM, 08/08/2013, Views: 18352 | By Long Xuyên
VietnamDefence - Hạm đội Nhật Bản đã có không chỉ các tàu khu trục, frigate và tàu ngầm, mà cả các tàu sân bay.
Hạm đội Nhật Bản đang hồi sinh
Hải quân Nhật Bản (Hải quân Phòng vệ) là quân chủng độc lập của lực lượng vũ trang Nhật (Lực lượng Phòng vệ), được giao thực hiện các nhiệm vụ chính sau: tác chiến chống các lực lượng tàu và không quân đối phương nhằm giành ưu thế trên vùng biển và đại dương giáp ranh bờ biển quần đảo Nhật Bản, phong tỏa các khu vực eo biển của biển Okhotsk, biển Nhật Bản và biển Hoa Đông, tiến hành các chiến dịch đổ bộ đường biển, bảo vệ các tuyến đường biển, các căn cứ hải quân, hải cảng và bờ biển, chi viện cho lục quân khi tiến hành các chiến dịch trên các hướng duyên hải.
Tokyo muốn gì?
Thời bình, Hải quân Nhật còn kiểm soát các vùng biển chủ quyền của Nhật Bản, duy trì cục diện hoạt động thuận lợi trong vùng biển 1.000 hải lý và tiến hành cảnh giới phối hợp với các đơn vị của Cục Bảo vệ biển.
Triển vọng dài hạn xây dựng Hải quân Nhật Bản được xác định bởi Chương trình Quốc phòng được thông qua từ năm 1995. Để thực hiện các yêu cầu của các nước đồng minh trong việc bảo vệ các tuyến đường biển trong vùng biển 1.000 hải lý, cũng như mở rộng sau đó vùng hoạt động của Hải quân Nhật, người ta đang soạn thảo các kế hoạch tiếp tục nâng cao sức mạnh chiến đấu của hải quân.
Theo các tuyên bố chính thức, Nhật Bản tập trung chú trọng phát triển lực lượng hộ tống. Nhưng theo nhiều chuyên gia phương Tây, trên thực tế, Tokyo đang bắt đầu hồi sinh hạm đội tàu sân bay.
Đến cuối năm 2011, họ đã đưa vào biên chế chiến đấu của hải quân 2 tàu khu trục chở trực thăng mà trên thực tế là các tàu sân bay hạng nhẹ lớp Hyuga, trên đó dự kiến sẽ triển khai các tiêm kích đa năng cất cánh đường băng ngắn/hạ cánh thẳng đứng F-35.
Cũng trong năm 2011, Nhật Bản đã bắt đầu đóng các tàu sân bay hạng nhẹ lớn hơn.
Về mặt kỹ thuật, Nhật Bản đã sẵn sàng các tàu sân bay hạng trung thật sự hay thậm chí tàu sân bay hạng nặng, nhưng tất cả phụ thuộc vào quyết định chính trị của ban lãnh đạo nước này bởi vì Hiến pháp Nhật cấm việc này.
Nhiều nhà phân tích cho rằng, do hải quân Trung Quốc đang gia tăng sức mạnh, bộ luật cơ bản của đất nước mặt trời mọc sắp tới đây sẽ được sửa đổi. Dù sao thì trong hai loại công nghệ đóng tàu quân sự cao nhất (tàu sân bay và tàu ngầm hạt nhân), Nhật Bản đã bắt tay vào khôi phục loại công nghệ đầu tiên.
Các kế hoạch phát triển Hải quân Nhật Bản cho thấy, Tokyo đang muốn hoàn thiện hải quân về chất, nâng cao khả năng chiến đấu và khả năng sẵn sàng thực hiện tổ hợp các nhiệm vụ theo hiệp định hợp tác quân sự mới với Mỹ và các lợi ích quốc gia của nước này không được nói đến nhiều tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Các chương trình đóng tàu quân sự
Nhật Bản đang đổi mới có hệ thống lực lượng hạm tàu của hải quân bằng các chương trình đóng tàu quân sự nhịp nhàng.
Lực lượng tàu của Hải quân Nhật thường xuyên được duy trì ở mức 115-120 tàu chiến.
Lực lượng tàu ngầm
Tàu ngầm thông thường. Hiện nay, hạm đội tàu ngầm Nhật Bản có 17 tàu ngầm chiến đấu thông thường (3 tàu tối tân lớp Souryu, 11 tàu lớp Oyashio, 3 tàu lớp Harushio) và 1 tàu ngầm huấn luyện chiến đấu (lớp Harushio).
Hạm đội tàu ngầm Nhật rất mới vì các tàu ngầm chưa cũ lắm mà thâm niên phục vụ thường là dưới 20 năm đang được rút khỏi biên chế.
Các tàu này không thể bán cho các nước khác vì tất cả đều được trang bị các biến thể hệ thống thủy âm tối tân nhất của Mỹ. Ví dụ, hệ thống ZQQ-5B được chế tạo dựa trên các công nghệ của hệ thống thủy âm AN/BQQ-5 mà Hải quân Mỹ sử dụng.
Trong hoạt động đóng tàu ngầm, sau khi bàn giao tàu ngầm thông thường thứ 11 của lớp Oyashio, Nhật sẽ chuyển hướng chú ý chính sang đóng tàu ngầm thông thường theo thiết kế cải tiến lớp Improved Oyashio (tàu đầu tiên được đặt tên là Souryu). Hiện nay, còn 3 tàu ngầm khác thuộc lớp này đang được đóng ở các giai đoạn khác nhau.
