[Funland] Lượm lặt tin tức quân sự đó đây, có gì đăng nấy

Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
31,458
Động cơ
1,415,596 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Những điều cần biết về khoáng sản quan trọng của Ukraine

"Trump nói rằng ông muốn Ukraine cung cấp các nguyên tố đất hiếm như một điều kiện để được hỗ trợ thêm" gần đây đã trở thành tiêu đề trên toàn thế giới. "Chúng tôi đang tìm cách đạt được một thỏa thuận với Ukraine, theo đó họ sẽ đảm bảo những gì chúng tôi cung cấp cho họ bằng đất hiếm và những thứ khác", Tổng thống Trump nói với các phóng viên.

Các nguyên liệu thô quan trọng (CRM), chẳng hạn như niken, urani, đồng, lithium và các nguyên tố đất hiếm, được Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ coi trọng . Trong những năm gần đây, nhu cầu toàn cầu đối với các khoáng sản quan trọng này đã tăng vọt vì chúng cần thiết để phát triển và duy trì sản xuất năng lượng xanh, các ngành công nghiệp công nghệ, v.v.

1739111996918.png


Theo báo cáo, Ukraine có khoảng 20.000 mỏ đã biết của 117 loại khoáng sản, bao gồm hơn 20 loại khoáng sản quan trọng và kim loại đất hiếm, " với trữ lượng lên tới 11,5 nghìn tỷ đô la ".

Lãnh đạo Ukraine đã thúc đẩy tiềm năng tài nguyên này. Khi trình bày Kế hoạch Chiến thắng của Ukraine tại quốc hội, Tổng thống Zelensky gọi đây là "điều quan trọng toàn cầu" đối với sản xuất năng lượng xanh và nhấn mạnh rằng các nguyên liệu thô quan trọng của Ukraine có thể củng cố an ninh và độc lập về tài nguyên của châu Âu khỏi Nga và Trung Quốc.

Các công ty Ukraine đã tham gia và nói về tiềm năng khai thác và đầu tư của Ukraine tại các hội nghị quốc tế, như Tuần lễ Nguyên liệu thô . Rubryka cũng sẽ tham gia và giải thích về các nguồn tài nguyên khoáng sản chính của Ukraine và cách chúng có thể biến Ukraine thành nhà cung cấp quan trọng về mặt địa chính trị.

Khoáng sản quan trọng của Ukraine: top 7

1739112021483.png

Bản đồ cho thấy các mỏ nguyên tố đất hiếm và các nguyên liệu thô quan trọng khác (CRM) của Ukraine. Bản đồ: Cục Khảo sát Địa chất Ukraine

1. Lithium

Lithium chắc chắn đã trở thành một trong những kim loại quan trọng nhất trong thế giới hiện đại, trong bối cảnh cuộc khủng hoảng biến đổi khí hậu đang sắp xảy ra, thế giới đang cố gắng từ bỏ hoặc ít nhất là giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch như dầu và khí đốt, và chuyển sang sản xuất năng lượng xanh .

Lithium, một kim loại siêu nhẹ, đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi này vì nó được sử dụng để sản xuất pin Li , có thể lưu trữ năng lượng và lắp đặt trong các thiết bị như xe điện. Nó cũng được sử dụng để sản xuất thủy tinh và gốm sứ đặc biệt, có thể chịu được nhiệt độ cao và nguội đi mà không bị vỡ, giống như những loại được sử dụng trong nồi nấu thủy tinh điện.

1739112152143.png

Quặng lithium

Mặc dù Ukraine hiện không khai thác lithium, nhưng nước này có khả năng trở thành một trong những nhà cung cấp lithium lớn nhất cho EU, nơi nhu cầu về kim loại này tăng lên hàng năm. Theo Cục Khảo sát Địa chất Ukraine , trữ lượng của Ukraine chiếm gần một phần ba trữ lượng đã được chứng minh ở châu Âu và khoảng 3% tài nguyên của thế giới tại bốn địa điểm: Polokhivske, Dobra, Shevchenkivske và Kruta Balka.

Các chuyên gia ước tính rằng Ukraine có khoảng 500.000 tấn lithium, trị giá lên tới 11,5 nghìn tỷ đô la, nhưng họ không chắc chắn về số lượng thực tế vì chính phủ Ukraine bí mật thông tin này.

