[Funland] Người đàn ông nguy hiểm nhất nước Mỹ

Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Mãi sáng ngày 19/10/1962, tức 9 ngày sau, mới có tin tức. Sáng hôm đó, Quân ủy Trung ương đang họp giao ban ở nhà khách 28 Cửa Đông. Tôi bước vào, Đại tướng ngẩng đầu nhìn tôi đăm đăm. Lần này thì tôi gật đầu, mặt tươi tỉnh, Đại tướng đứng dậy ôm chầm lấy tôi, ông khóc. Đại tướng liền cho tạm nghỉ cuộc họp, kéo tôi qua phòng bên để nghe rõ tình tiết. Tôi đưa bức điện của Bí thư Khu IX, tức anh Phạm Thới Bường.

“Tàu Lê Văn Một, Bông Văn Dĩa đã về đến nơi!

An toàn, đầy đủ!

Các đồng chí trên tàu đều khỏe mạnh."

Một tay vuốt ngực, một tay vỗ vai tôi, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói “ Thôi, cho nghỉ họp để ăn mừng thắng lợi đầu tiên..."

Sau chuyến đi của Bông Văn Dĩa và Lê Văn Một vào Cà Mau ngày 16/10/1962, các chuyến tàu mang tên Phương Đông 2, Phương Đông 3, Phương Đông 4 cũng lần lượt lên đường và vào tới Cà Mau an toàn.

Cùng trong thời điểm đó, các bến khác cũng đã nhận được tàu vào: Trà Vinh đón chiếc tàu sắt đầu tiên vào bến an toàn ngày 24/03/1963. Bến Tre cũng đón chuyến tàu sắt đầu tiên vào bến 28/06/1963 (có tài liệu nói ngày 26/06). Bà Rịa đón chuyến tàu đầu tiên cập bến đêm 03/10/1963.

Như thế là cả bốn cụm bến đều đã khai thông thành công.



 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Đóng tàu và tổ chức đoàn đi

Về phương tiện vận chuyển không thể sử dụng những chiếc thuyền đánh cá đơn sơ, mà phải thiết kế những tàu chuyên dụng cho loại vận tải này, trang bị máy và các thiết bị đảm bảo tối ưu, lại phải tạo dáng giống như loại thuyền đánh cá của ngư phủ phía Nam, nhưng hai đáy, trên là ngư cụ, dưới là kho bí mật. Mỗi vùng có một loại thuyền đánh cá khác nhau, thuyền chở vũ khí đến vùng nào phải có dáng giống thuyền đánh cá của vùng đó.

Lại phải chọn những máy có mác của phương Tây để nhỡ bị khám xét không bị lộ tung tích. Tuy nhiên, đi tìm khắp miền Bắc chỉ kiến được một chiếc máy hiệu Grey Marin của Mỹ, 220 CV. Còn lại phải dùng loại máy Skoda của Tiệp, gần giống loại máy của Mỹ, Nhật. Các tàu nhất thiết phải trang bị bộc phá đặt ở mũi, ở máy và đuôi tàu, tổng cộng khoảng trên dưới 1 tấn. Khi bị vây bắt, tùy tình huống phải cho nổ theo phương pháp hẹn giờ 15-30 phút để phá tan hoàn toàn chiếc tàu, không để lại một dấu tích nào.

Từ 1960, việc đóng tàu được giao cho Xí nghiệp đóng tàu số 1 Hải Phòng. Đó là một đơn vị tuyệt mật, người ngoài không biết, cán bộ và công nhân đóng tàu cùng không biết công dụng của con tàu là gì, chỉ làm theo thiết kế.

Tháng 08/1962, tại đây đã ra đời những con tàu gỗ đầu tiên loại 30-50 tấn được chế tạo dành riêng cho Đoàn 759. Đến tháng 03/1963 cùng tại đây đã hạ thủy những con tàu đầu tiên bằng sắt. Ngay sau đó, ngày 17/03/1963 chuyến tàu sắt đầu tiên chở 44 tấn vũ khí rời Đồ Sơn và đêm 24/03 đã cập bến Trà Vinh an toàn.