Công ty Kockums (các hãng phụ thầu là Volvo và FFV) bắt đầu phát triển động cơ Stirling trong thập kỷ 1960 và đã chế tạo được động cơ công suất 75 kW (động cơ Stirling V4-275R) sử dụng helium làm môi trường làm việc, còn các phương tiện tiêu hao là nhiên liệu diesel và oxy lỏng (mức tiêu thụ đơn vị oxy là 0,85-0,95 kg/kWh).
Một máy phát Stirling có trọng lượng 4 tấn. Nhờ có áp lực cao ở cửa xả, việc loại bỏ các sản phẩm cháy được thực hiện trực tiếp từ động cơ. Việc thử nghiệm tàu ngầm thông thường lớp A-14 với động cơ AIP đã hoàn tất tốt đẹp vào năm 1989. Sau khi lắp đặt động cơ mới, thời gian lặn của tàu đã tăng từ mấy ngày đêm lên đến 2 tuần lễ.
Chúng được trang bị hệ thống động lực không cần không khí (AIP) trên cơ sở động cơ Stirling và dùng để thay thế các tàu ngầm lớp Harushio. Năm 2001, tàu ngầm Asashio lớp Harushio đã được cải tạo để lắp động cơ AIP kiểu Stirling để thí nghiệm. Nước đầu tiên làm chủ công nghệ động cơ AIP Stirling là Thụy Điển.
Việc thử nghiệm cũng cho thấy rằng, tàu ngầm có thể chạy với động cơ Stirling đến 90% thời gian hoạt động ngoài biển và chỉ chạy bằng động cơ diesel trong 10% thời gian, việc các sản phẩm cháy được hòa tan hoàn toàn trong nước trên thực tế đã được khẳng định. Hiện tại, công suất ra của mỗi máy phát Stirling chỉ là 75 kW (công suất danh định là 65 kW).
Có lẽ, Nhật Bản, như thường lệ đã mua giấy phép sản xuất các động cơ này. Trên tàu ngầm Souryu lắp đặt 4 động cơ Striling.
Lực lượng tàu sân bay
Tàu sân bay. Tháng 9/2007, tàu sân bay đầu tiên từ thời Thế chiến II lớp 16DDH của Nhật Bản, có lượng giãn nước đầy đủ 18.000 tấn được đưa khỏi âu tàu. Một số chuyên gia cho rằng, chỉ số này bị hạ thấp: xét theo kích thước được công bố, lượng giãn nước của tàu phải là trên 20.000 tấn.
Tàu sân bay đầu tiên của lớp này có tên Hyuga để tưởng niệm chủ lực hạm của hạm đội Nhật Bản từng tham chiến tích cực trong Thế chiến II. Một tàu khác, cũng chính là tàu cuối cùng của lớp này là Ise đã được đưa vào biên chế của hạm đội Nhật vào năm 2011.
Theo phân loại chính thức, các tàu này được liệt vào tàu khu trục chở trực thăng. Nguyên nhân ở đây chỉ là chính trị thuần túy vì hiến pháp Nhật không cho phép chế tạo loại vũ khí này. Nhưng các chuyên gia đã lưu ý rằng, hệ thống pháo phòng không cỡ nòng nhỏ ở mũi tàu không được bố trí ở giữa mà bị dịch chuyển sang mạn phải (như ở tàu sân bay hạng nhẹ của Anh). Điều đó đã lập tức cho phép sử dụng các máy bay cất cánh đường băng ngắn/hạ cánh thẳng đứng cất cánh với đoạn chạy đà ngắn.
Ngoài ra, khi muốn đã có thể lắp đặt cả cầu bật. Cuối cùng, vào năm 2007, người Nhật Bản bí ẩn lại thông báo, họ quan tâm đến máy bay cất cánh đường băng ngắn/hạ cánh thẳng đứng F-35B và tại một site trên Internet đã xuất hiện các hình ảnh tàu sân bay 16DDH với các tiêm kích đa năng này.
Xét theo kích thước của hăng-ga (khoảng cách giữa các thang máy là hơn 90 m), trên các tàu này có thể bố trí đến 25 máy bay các loại: 8-12 F-35B, 3 SH-3D AEW, 4-10 MCH-101/UH-60J/K. Ở phương án tiến công, đội máy bay trên tàu có thể gồm đến 18 F-35B, 3 SH-3D AEW, 2 MCH-101/UH-60J/K.
Ngoài máy bay và trực thăng, các tàu sân bay hạng nhẹ được trang bị các hệ thống vũ khí mới nhất, trong đó có các bệ phóng thẳng đứng vạn năng Mk41 Mod5 dùng để phóng tên lửa phòng không và tên lửa chống ngầm có điều khiển. Tuy nhiên, theo đa số các chuyên gia, việc nhắc đến tên lửa chống ngầm là còn lại từ các thông tin hỏa mù trước đó và trên tàu này tất nhiên sẽ không có các vũ khí này.
Việc sử dụng các ống phóng lôi 324 mm Type 68 để chống tàu ngầm cũng không có gì phải nghi ngờ, chắc chắn chúng được dùng để phòng thủ chống ngư lôi.