2. Than chì

1739112214164.png


Bạn có thể nghĩ rằng than chì chỉ được dùng để làm bút chì hoặc kim cương tổng hợp, nhưng thực ra, giống như lithium, nó là một thành phần xương sống khác để sản xuất pin . Khoáng chất quan trọng này có thể dẫn điện, vì vậy nó có trong điện cực, bộ phận gia nhiệt và chổi than cho động cơ điện. Nó cũng được dùng để xây dựng lõi lò phản ứng hạt nhân, một trong những phương pháp sản xuất năng lượng xanh nhất.

Trữ lượng than chì của Ukraine nằm trong số những trữ lượng lớn nhất — trong số năm trữ lượng hàng đầu — trên thế giới. Sáu mỏ có nguồn tài nguyên khoáng sản này của Ukraine, bao gồm các mỏ Balakhivka, Zavallia, Zarichna và Burtyn, sản xuất 5.500 tấn than chì cô đặc hàng năm, nhưng trữ lượng than chì được ghi nhận cao hơn nhiều — khoảng 13,7 triệu tấn . Công ty đầu tư BGV Group Management của Ukraine, đơn vị phát triển dự án than chì của riêng mình, đã tuyên bố rằng trữ lượng ước tính của mỏ Balakhivka là khoảng 500 triệu tấn .

Roman Opimakh, cựu tổng giám đốc Cục Khảo sát Địa chất Ukraine, đã xác nhận tiềm năng về lithium, than chì và các nguồn khoáng sản khác của Ukraine:

"Các trữ lượng lithium, than chì, niken và quặng sắt được phát hiện sẽ đủ để sản xuất pin Li với tổng công suất 1.000 gigawatt giờ (GWh) để hỗ trợ sản xuất khoảng 20 triệu xe điện hoặc được sử dụng để sản xuất các thiết bị khác."

.............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
31,458
Động cơ
1,415,596 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

3. Berili

1739112385742.png


Beryllium , kim loại nhẹ thứ tư trên Trái Đất, khá hiếm, được hình thành khi các hạt nhân nguyên tử lớn hơn — các phần lõi của nguyên tử — bị các tia vũ trụ bắn trúng. Được khai thác ở rất ít quốc gia, như Hoa Kỳ, Kazakhstan và Trung Quốc, berili được coi là vật liệu vô giá đối với nhiều ngành công nghiệp, chẳng hạn như hàng không vũ trụ, quốc phòng, y học, truyền thông, vận tải và các ngành điện hạt nhân, và được sử dụng trong sản xuất các bộ phận máy bay, kính viễn vọng quỹ đạo, thiết bị y tế, vũ khí, túi khí, v.v.

Ukraine là một phần của câu lạc bộ các quốc gia độc đáo có các mỏ berili đã được xác nhận. Theo Cục Khảo sát Địa chất Ukraine, Ukraine nắm giữ 15.300 tấn berili oxit (BeO), có thể đáp ứng nhu cầu sản xuất của thế giới trong 40 năm . Trữ lượng của nguồn tài nguyên khoáng sản này của Ukraine tập trung tại một mỏ, Perzhanske, nơi cũng chứa tantal, niobi, zirconi, molypden, liti, kẽm và nhiều loại khác.

BGV Group Management, đơn vị sở hữu giấy phép khai thác mỏ này và đã tiến hành nghiên cứu để đánh giá tiềm năng của mỏ, ước tính trữ lượng tại đây là 37.000 tấn BeO.

4. Titan

Không có gì ngạc nhiên khi titan , một trong những kim loại mạnh nhất trên Trái Đất, được đặt theo tên của các vị thần Hy Lạp hùng mạnh, Titan. Nó có khả năng chống ăn mòn và chịu nhiệt độ cực cao, và hợp kim của nó có tỷ lệ độ bền trên mật độ cao nhất trong số bất kỳ kim loại nào. Nó có tầm quan trọng chiến lược đối với ngành hàng không vũ trụ dân dụng và quân sự, ô tô và đóng tàu, và nhờ khả năng tương thích sinh học, nó cũng được sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực y tế cho các bộ phận giả, khớp nhân tạo, cấy ghép răng, v.v.