 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Những năm sau, do yêu cầu vận chuyển lớn, trọng tải cả trăm tấn, thì Trung Quốc đã giúp Việt Nam trang bị những loại tàu này... Về sau, theo yêu cầu đặc biệt của Việt Nam, các nước bạn đã trang bị cho Việt Nam những tàu sắt có trọng tải cỡ 100 tấn, được lắp những bộ phận giảm thanh hiện đại, đảm bảo trong vòng ngoài 200 mét không nghe thấy tiếng máy chạy. Tính đến năm 1975, tổng số tàu vận tải hài quân được nước bạn viện trợ là: Trung Quốc - 127 chiếc, Liên Xô - 21 chiếc. (Đại tá Trần Tiết Hoạt. Nguồn chi viện lo lớn của Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN, Nguyệt san Sự kiện và nhân chứng. Số 4-2005)

Về thủy thủ đoàn, nhất là các thuyền trưởng đã được tuyển chọn rất kỹ từ các đơn vị miền Nam tập kết đang công tác trong các đơn vị quân đội nông trường, ngư trường... Đó phải là những người sinh ra và lớn lên ở địa phương, hầu hết đã có kinh nghiệm trong nghề đi biển tại các tỉnh miền Nam. Họ phải thuộc từng con nước, từng lòng lạch, từng rặng núi để ngay cả trong đêm dù nhìn từ xa bờ vẫn có thể đoán biết được bến ở đâu bãi ở đâu ...



 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Phương thức hoạt động của tàu là hợp pháp và bất hợp pháp, lấy hợp pháp làm chính. Do đó, công tác ngụy trang khéo và giữ bí mật là tối hệ trọng. Để thực hiện điều trên, Đoàn đã đề ra những nguyên tắc sau đây:

- Đoàn bộ thì "nội bất xuất, ngoại bất nhập".

- Ở tàu thì "Lai vô ảnh, khứ vô hình".

- Cán bộ chiến sĩ đều mặc thường phục, khi về sinh hoạt với đơn vị hải quân mới mặc quân phục (nên dân Hải Phòng - Bãi Cháy gọi là Hải quân Hà Nội).

- Dáng tàu là tàu đánh cá, vào bến không mang số, ra biển mới mang số (nên dân gọi là tàu không số).

- Mỗi tàu một Chi bộ ****. Bí thư Chi bộ là Chính ủy, có toàn quyền quyết định tối hậu mọi vấn đề thuộc kế hoạch hoạt động của tàu. Thuyền trưởng là người quyết định mọi vấn đề thuộc về kỹ thuật của con tàu.

- Trường hợp gặp đối phương mà không thoát được thì chiến đấu. Khi không còn đủ sức chiến đấu thì thủy thủ nhảy xuống nước thoát thân. Bị bắt, quyết không khai báo. Chính ủy và thuyền trưởng ở lại để trực tiếp cho điểm hỏa phá hủy hoàn toàn con tàu (bằng dây cháy chậm trong 30 phút, đủ cho người điểm hỏa cuối cùng thoát xa tàu ở mức an toàn).
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
- Trên tàu các trang thiết bị, đồ dùng cho sinh hoạt tập thể và cá nhân đều xóa hết hoàn toàn các mẫu mác. Trước khí tàu xuất bến thì có đoàn kiểm tra xuống tàu, kiểm tra gắt gao.

- Tàu không được liên lạc bằng vô tuyến điện với bến trong Nam, mà do Đoàn liên lạc qua các tỉnh ủy. Mật mã thuộc loại cao cấp (trong suốt quá trình hoạt động, mật mã không lộ, đối phương không dịch được).

- Ở mỗi tàu có nhiều cờ các nước trong khu vực để tàu tùy nghi sử dụng khi cần lẫn lộn với tàu đánh cá ở khu vực đó.

- Bến giao nhận hàng là một bến tuyệt mật trong một vùng biển kín đáo ở Đồ Sơn gọi là bến K.15. Có một cầu tàu riêng cho bến này, ngày nay vẫn còn dấu tích.