Theo Phó Giám đốc Viện Okazaki, ông Sumihiko Kawamura, Hyuga là một bước tiến lớn, cho thấy khả năng của Nhật Bản đóng được các tàu sân bay xung kích trong tương lai. Chuyện là như vậy, không hơn, không kém.
Nhật Bản dự định đóng tổng cộng 4 tàu sân bay hạng nhẹ thuộc lớp này để thay thế 4 tàu khu trục chở trực thăng. Như vậy, số lượng tàu trong chương trình đã tăng gấp đôi trong hai năm gần đây.
Ngày 15/8/2009, ngân sách tài khóa 2010 đã được thông qua, theo đó 116,6 tỷ yên đã được chi để đóng 1 tàu sân bay mới lớp 22DDH với kích thước lớn hơn cả tàu Hyuga: chiều dài 248 m, chiều rộng 39 m, lượng giãn nước tiêu chuẩn/đầy đủ 19.500 tấn/24.000 tấn.
Các tham số này tương đương với tàu sân bay hạng trung của Pháp (chiều dài chỉ nhỏ hơn 13 m). Cùng với boong bay dày, trên tàu sẽ có một khu thượng tầng dạng “đảo” và 2 thang máy (1 chiếc bên mạn). Số lượng phương tiện bay được thông báo là 14 trực thăng dĩ nhiên là thông tin giả.
Việc Trung Quốc đưa vào biên chế 1 tàu sân bay lớp Projekt 11436 (Varyag), tức tàu Liêu Ninh và đóng các tàu sân bay hạng trung có lẽ sẽ dẫn tới việc loạt tàu sân bay giả dạng tàu khu trục chở trực thăng thứ ba của Nhật Bản sẽ là các tàu có lượng giãn nước xấp chỉ 50.000 tấn và với các máy bay cánh bằng cất/hạ cánh bình thường như F/A-18.
Tàu khu trục chở trực thăng. Trong biên chế chiến đấu của Hải quân Nhật Bản hiện còn 2 tàu khu trục chở trực thăng lớp Shirane, mặc dù đã khá cao tuổi (đóng xong năm 1980-1981). Theo bộ chỉ huy hạm đội Nhật Bản, bất kể tàu nào triển khai được một đội máy bay hạm tàu đều là các đơn vị chiến đấu có giá trị. Nhật dự kiến chỉ thay thế chúng bằng các tàu sân bay hạng nhẹ mới trong giai đoạn đến năm 2015.
Lực lượng tàu đổ bộ
Tàu đổ bộ. Chủ lực của lực lượng đổ bộ Nhật là 3 tàu đổ bộ chở trực thăng lớp Osumi. Ngoài ra, đang được đóng còn có 2 tàu đổ bộ lớp Yura và 2 tàu đổ bộ lớp Yusoutei.
Xuồng đổ bộ. Trong biên chế chiến đấu của hạm đội Nhật có 18 xuồng đổ bộ (6 xuồng đổ bộ đệm khí kiểu LCAC, 12 xuồng LCM gồm 2 tàu lớp YF2150, 10 tàu lớp YF2121).
Trong 4 năm gần đây, chỉ đóng hoàn thành 2 xuồng đổ bộ cao tốc lớp YF2150. Theo số liệu chính thức, các tàu này chỉ có tốc độ tối đa 16 hải lý/h. Nhưng với công suất động cơ turbine khí công bố là 3.000 mã lực và với lượng giãn nước đầy đủ là gần 100 tấn, tham số này không thể thấp hơn 25-30 hải lý/h. Nhật chưa có chương trình đóng các xuồng đổ bộ mới khác.
Hiện chưa có các kế hoạch phát triển lực lượng tàu đổ bộ và xuồng đổ bộ.
Quân số nhỏ lực lượng đổ bộ về nguyên tắc khẳng định quan điểm chính thức về quan niệm phòng thủ của Hải quân Nhật Bản, còn vấn đề “các vùng lãnh thổ phía bắc” chẳng qua là yếu tố gây áp lực chính trị-kinh tế đối với Nga, chứ không phải là vấn đề quân sự.
Lực lượng tàu đa nhiệm
Tàu khu trục. Trong Hải quân Nhật Bản có 40 tàu khu trục. Năm 2008, họ hoàn thành 6 tàu khu trục phòng không lớn nhất lớp Kongo với hệ thống thông tin-chiến đấu Aegis (gồm 4 tàu lô 1 và 2 tàu lô 2 lớp Atago). Các tàu này là biến thể của Nhật Bản của tàu khu trục lớp Arleigh Burke của Hải quân Mỹ.
Ngoài ra, trong biên chế hạm đội Nhật còn các tàu khu trục phòng không lớp Hatakaze (2 chiếc) và các tàu khu trục chống ngầm lớp Yuugiri (6 chiếc ), lớp Hatsuyuki (10 chiếc).
Nhật đã đóng xong các tàu khu trục chống ngầm lớp Murasame (9 chiếc) và Takanami (5 chiếc).