Về tính kỷ luật trong công tác bí mật, có một đoạn trong nhật ký của Lê Văn Một rất cảm động. Qua đó không những ta thấy được những quy định chặt chẽ của đoàn đi, mà còn biết được những con số về giá vàng, tỷ lệ đồng tiền miền Bắc và miền Nam, đặc biệt là tình nghĩa của người chồng tập kết với vợ con ở lại miền Nam:

"Trước khi đi, mình được đổi mỗi người 4 đồng miền Bắc thành 100 đồng miền Nam, còn các đồng chí miền Nam thì được đổi tất, có người đổi đến 300 đồng miền Bắc hơn 7.000 đồng miền Nam. Tiền riêng mình còn hơn 200 đồng nên nhờ Sỹ mua giùm vàng của Việt kiều Thái Lan nếu có điều kiện gặp vợ con cho nó, chớ tiền miền Nam đâu có. Sỹ mua giùm được 4 chỉ, mỗi chỉ 55 đồng, mắc hơn giá mậu dịch 10 đồng, mình cũng nhắm mắt lấy đại, không biết vàng giả hay thiệt. Tính theo giá trong kia mắc hơn gần bằng ba vì vàng miền Nam chỉ có hơn 500 đồng một chỉ thôi, mình mua như thế này thì tính đến 1.375 đồng."
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Ngụy trang cũng là cả một vấn đề. Đó là một nghệ thuật đạt tới mức "huyền thoại". Cũng như trong việc vận tải trên đường Trường Sơn, tàu vận tải trên biển cũng phải có những biện pháp ngụy trang để tránh tai mắc của cả hải quân và không quân đối phương. Nghệ thuật ngụy trang của Lữ đoàn 125 đã góp phần đảm bảo tỷ lệ thành công cao trong vận chuyển, giảm bớt mức tổn thất.

Đại tá Trương Thái Ất, nguyên Chủ nhiệm Chính trị Lữ đoàn 125 kể:

"Chúng tôi có nhiều biện pháp rất phong phú để ngụy trang và cải trang. Cải trang thì có cờ đủ các nước, có những phương tiện cần thiết để thay đổi màu sơn của tàu. Nhưng quan trọng nhất là ngụy trang ban ngày. Khi tàu áp sát vào một vòm cây, một vách núi, lưới được căng lên và cành lá được mắc vào đó. Kinh nghiệm cho thấy tốt nhất là loại cây năng núi, có thể tới cả tuần lễ vẫn không bị mất màu xanh

Đã có lần một đoàn quân sự của Bắc Triều Tiên sang tham quan và học tập kinh nghiệm của chúng tôi. Chúng tôi dẫn họ đi sát tàu mà họ vẫn không hề phát hiện đâu là tàu của chúng tôi. Đến lúc chúng tôi vạch hệ thống ngụy trang ra, họ thấy tàu của chúng tôi đỗ ngay trước mắt, họ kinh ngạc vô cùng. Chính cách ngụy trang đó đã cứu được rất nhiều con tàu của Lữ đoàn 125 trong những lúc phải ẩn náu lại các vũng, các đảo trên đường vận tải vào Nam.

Ngược lại, có một đoàn nước bạn khác cho rằng không cần ngụy trang. Tàu của nước bạn đó sang tham quan cách đánh của chúng tôi và giúp đỡ kinh nghiệm. Các đồng chí bạn thấy chúng tôi quá công phu trong việc ngụy trang, liền nói: "Chúng tôi sang đây để chiến đấu với kẻ thù chung, cứ công khai đương đầu với bọn chúng, cần gì phải ẩn náu mất công.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Một buổi sáng, mấy con tàu của bạn phóng thẳng ra khơi để đương đầu với máy bay Mỹ. Trong phút chốc, đối phương phát hiện, máy bay Mỹ lao tới. Dưới bắn lên, trên bắn xuống. Hai tàu của bạn bị bắn chìm, một chiếc bị thương chặy về. Đó cũng là một bằng chứng cho thấy trong chiến tranh phải có cả dũng, cả mưu trí, cả nghệ thuật và kinh nghiệm từ ngàn xưa..." (Trao đổi với Đại tá Trương Thái Át tại Hội Cựu chiến binh An Giang ngày 21-7-2004.)

Tất cả những biện pháp bảo mật nghiêm ngặt như trên đã góp phần không nhỏ vào thắng lợi của Đoàn.

Vào thời kỳ Mỹ đánh phá ác liệt miền Bắc và phong tỏa cảng Hải Phòng thì không thể tiếp tục chuyển vũ khí qua biên giới Việt - Trung xuống Hải Phòng rồi giao nhận ở bến K.15, vì độ rủi ro rất lớn. Nhà nước ta đã thương lượng với Liên Xô và Trung Quốc để chở vũ khí từ Liên Xô tới Hoa Nam bằng đường sắt rồi chuyển từ một bến thuộc Hoa Nam ra đảo Hải Nam.