Tất cả các tàu khu trục chống ngầm của Nhật Bản xét về kích thước đều là tàu frigate. Họ cũng đang tiếp tục chuyển loại các tàu khu trục cũ lớp Asagiri (2 chiếc) thành tàu huấn luyện chiến đấu.Hiện nay, Nhật đang duy trì phát triển 2 dòng tàu khu trục: tàu khu trục đa nhiệm có phòng không mạnh (tạm gọi là tàu khu trục phòng không) và tàu khu trục chống ngầm. Đồng thời, họ tiếp tục giảm kiểu loại chiến hạm. Chẳng hạn, để thay thế các tàu khu trục chống ngầm lớp Yuugiri và Hatsuyuki, Nhật đang triển khai chương trình đóng tàu khu trục lớp 19DD (đang đóng 4 chiếc, dự kiến đóng loạt tàu gồm tổng cộng 10-16 chiếc).
Frigate. Trong biên chế hạm đội Nhật còn có 6 frigate lớp Abukuma, chiếc cuối cùng trong số đó được bàn giao vào năm 1993. Các frigate Nhật Bản được trang bị vũ khí khá hiện đại, nhưng cơ bản là các tàu thử nghiệm. Nhược điểm lớn của chúng là không có các máy bay. Hiện Nhật không có kế hoạch phát triển các lớp tàu này.
Lực lượng tàu tuần tra
Hải quân Nhật có 7 tốc hạm tên lửa cánh ngầm lớp Sparviero tự đóng (1995) trên cơ sở thiết kế Italia và 6 tàu lớp Hayabusa tự đóng. Dự kiến, loạt tốc hạm tên lửa lớp Hayabusa gồm 9 chiếc sẽ giảm xuống còn 6 chiếc.
Hiện Nhật không có chương trình mới nào phát triển lực lượng tàu tuần tra.
Lực lượng tàu quét lôi
Lực lượng tàu quét lôi của Hải quân Nhật gồm 2 tàu chỉ huy lực lượng quét lôi, 3 tàu quét lôi lớp Yaeyama (sao chép tàu quét lôi Avenger của Mỹ), 24 tàu quét lôi ven bờ (3 tàu lớp Hirashima, 12 tàu lớp Sugashima, 9 tàu lớp Hikoshima) và 2 tàu do Thụy Điển đóng.
Hiện nay, để thay thế các tàu quét lôi ven bờ lớp Hikoshima, Nhật đang đóng các tàu quét lôi ven bờ lớp Hirashima (2 tàu đang đóng và 3 tàu dự kiến đóng). Loạt tàu này có thể lên tới 12 chiếc, tuy nhiên, những năm gần đây, Nhật giảm hẳn sự quan tâm đối với tàu quét lôi.
Nhật Bản có khả năng bất kỳ loại tàu nào, nhưng chủ yếu với các vũ khí và trang bị kỹ thuật của nước ngoài, một số trong số đó được sản xuất theo giấy phép. Chẳng hạn, vũ khí tự phát triển chỉ có ngư lôi 533 mm. Họ hoàn toàn không có cơ sở sản xuất động cơ turbine khí cho tàu, còn động cơ diesel cho tàu từ lâu là các động cơ sao chép của Pháp, Italia, Mỹ và phần nào là của Đức.
Một hệ thống chiến đấu được suy tính tỷ mỉ đến từng chi tiết, nơi mà các công nghệ tối tân đan xen mật thiết với các truyền thống võ sĩ đạo Samurai cổ xưa. Hạm đội Nhật Bản từ lâu đã không còn là một tổ chức “khôi hài” tồn tại chỉ để làm vui mắt chính người Nhật và thực hiện các nhiệm vụ bổ trợ lặt vặt trong khuôn khổ đa quốc gia của Hải quân Mỹ.
Bất chấp tính chất phòng thủ rõ nét, các thủy binh Nhật Bản hiện đại có khả năng độc lập tiến hành tác chiến và bảo vệ các lợi ích của Nihon Koku (Nhật Bản) trên các vùng biển mênh mông của Thái Bình Dương.
Lực lượng hàng đầu của Hải quân Phòng vệ Nhật Bản theo truyền thống vẫn là các tàu khu trục. Việc dựa vào tàu khu trục thật dễ hiểu: lớp tàu này kết hợp tốt trong mình tính đa năng và giá cả vừa phải. Hiện tại, trong biên chế hạm đội Nhật Bản có 44 tàu lớp này, được đóng trong các giai đoạn khác nhau theo 10 thiết kế khác nhau.
Tàu khu trục tên lửa Kongo trang bị hệ thống Aegis phóng tên lửa phòng không SM-3, năm 2007
Mặc dù có vẻ thiếu thống nhất và chuẩn hóa, điều sẽ gây khó khăn cho công tác bảo dưỡng và làm tăng chi phí khai thác một lực lượng đa dạng chủng loại như vậy, lực lượng tàu khu trục của Hải quân Nhật Bản được chia rành mạch theo chức năng thành 3 nhóm lớn:
- Các tàu khu trục trang bị hệ thống Aegis để bảo đảm phòng không/phòng thủ tên lửa khu vực;
- Các tàu khu trục chở trực thăng - một tên gọi đặc hữu của hạm đội Nhật dùng để chỉ các tàu sân bay trực thăng, phần lớn dùng để thực hiện các nhiệm vụ của tàu tìm cứu và chống ngầm;
- Các tàu khu trục “thông thường” mà trong số các nhiệm vụ của chúng có bảo đảm an ninh cho biên đội tàu chống các mối đe dọa từ trên và dưới mặt biển. Chúng cũng là phương tiện mang để bố trí các phương tiện phòng không điểm.