Từ năm 1966, Trung Quốc dành cho Việt Nam một cảng nhỏ trên đảo Hải Nam gọi là cảng Hậu Thủy, do Việt Nam quản lý. Các tàu của Đoàn 125 không phải vào Đồ Sơn nhận hàng nữa, mà trực tiếp lấy hàng ở đảo Hải Nam rồi đi thẳng vào Nam. Sau đó tàu cũng xuất phát từ đảo Hải Nam như một chiếc tàu bình thường của Trung Quốc. Sau khi xuất phát thì phải đánh lạc hướng hải quân Mỹ bằng cách đi theo hướng Philippines. Đến khi nào được mật điện của “trung tâm" cho biết có thể "tiếp tục đi” hoặc "bến bãi đã sẵn sàng", "chuẩn bị tăng tốc vào bến", hoặc "có tàu bám đuôi, rẽ đi hướng khác" hoặc "quay lại Hải Nam"... thì chấp hành đúng lệnh...

 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Để hình dung cụ thể một chuyến đi phức tạp như vậy, có thể đọc lại hồi ký của một trong những người đã đi trên một trong hàng trăm con tàu "không số" loại đó. Đó chính là bà Nguyễn Thụy Nga, bí danh là Nguyễn Thi Vân vợ của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn, năm 1965 đã bí mật trở lại miền Nam để hoạt động. Bà đi trên một tàu không số đưa cán bộ và vũ khí vào:

“Tôi xuống Hải Phòng ở trong một căn nhà mà bây giờ tôi cũng không biết ở đâu. Cũng không cho Thành ủy biết. Một đêm trời tối đen như mực, chú Đỗ Trình đưa tôi đi trên một chiếc com-măng-ca. Đến chỗ nào đó xe dừng lại, đồng chí Đỗ Trình giao tôi cho đồng chí Tư Phước, trưởng bến.

Đồng chí Tư Phước đưa tôi xuống tàu. Đồng chí hướng dẫn: “Đây là cầu tàu chị nhé, chị bước từ từ kèo ngã...". Đồng chí nắm chặt cánh tay tôi dìu tôi đi từng bước một. Tôi cũng không rõ là tôi xuống bến nào. Sau này giải phóng, tôi ra thăm Bộ Tư lệnh Hài quân, các đồng chí cho tôi biết là tôi xuống bến Đồ Sơn.

Đồng chí Tư Phước đưa tôi vào một ca bin, chỉ cho tôi cái giường bên dưới, chỗ tôi nằm... Trời sáng tôi mới nhìn rõ mặt từng người. Để đánh lạc hướng địch, tàu chạy về phía Trung Quốc. Không một bóng chim. không một rặng cây. Chiếc tàu như một chiếc lá trôi trên đại dương mênh mông. Hành trình của con tàu là do Trung ương chỉ đạo. Hễ phát hiện hạm đội 7 chặn trên đường đi là Trung ương gọi trở lại. Theo đúng lịch trình, tàu đi 6 ngày là đến mũi Cà Mau. Nhưng Trung ương gọi lại 3 lần, có lần cập bến Hải Nam.

Tàu chạy cập bờ Philippines, máy bay địch quần đảo, nó đánh điện hỏi: "Tàu gì?" Tôi thấy anh em lôi ra một đống cờ, chọn một lá cờ của nước nào đó và kéo lên. Anh em đánh "moorse" trả lời: "Tàu đánh cá." Nhưng tôi thấy các súng cao xạ giấu trong các giàn lưới phơi đạn đã lên nòng. Tất cả anh em đều chuẩn bị chiến đấu...
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Trong bờ miền Nam, địch cho ngụy quân chạy tàu, bịt hết các vàm, không cho tàu ta cập bến. Vì lúc tôi đi đã xảy ra vụ Vũng Rô rồi, nên địch đã biết mình đưa vũ khí vào bằng tàu.

Một hôm, tôi đang ngủ, trời cũng tối đen như hôm tôi xuống tàu, anh em lay gọi tôi, anh em chỉ chỗ ánh đèn chớp chớp nói: "Ngọn hải đăng Hòn Khoai đó chị!" Anh em lấy đó làm chuẩn để định hướng cho tàu cập bến. Anh em trên tàu dùng đèn pin nháy nháy báo cho trên bờ biết tàu đến. Bởi vì ngày nào, giờ nào tàu đến thì Trung ương cũng đã điện cho miền Nam biết có chuyến để đón. Anh em trên bờ cũng đánh tín hiệu báo yên. Anh em ôm nhau mừng. Tôi cũng mừng với anh em.