Sự đa dạng tưởng tượng của các thiết kế trên thực tế là sự kết hợp của mấy thiết kế giống nhau với các phần thượng tầng khác nhau và thành phần biên chế vũ khí đổi mới. Hải quân Phòng vệ đang tiến hóa nhanh chóng khi hàng năm Nhật Bản chi tiền đóng 1-2 tàu khu trục mới. Điều đó cho phép nhanh chóng đưa những thay đổi vào các thiết kế tàu cho phù hợp với các điều kiện bên ngoài thay đổi và khả năng tiếp cận các công nghệ mới. Đặc điểm chính là người Nhật Bản hiện thực hóa được những ý tưởng đó không chỉ trên giấy mà cả bằng sắt thép.
Tàu khu trục JDS Hamakaze (DDG-171) trong cuộc tập trận quốc tế năm 2011
Nếu bỏ không xem xét các tàu khu trục đã lạc hậu đóng trong thập kỷ 1980 và đang chuẩn bị loại bỏ trong thời gian tới thì biên chế lực lượng tàu chiến mặt nước của Hải quân Phòng vệ sẽ là như sau: 10 tàu khu trục hiện đại thuộc các lớp Kongo, Atago, Akizuki và Hyuga được nhận vào biên chế chiến đấu của JMSDF trong thời kỳ từ năm 1993-2013.
Ngoài ra, trong biên chế hạm đội Nhật còn có 14 tàu khu trục vạn năng thuộc các lớp Murasame và Takanami được nhận vào biên chế chiến đấu của hạm đội trong những năm 1996-2006. Các tàu chiến này là những biến thể rẻ tiền của các tàu khu trục Aegis, là những thiết kế “quá độ” để kiểm nghiệm các công nghệ mới mà trong tương lai đã được áp dụng cho các tàu lớp Akizuki.
Tàu khu trục Atago trang bị hệ thống Aegis và tàu khu trục đa năng lớp Murasame
Dưới đây, chúng ta tìm hiểu sự tiến hóa của các tàu khu trục Nhật Bản. Đây là đề tài không đơn giản, nhưng việc tìm hiểu nó tạo ra nhiều lý do để tranh cãi. Liệu người Nhật có đúng đắn không khi trông cậy vào các tàu khu trục?
Tàu khu trục Aegis: Hạt nhân chiến đấu của hạm đội
Lớp Kongo: 4 tàu đã được đóng trong những năm 1990-1998
Lượng giãn nước đầy đủ: 9.580 tấn. Thủy thủ đoàn: 300 người.
Hệ thống động lực chính turbine khí (4 động cơ turbine khí sản xuất theo giấy phép LM2500) công suất 100.000 mã lực.
Tốc độ tối đa: 30 hải lý/h.
Cự ly hành trình: 4.500 hải lý ở tốc độ tiết kiệm 20 hải lý/h.
Vũ khí:
- 90 bệ phóng thẳng đứng Mk.41 (các tên lửa phòng không SM-2, SM-3, tên lửa chống ngầm có điều khiển ASROC VLS);
- 1 pháo vạn năng 127 mm với nòng dài 54 lần cỡ;
- 8 tên lửa chống hạm Harpoon;
- 2 pháo phòng không tự động Phalanx;
- các ngư lôi chống ngầm cỡ nhỏ, một bãi đáp trực thăng ở đuôi.
JDS Kongo (DDG-173) “Tòa tháp” đồ sộ của phần thượng tầng với vách gắn các mạng anten của radar AN/SPY-1, các bệ phóng thẳng đứng chứa 29 ngăn phóng (ở mũi) và 61 ngăn phóng (ở đuôi), các ống khói đặc trưng, các ụ pháo màu trắng Phalanx, một sân đỗ trực thăng hẹp ở đuôi… Đây là biến thể của dòng khu trục hạm Arleigh Burke đời đầu (Flight I) của Mỹ với tất cả những ưu và nhược điểm của nó!
Được biết Mỹ và Nhật Bản đã rất khó khăn mới đạt thỏa thuận chuyển giao cho Nhật Bản công nghệ Aegis - sau 4 năm đàm phán, năm 1988, Quốc hội Mỹ đã chấp thuận và Nhật trở thành quốc gia đồng minh đầu tiên của Mỹ được tiếp cận công nghệ mật này. Tàu đầu tiên bắt đầu được Nhật đóng hai năm sau đó, vào tháng 3/1990. Thiết kế cơ sở của tàu này là khu trục hạm Arleigh Burke, tuy nhiên, biến thể của Nhật khác nhiều mẫu cơ sở cả về thiết kế bên trong, lẫn ngoại hình. Cả 4 tàu của Nhật đều được đặt tên các tàu tuần dương lừng danh của Hạm đội Thiên hoàng từng tham gia Thế chiến II.
Thoạt nhìn đã thấy sự nổi bật của phần thượng tầng to lớn ở mũi và cột tàu đứng. So với mẫu Arleigh Burke cơ sở, cấu trúc các phần thượng tầng và sự bố trí vũ khí trang bị có sự thay đổi, một khẩu pháo 127 mm của công ty OTO Breda (Italia) được lắp thay cho khẩu pháo Mỹ Mk.45.