Bến vào là Rạch Gốc của Cà Mau. Rạch Gốc rất hẹp, vừa đủ thân tàu lọt vào. Rạch đã hẹp, bên trên lại có cành đước giao đu nhau, nhìn không thấy luồng nước chảy. Khi chạy vào rạch, anh em dựa vào kinh nghiệm mà cho tàu chạy, không có đèn. Vô sâu độ 200 m, anh em mới bật đèn gầm chạy theo con rạch ngoằn ngoèo, ngoằn ngoèo. Đi sâu độ 2 km thì tàu cập bến. Anh em trên bờ, anh em dưới tàu đều mừng. Lớp nào xuống khuân vác hàng lên chôn giấu. Lớp nào lo tổ chức bữa ăn bồi dưỡng...

Hai tháng nằm trên tàu tôi như tê liệt..."
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Hai bộ phận phục vụ bí mật từ xa

Để tiến hành vận chuyển vũ khí vào Nam, không chỉ có tàu, có vũ khí, có những con người, mà còn cần đến hai bộ phận dịch vụ "tối quan trọng” mà những người đi không được tiếp cận. Thứ nhất là bộ phận làm giấy tờ giả hợp pháp hóa cho tất cả những người trên tàu cũng như giấy tờ con tàu. Thứ hai là bộ phận mật mã để thông tin liên lạc, điều khiển tất cả các bộ phận có liên quan: Bến xuất phát, Bộ Tổng chỉ huy, Trung tâm Lữ đoàn 125, Trung tâm bến bãi 962, từng bến bãi cụ thể và bản thân mỗi con tàu.

Bộ phận chuẩn bị giấy tờ được đặt ở tất cả các quân khu tại miền Nam. Vì khối lượng công việc rất lớn, việc liên lạc giữa các khu lại xa nên mỗi khu phải có một bộ phận chuyên trách công việc này để có thể giải quyết kịp thời mọi nhu cầu.

Giấy tờ giả là một nhu cầu lớn của toàn bộ các hoạt động trên chiến trường miền Nam. Nó không chỉ phục vụ đối với các thủy thủ và các con tàu, mà còn phục vụ hàng loạt các nhu cầu khác: cán bộ đi lại ngang dọc khắp miền Nam, phần lớn là sử dụng con đường công khai, dưới dạng những người buôn bán, đi xe đò, đi tàu khách... kể cả các cán bộ cao cấp của Trung ương Cục, của các Khu ủy, tướng tá... thường vẫn đi lại công khai trước mắt các cơ quan kiểm soát của chính quyền Sài Gòn, như một người dân thường.

Để thực hiện việc đó, phải có kỹ thuật tối tân do Liên Xô trực tiếp viện trợ kịp thời mỗi khi đối phương có thay đổi.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Hai bộ phận phục vụ bí mật từ xa

Để tiến hành vận chuyển vũ khí vào Nam, không chỉ có tàu, có vũ khí, có những con người, mà còn cần đến hai bộ phận dịch vụ "tối quan trọng” mà những người đi không được tiếp cận. Thứ nhất là bộ phận làm giấy tờ giả hợp pháp hóa cho tất cả những người trên tàu cũng như giấy tờ con tàu. Thứ hai là bộ phận mật mã để thông tin liên lạc, điều khiển tất cả các bộ phận có liên quan: Bến xuất phát, Bộ Tổng chỉ huy, Trung tâm Lữ đoàn 125, Trung tâm bến bãi 962, từng bến bãi cụ thể và bản thân mỗi con tàu.

Bộ phận chuẩn bị giấy tờ được đặt ở tất cả các quân khu tại miền Nam. Vì khối lượng công việc rất lớn, việc liên lạc giữa các khu lại xa nên mỗi khu phải có một bộ phận chuyên trách công việc này để có thể giải quyết kịp thời mọi nhu cầu.

Giấy tờ giả là một nhu cầu lớn của toàn bộ các hoạt động trên chiến trường miền Nam. Nó không chỉ phục vụ đối với các thủy thủ và các con tàu, mà còn phục vụ hàng loạt các nhu cầu khác: cán bộ đi lại ngang dọc khắp miền Nam, phần lớn là sử dụng con đường công khai, dưới dạng những người buôn bán, đi xe đò, đi tàu khách... kể cả các cán bộ cao cấp của Trung ương Cục, của các Khu ủy, tướng tá... thường vẫn đi lại công khai trước mắt các cơ quan kiểm soát của chính quyền Sài Gòn, như một người dân thường.

Để thực hiện việc đó, phải có kỹ thuật tối tân do Liên Xô trực tiếp viện trợ kịp thời mỗi khi đối phương có thay đổi.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Đại tá Nguyễn Hồ, nguyên phụ trách Phòng Hậu cần Quân khu IX, người trực tiếp chỉ đạo khâu giấy tờ giả của Quân khu thời đó kể lại:

“Năm 1973, địch không làm số đuôi căn cước nữa. Thay vào đó là căn cước bằng nhựa rồng xanh, mộc nổi (con dấu nổi – ĐP). Kỹ thuật này bộ phận làm giấy tờ giả của chúng tôi chưa làm được. Nhưng chỉ mấy tháng sau, chúng tôi nhận được từ Quân khu loại giấy rồng xanh do Liên Xô làm cho, y hệt giấy thật..." (Đại tá Nguyễn Hồ. Đoàn vận tải công khai với việc vận chuyển vũ khí...)

Có giấy này, bộ phận hậu cần mới làm giấy tờ tùy thân cho từng người cụ thể, ghi tên, tuổi, quê quán, nghề nghiệp tương ứng với khuôn mặt, dáng vóc, giọng nói ... Để đảm bảo cho những cơ quan kiểm tra thuộc chính quyền Sài Gòn tin một cách tuyệt đối, bộ phận cấp giấy tờ giả phải hết sức chú ý tới sự tương ứng giữa hình dáng, giọng nói của người cầm giấy tờ với những nội dung ghi trên giấy.

Những người có dáng thương gia thì ghi là thương gia. Những người có dáng lao động, phục vụ thì ghi là thủy thủ, bồi bếp. Những người có dáng thư sinh thì ghi là nhà giáo. Những người nói giọng Bắc thì phải ghi ở những vùng có nhiều người Bắc di cư như Cái Sắn, Hố Nai... để khi cảnh sát, chính quyền Sài Gòn chất vấn, thấy nói giọng Bắc, nhìn trên giấy tờ, cư trú ở những vùng Bắc di cư, họ không nghi ngờ.

Ngoài giấy tờ cá nhân, còn có nhiều loại giấy chứng nhận giả khác cấp cho hàng hóa, thuyền ghe... Viết xong giấy thì đưa "xin" chữ ký của các quan chức đối phương, kể cả chữ ký của các cấp chính quyền Sài Gòn. Phải có những người có biệt tài giả mạo chữ ký. Khi thay một tỉnh trưởng, trên giấy tờ tùy thân có một loại chữ ký mới thì bộ phận này cũng phải có chữ ký tương tự trên các giấy tờ.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Sau khi in giấy tờ và ký xong, có một bộ phận chuyên làm các con dấu y hệt con dấu của từng tỉnh, từng vùng chiến thuật của chính quyền Sài Gòn. Để làm ra những con dấu này, phải sử dụng một loại gỗ đặc biệt, tiếng miền Nam gọi là gỗ cây dâu của miệt Cái Tàu ở U Minh... Một bộ phận gồm những người có tay nghề tinh xảo kịp thời khắc những con dấu cần thiết. Khi chính quyền Sài Gòn thay đổi mẫu dấu thì bộ phận này sẽ kịp thời chế tạo "ra những con dấu tương ứng".

Ngoài ra, có bộ phận chụp ảnh. Việc này thì cũng là việc bình thường như mọi bộ phận chụp ảnh căn cước của chính quyền Sài Gòn. Ngoài giấy tờ tùy thân, còn có các loại giấy tờ về các con tàu, những thuyền buôn, giấy chứng nhận hàng hóa, bản khai thuế... đều được làm giống y giấy tờ thật.