Khác với hàng chục tàu khu trục lớp Arleigh Burke “hàng chợ” của Mỹ, người Nhật đã quyết định trang bị cho 4 tàu khu trục hiện đại nhất của mình những trang thiết bị đa dạng, biến chúng thành các tàu chiến đa năng.
Hiện nay, các tàu này đã được trang bị lại bằng tên lửa phòng không Standard SM-3 dùng để tiêu diệt các mục tiêu ở thượng tầng khí quyển và ở quỹ đạo thấp gần trái đất. Các tàu khu trục lớp Kongo nằm trong thành phần “lá chắn tên lửa” của Nhật Bản và nhiệm vụ chủ chốt của chúng là đánh chặn các cuộc tấn công tên lửa đường đạn có thể xảy ra từ phía Bắc Triều Tiên.
Lớp Atago: 2 tàu đã được đóng trong giai đoạn 2004-2008
Là sự phát triển tiếp theo của các tàu khu trục Aegis lớp Kongo. Mẫu cơ sở để phát triển Atago là tàu khu trục Arleigh Burke đời IIA (Flight IIA) với đầy ắp những thiết bị bổ sung. Lượng giãn nước đầy đủ của Atago đã vượt quá 10.000 tấn!
JDS Asihara ở cận cảnh (DDG-178) So với Kongo, tàu khu trục mới có một hăng-ga trực thăng, phần thượng tầng cao hơn, bên trong bố trí sở chỉ huy 2 tầng. Hệ thống thông tin chỉ huy chiến đấu Aegis đã được nâng cấp lên chuẩn Baseline 7 (phase 1). Các bệ phóng thẳng đứng được cải tiến - việc bỏ các thiết bị bốc xếp đã cho phép tăng số lượng ngăn phóng lên đến 96. Được lắp thay cho khẩu pháo Italia là pháo Mỹ Mk.45 với chiều dài nòng bằng 62 lần cỡ sản xuất theo giấy phép. Tên lửa chống hạm Harpoon bị thay bằng tên lửa chống hạm Type 90 (SSM-1B) của Nhật Bản.
Điều duy nhất mà người Nhật rất tiếc nuối là trên tàu Atago thiếu vắng các tên lửa hành trình chiến thuật Tomahawk. Bởi lẽ, hạm đội Nhật bị cấm sở hữu vũ khí tiến công.
Các tàu khu trục thông thường
Lớp Murasame: 9 tàu đã được đóng trong giai đoạn 1993-2002
Lượng giãn nước đầy đủ: 6.100 tấn. Thủy thủ đoàn: 165 người.
Hệ thống động lực chính turbine khí (kết hợp các động cơ turbine khí sản xuất theo giấy phép LM2500 và Rolls-Royce Spey SM1C) công suất 60.000 mã lực.
Tốc độ tối đa: 30 hải lý/h.
Cự ly hành trình: 4.500 hải lý ở tốc độ tiết kiệm 18 hải lý/h.
Vũ khí:
- 16 bệ phóng thẳng đứng Mk.48 (32 tên lửa phòng không ESSM);
- 16 bệ phóng thẳng đứng Mk.41 (16 tên lửa ngư lôi chống ngầm ASROC-VL)
- 8 tên lửa chống hạm Type 90 (SSM-1B);
- 1 pháo vạn năng 76 mm OTO Melara;
- 2 pháo phòng không tự động Phalanx;
- các ngư lôi chống ngầm cỡ nhỏ;
- 1 trực thăng chống ngầm Mitsubishi SH-60J/K (biến thể sản xuất theo giấy phép của SH-60 Sea Hawk của Sikorsky).
Các tàu khu trục lớp Murasame thăm Trân Châu Cảng“Cứ hy vọng vào Mỹ, nhưng bản thân đừng có phạm sai lầm” - có lẽ lãnh đạo JMSDF đã suy xét như vậy vào đầu thập kỷ 1990, khi họ quyết định thiết kế và đóng các tàu khu trục lớp Murasame. Các tàu này phải là sự phát triển của các thiết kế khu trục hạm nội địa kết hợp với các công nghệ của Arleigh Burke của Mỹ. Biến thể tàu khu trục đa năng rẻ tiền mà trong các nhiệm vụ chính của nó có phòng thủ chống ngầm và tác chiến chống tàu nổi đối phương.
Nhìn bề ngoài, Murasame không giống với tàu nào mà Nhật Bản từng đóng. Các phần thượng tầng với các yếu tố tàng hình đã làm thay đổi đến không thể nhận ra diện mạo của tàu khu trục mới.
Radar mạng pha đầu tiên trên thế giới OPS-24 được lắp trên một bệ ở phần trước cột tàu (do Nhật tự thiết kế). Tàu được trang bị các bệ phóng dưới mặt boong Mk.41 và Mk.48. Hệ thống đối kháng vô tuyến điện tử NOLQ-3 (biến thể sản xuất theo giấy phép của hệ thống AN/SLQ-32 của Mỹ)… Nhưng đặc điểm chính của Murasame ẩn giấu bên trong – tàu khu trục được trang bị hệ thống thông tin chỉ huy thế hệ mới C4I (Command, Control, Computer, Communication & Intelligence) được chế tạo trên cơ sở các phân hệ của hệ thống Aegis của Mỹ.