Những loại giấy tờ giả kể trên đã được sử dụng cho hàng chục ngàn người trên toàn miền Nam, trong đó một phần được dùng để cấp cho các thủy thủ, thuyền trưởng và các con thuyền vận chuyển vũ khí Bắc - Nam. Rất nhiều cán bộ cao cấp, kể cả những cấp lãnh đạo của Trung ương Cục như Võ Văn Kiệt, Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh... cũng đã từng dùng những giấy tờ giả này để đi lại khắp miền Nam và đi trên những chuyến tàu vận chuyển Bắc - Nam.

Điều kỳ diệu là bộ phận này đã phục vụ tốt tới mức suốt trong thời kỳ kháng chiến ở miền Nam Việt Nam, hầu như không có giấy tờ nào bị phát hiện là giả, hầu hết đều trót lọt dưới mắt hệ thống cảnh sát và kiểm soát dày đặc của chính quyền Sài Gòn.
 

Kichilachi

Xe hơi
Biển số
OF-148028
Ngày cấp bằng
4/7/12
Số km
132
Động cơ
360,560 Mã lực
Nơi ở
.
Website
www.facebook.com
Hôm qua em đọc 1 mạch đến P15. Hết vodka nên lần tới rót cho Cụ Lầm.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Bộ phận thông tin cũng là một đội ngũ có vai trò sống còn đối với toàn bộ các hoạt động trong suốt thời kỳ chiến tranh. Bộ phận này có một mạng lưới rộng khắp nối từ Trung ương Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương tới Trung ương Cục, với các quân khu, các tỉnh. Bộ phận này không chỉ phục vụ các tuyến đường vận chuyển, mà còn phục vụ toàn bộ các hoạt động điều hành, chỉ đạo tất cả ở trên toàn miền Nam. Trong các nhiệm vụ đó, có việc thông tin, truyền tải những thông tin liên quan tới những con tàu không số.

Riêng miền Tây Nam Bộ là nơi tập trung nhiều nhất các bến bãi tiếp nhận vũ khí, nhiệm vụ này là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của bộ phận thông tin, mà danh từ chính thức được gọi là bộ phận Cơ yếu. Bộ phận Cơ yếu của miền Tây Nam Bộ được đặt gần trụ sở của Khu ủy. Riêng số nhân sự trong bộ phận này đã lên tới 300 người.

Bộ phận Cơ yếu của khu cũng như của các tỉnh và của Trung ương Cục gồm nhiều đơn vị khác nhau: bộ phận quan trọng nhất là bộ phận sáng tác, tức là xây dựng các bộ mật mã với hệ thống khóa mã luôn luôn thay đổi. Sau đó chuyển cho các bộ phận soạn tin và gửi tin. Hệ thống những khóa mã đựợc sáng tác tài tình tới mức suốt trong thời kỳ chiến tranh, những tin đánh đi liên tục, dày đặc, xuyên qua một hệ thống giải mã tốt nhất thế gian của Mỹ mà chưa một lần nào bị lộ.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Đối với những tàu không số thì hệ thống thông tin được nối liền từ các cơ quan chỉ đạo ngoài Bắc, tới các bộ phận đầu não của các khu ở miền Nam, tới các tỉnh, tới từng bến bãi. Qua đó đã thông tin những con tàu nào đã rời bến, ngày nào tới nơi, tới bến nào ... riêng với các con tàu thì quy định tuyệt đối là chỉ được nhận thông tin, không được phát tin trên biển. Vì những lệnh phát đi từ miền Bắc, dù đối phương có biết thì cũng không giải mã được, người nhận là ai đối phương cũng không biết. Nhưng nếu con tàu phát sóng đi, dù không giải được mã thì đối phương cùng có thể xác định được tọa độ và biết vị trí của con tàu. Điều cấm kỵ này đã được thực hiện triệt để. Chỉ có một ngoại lệ duy nhất là khi lâm vào tình thế "tuyệt vọng", buộc phải phá hủy tàu, thì trước khi phá được phép báo cáo như một lời vĩnh biệt.

Ông Đặng Văn Quảng, nguyên Phó phòng Cơ yếu của Khu ủy Khu IX kể lại:

“Tôi là Phó phòng Cơ yếu của Khu ủy, phụ trách một đội quân khoảng 300 người, lo toan rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong đó bộ phận quan trọng nhất và cũng là bộ phận tối mật, đó là bộ phận sáng tác. Bộ phận này có khoảng 10 anh em. Nhiệm vụ của bộ phận này là sáng tác, tức là chế tạo ra các loại mã số khác nhau để đảm bảo tuyệt đối bí mật trong việc liên lạc với Trung ương Cục, với các Khu, các tỉnh.

Nếu nói về lịch sử lĩnh vực sáng tác này thì có 3 giai đoạn: Thời kỳ chống Pháp, thời kỳ chống Mỹ và thời kỳ sau giải phóng. Suối thời kỳ chống Pháp chúng tôi dùng hệ thống kỹ thuật A (đó là mật danh của hệ thống mật mã). Sang thời kỳ chống Mỹ, chúng tôi dùng hệ thống kỹ thuật B. Cả A và B đều giống nhau ở chỗ sử dụng con số thấp hơn để tạo nên mật mã. Cho đến ngày giải phóng chúng tôi cũng chưa dùng đến hệ thống kỹ thuật C (tức là dùng chữ cái thay cho số thập phân để sáng tác các mã).
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Trong việc sử dụng các bộ mật mã, còn phải có một bộ phận sáng tác ra những chương trình giả, để làm lạc hướng đối phương, gọi là biện pháp Sato. Vì thế trong công việc sáng tác cần khá nhiều người.

Khi sáng tác xong rồi, lại phải gửi bản sáng tác đó tới những địa chỉ mình liên lạc để có thể thống nhất nói chuyện được với nhau. Tất cả những bản sao này không được phép in mà hoàn toàn chép tay, để tránh lộ bí mật.

Suối thời kỳ kháng chiến chống Mỹ hệ thống liên lạc của chúng tôi theo kỹ thuật B không hề bị lộ. Chỉ có một lần, nghe nói có một cán bộ của ngành Cơ yếu của chúng tôi bị giặc bắt. Chuyện đó làm chúng tôi lo lắng, sợ bị lộ hệ thống khóa. Nhưng qua một vài lần làm test, thấy phía Mỹ không phát hiện được gì mới, chứng tỏ đồng chí đó không khai báo gì cả.

Nguyên tắc nhân sự của chúng tôi là tuyệt đối trung thành. Những người được chọn vào bộ phận này phải được kiểm tra rất kỹ về mặt lý lịch và phẩm chất cách mạng, tuyệt đối không khai báo, tuyệt đối không nói với bộ phận khác, kể cả gia đình về những công việc của mình. Sau khi nghỉ hưu cũng tuyệt đối không kể lại công việc của mình.
 
Biển số
OF-8453
Ngày cấp bằng
18/8/07
Số km
16,217
Động cơ
697,036 Mã lực
Tất cả những công việc gian nan và phức tạp kể trên mới chỉ là phân nửa của sự nghiệp vĩ đại này, tức là việc đi. Còn phân nửa nữa cũng vô cùng nặng nề và hệ trọng: đó là việc đến. Sau khi "hàng" và người đã tới nơi thì phải lo việc tiếp nhận, bảo quản, phân phối...

Để chỉ đạo thống nhất công việc này, ngày 19/09/1962, Trung ương Cục đã quyết định thành lập một đơn vị đặc biệt, lấy tên là Đoàn 962, có vị trí tương đương cấp sư đoàn, do Trung ương Cục trực tiếp chỉ đạo. Vì phải quản lý trên toàn tuyến ven biển Nam Bộ, Đoàn 962 tổ chức thành 4 đơn vị phụ trách từng cung đoạn, có phiên hiệu B1, B2, B3, B4. Mỗi B có vị trí tương đương cấp trung đoàn, có đủ các bộ phận phụ trách bến bãi, kho tàng, phân phối, tổ chức bảo vệ và chiến đấu, tổ chức hệ thống thông tin. Toàn Đoàn 962 và các B có 3 nhiệm vụ chính:

- Tổ chức tiếp nhận tàu vào các bến trên địa phận Khu VII, VIII, IX.

- Tổ chức hệ thống kho cất giấu vũ khí.

- Tổ chức vận chuyển tiếp từ các kho đến các địa chỉ do Trung ương Cục quy định.
 

nguyenvanngoc

Đi bộ
Biển số
OF-204031
Ngày cấp bằng
29/7/13
Số km
1
Động cơ
320,210 Mã lực
Chả biết Việt Nam mình có bác nào giống bác này để hóng thời sự trong nước không nhỉ.
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top