JS Akebono (DD-108) lớp MurasameBan đầu, Nhật dự định đóng 14 tàu khu trục theo thiết kế Murasame, nhưng trong quá trình đóng, phát hiện ra là thiết kế của tàu có khả năng để tiếp tục phát triển. Kết quả là 5 tàu cuối cùng đã được đóng hoàn thiện theo thiết kế Takanami.
Lớp Takanami: 5 tàu được đóng trong giai đoạn 2000-2006
Tàu khu trục mới có các hệ thống liên lạc và điều khiển hỏa lực cải tiến. Thành phần vũ khí trang bị được đổi mới: một module bệ phóng thẳng đứng 32 ngăn phóng duy nhất (dùng để phóng tên lửa ngư lôi ASROC-VL và tên lửa phòng không ESSM) được lắp ở mũi tàu Takanami thay cho 2 bệ phóng thẳng đứng Mk.41 và Mk.48 bố trí tách rời. Ụ pháo được thay bằng pháo cỡ 127 mm uy lực hơn của OTO Breda (Italia). Về phần còn lại, thiết kế tàu không có gì thay đổi.
JS Onami (DD-111) lớp Takanami
Lớp Akizuki: 2 chiếc được đóng trong giai đoạn 2009-2013, 2 chiếc khác dự kiến đưa vào biên chế vào năm 2014
Lượng giãn nước đầy đủ: 6.800 tấn. Thủy thủ đoàn: 200 người.
Hệ thống động lực chính: 4 động cơ turnebi khí ẩn xuất theo giấy phép Rolls-Royce Spey SM1C
Tốc độ tối đa: 30 hải lý/h.
Cự ly hành trình: 4.500 hải lý ở tốc độ tiết kiệm 18 hải lý/h.
Vũ khí:
- 32 bệ phóng thẳng đứng Mk.41 (tên lửa phòng không ESSM, mỗi ngăn chứa 4 quả, tên lửa chống ngầm có điều khiển ASROC-VL);
- 8 tên lửa chống hạm Type 90 (SSM-1B);
- 1 pháo vạn năng 127 mm Mk.45 mod.4;
- 2 pháo phòng không tự động Phalanx;
- các ngư lôi chống ngầm cỡ nhỏ;
- 1 trực thăng chống ngầm Mitsubishi SH-60J/K.
Akizuki là tàu thừa kế các tàu khu trục phòng không huyền thoại của Nhật thời Thế chiến II.
Akizuki hiện nay là một thiết kế xuất sắc, một sự cải cách các ý tưởng của Mỹ theo cách Nhật Bản. Thành phần chủ yếu để thiết kế tàu này là hệ thống thông tin chỉ huy chiến đấu ATECS mà giới chuyên gia gọi là “Aegis của Nhật Bản”. Hệ thống thông tin chỉ huy chiến đấu tiên tiến của Nhật một nữa được cấu thành từ các trạm máy tính làm việc AN/UYQ-70 của Mỹ, mạng truyền dữ liệu tiêu chuẩn NATO Link 16, các thiết bị đầu cuối liên lạc vệ tinh SATCOM, một hệ thống thủy âm OQQ-22 vốn là bản sao của hệ thống thủy âm Mỹ AN/SQQ-89…
JS Akizuki (DD-115) Một điểm khác biệt lớn khác là hệ thống phát hiện FCS-3A (của Mitsubishi/Thales Netherlands), gồm 2 radar anten mạng pha chủ động, hoạt động ở các dải tần С (bước sóng từ 7,5 đến 3,75 cm) và Х (bước sóng từ 3,75 đến 2,5 cm).
Hệ thống FCS-3A mang lại cho Akizuki những tính năng mạnh mẽ: từ góc độ khả năng chống trả các cuộc tấn công đường không ồ ạt và phát hiện tên lửa chống hạm bay thấp, tàu khu trục Nhật cao hơn Arleigh Burke của Mỹ cả cải đầu.
Khác với radar dải sóng dm AN/SPY-1, các radar dải sóng cm của Nhật nhìn rõ các mục tiêu ở độ cao cực nhỏ, sát mặt nước. Ngoài ra, anten mạng pha chủ động bảo đảm một số kênh dẫn đường ở bất kỳ hướng nào, tàu khu trục có khả năng dẫn đồng thời các tên lửa vào nhiều mục tiêu bay (trong khi Arleigh Burke chỉ có 3 radar AN/SPG-62 dùng để chiếu xạ mục tiêu, trong đó chỉ có 1 hoạt động ở bán cầu trước).
Tuy nhiên, về mặt đánh chặn mục tiêu ở tầm xa, Akizuki không thể sánh nổi với khả năng của Arleigh Burke vì radar AN/SPY-1 công suất mạnh có khả năng kiểm soát tình hình ngay cả ở các quỹ đạo thấp gần trái đất.
Akizuki thực sự là một chiến hạm đáng sợ, một pháo đài bất khả xâm phạm thật sự, có khả năng tiêu diệt các mục tiêu cả trên mặt nước, dưới mặt nước và trên không. Hơn nữa, các hệ thống vô tuyến điện tử và vũ khí tối tân được bố trí thành công trong một thân tàu có cấu trúc tương tự các tàu khu trục Murasame và Takanami. Kết quả là chi phí đóng siêu chiến hạm đầu tiên của lớp này “chỉ có” 893 triệu USD. Chi phí này quả thực là ít đối với một chiến hạm với những khả năng này, trong khi các biến thể hiện đại của Arleigh Burke của Mỹ được bán với giá 1,8 tỷ USD/chiếc!
Theo ý đồ tác chiến của JMSDF, các tàu khu trục lớp Akizuki dùng để hoạt động phối hợp với các tàu khu trục Aegis, chúng có nhiệm vụ bảo vệ các tàu Aegis trước các cuộc tấn công từ dưới mặt nước và bảo đảm phòng không ở các tầm gần và trung bình.
Tàu khu trục chở trực thăng
Lớp Hyuga: 2 chiếc được đóng trong giai đoạn 2006-2011
Lượng giãn nước đầy đủ: 19.000 tấn. Thủy thủ đoàn: 360 người.
Hệ thống động lực chính: 4 động cơ turbine khí sản xuất theo giấy phép LM2500) công suất 100.000 mã lực.
Tốc độ tối đa: 30 hải lý/h.
Vũ khí:
- 16 bệ phóng thẳng đứng Mk.41 (tên lửa phòng không ESSM, tên lửa chống ngầm có điều khiển ASROC-VL);
- 2 pháo phòng không tự động Phalanx;
- các ngư lôi chống ngầm cỡ nhỏ 324 мм;
Vũ khí trang bị không quân::
- 11 trực thăng SH-60J/K và AugustaWestland MCH-101 (phi đội tiêu chuẩn);
- 1 boong bay, 4 vị trí cất/hạ cánh, 1 hăng-ga dưới mặt boong, 2 thang máy vận chuyển trực thăng.
Nhiều người nói thẳng những tàu khu trục quá khổ kỳ lạ Hyuga này chính là các tàu sân bay hạng nhẹ. Người ta đã thực hiện không ít những tính toán “nghiêm túc” xem có thể bố tí trên boong tàu Hyuga bao nhiêu tiêm kích F-35, lắp đặt cầu bật cánh cánh thế nào … không ai lưu ý đến chuyện Nhật Bản không tính chuyện mua tiêm kích cất/hạ cánh thẳng đứng F-35B (kể cả việc mua 42 F-35A triển khai trên bộ cũng là câu hỏi lớn).
Hyuga chỉ là một tàu khu trục chở trực thăng cỡ lớn, thừa kề một lớp tàu truyền thống của JMSDF. Nó không giống với loại tàu sân bay hiện có nào, cũng như không ioongs với tàu sân bay trực thăng Mistral vì dù có sự tương đồng về kích thước và lực lượng trực thăng, Hyuga không có các khoang đốc và không phải là tàu đổ bộ vạn năng.
Đổi lại, tàu có tốc độ 30 hải lý/h, hệ thống vũ khí gắn trong tàu (tên lửa phòng không tầm trung, các tên lửa ngư lôi chống ngầm, các hệ thống phòng vệ) – tất cả nằm dưới sự điều khiển của hệ thống thông tin chỉ huy chiến đấu ATECS và các radar tuyệt vời FCS-3, tương tự như các radar lắp trên tàu khu trục lớp Akizuki. Tàu cũng có một sonar dưới sống tàu OQQ-21, các hệ thống tác chiến điện tử mạnh, tất cả giống hệt như trên một tàu khu trục thật sự.
Nhưng đặc điểm tuyệt vời nhất cảu Hyuga là mặt boong bay dày và lực lượng máy bay quá đông đảo đối với một tàu khu trục, gồm 11 trực thăng đa năng và chống ngầm (số lượng trực thăng hoàn toàn có thể cao hơn con số thông báo bởi vì trên tàu Mistral có kích thước tương tự chứa được 16 trực thăng).
Nhật Bản đóng những con quỷ biển này làm gì?
Người Nhật coi việc sử dụng các tàu khu trục chở trực thăng như các tàu chống ngầm hiệu quả, thực hiện các chức năng tìm cứu, hoạt động tại các khu vực tình trạng khẩn cấp, các nhiệm vụ tuần tra biển. Có lẽ, người ta cũng dự tính khả năng đổ quân chính xác bằng trực thăng từ tàu Hyuga; khả năng tham gia các chiến dịch quân sự quốc tế với tư cách tàu bổ tợ.
Boong bay dày cho phép tiếp nhận không chỉ các trực thăng Sea Hawk mà trong tương lai là cả các trực thăng lớn và máy bay cánh quạt lật.
Theo logic của Hải quân Phòng vệ Nhật, việc sở hữu 2 tàu như vậy có khả năng tăng cường đáng kể tiềm lực của hạm đội và đa dạng hóa các nhiệm vụ có thể thực hiện.
Tàu khu trục khổng lồ Hyuga và tàu cùng lớp Ise nâng cao thể diện của thủy binh Nhật không chỉ trong mắt người Nhật mà cả ở nước ngoài.
Phần kết
Hải quân Phòng vệ Nhật là một trong những lực lượng hải quân hàng đầu châu Á và thế giới, được xây dựng theo một khái niệm rõ ràng nhằm đối phó với những mối đe dọa quân sự trực tiếp từ phía Bắc Triều Tiên và bảo vệ lợi ích của Nhật ở biển Hoa Đông trước những yêu sách từ phía Trung Quốc.