Ukraine, nơi có trữ lượng titan lớn nhất châu Âu , sản xuất 7% nguồn cung kim loại quan trọng này của thế giới trong khi chỉ khai thác 35% trữ lượng của mình. Nước này đã phát hiện ra 28 mỏ khoáng sản chứa titan, chiếm 15 năm sản lượng titan toàn cầu. Là một trong số ít quốc gia khai thác quặng titan, Ukraine được xếp hạng là nước xuất khẩu titan lớn thứ 9 trên toàn cầu vào năm 2022, với doanh thu 157 triệu đô la .

1739112511816.png


Bất chấp chiến tranh, Ukraine vẫn sẵn sàng trở thành nhà cung cấp titan chính cho Liên minh châu Âu, nơi không sản xuất titan và hoàn toàn dựa vào nhập khẩu , chủ yếu từ Nga. Dimitri Kalandadze, Thành viên Hội đồng quản trị của UMCC Titanium, một trong những nhà sản xuất titan lớn nhất thế giới, tuyên bố, "Titan của Ukraine sẽ [vĩnh viễn chấm dứt] sự phụ thuộc của phương Tây vào Liên bang Nga".

.............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
31,458
Động cơ
1,415,596 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

5. Các nguyên tố đất hiếm

1739112572726.png


Các nguyên tố đất hiếm hoặc kim loại , chẳng hạn như xeri, ytri, lanthanum và neodymium, vốn là trung tâm của cuộc tranh luận gần đây giữa Trump và Greenland , không khó để có được mặc dù chúng có tên như vậy. Vì chúng phân tán khắp thế giới thay vì tập trung dày đặc ở những địa điểm cụ thể, nên 17 loại đất hiếm này được đánh giá cao và được săn đón.

Kim loại đất hiếm rất quan trọng đối với tương lai năng lượng tái tạo của hành tinh — sản xuất tua bin gió điện, bóng đèn tiết kiệm năng lượng, ô tô điện và pin sạc. Chúng ta cũng phụ thuộc vào chúng để ngăn chặn tiền giả và sản xuất các tiện ích hàng ngày, như iPhone và thiết bị bộ nhớ máy tính, đã trở nên nhỏ hơn và nhẹ hơn nhờ những vật liệu quan trọng này.

Mặc dù chúng ta không thể nắm bắt được toàn bộ bức tranh về các nguyên tố đất hiếm của Ukraine vì các mỏ vẫn chưa được khai thác, các chuyên gia tin rằng quốc gia này có nguồn cung đất hiếm có thể khai thác cao nhất ở châu Âu . Cục Khảo sát Địa chất Ukraine cho biết chúng tồn tại trong sáu mỏ, bao gồm mỏ nổi tiếng nhất, mỏ quặng apatite Novopoltavske .

6. Urani

1739112624920.png

Uranium

Uranium là một trong những khoáng chất hiệu quả nhất để cung cấp năng lượng ít carbon. Một kilôgam kim loại đặc và cứng này có khả năng tạo ra năng lượng tương đương với 3.000 tấn than. Điều này đặt nó vào trung tâm an ninh năng lượng của Ukraine và các nước châu Âu khác, vốn trước đây phụ thuộc vào dầu khí của Nga làm nguồn năng lượng.

Là nhiên liệu chính được sử dụng trong các lò phản ứng hạt nhân, vốn đã ngày càng nhỏ gọn và an toàn hơn, nhu cầu về urani dự kiến sẽ tăng khi các quốc gia trên toàn thế giới tham gia Thỏa thuận chung Paris đang thực hiện các bước để giảm phát thải khí nhà kính và chuyển sang sản xuất điện tái tạo .

Với trữ lượng uranium lớn nhất châu Âu, Ukraine luôn nằm trong số 10 nhà sản xuất quặng này hàng đầu thế giới, khai thác quặng này tại ba mỏ ở vùng Kirovohrad. Quốc gia này sản xuất 2% lượng uranium cô đặc của thế giới và đáp ứng khoảng 30% nhu cầu của các nhà máy điện hạt nhân. Từ năm 2021, Ukraine đã phát triển một dự án sản xuất nhiên liệu hạt nhân , có thể giúp nước này tạo ra nhiều điện hơn. Giống như nguyên liệu thô, điện cũng có thể được xuất khẩu.

7. Gali

Gali , thường được gọi là " chất thay thế không độc hại cho thủy ngân ", là một trong những kim loại độc đáo nhất trên hành tinh. Khi bạn chạm vào nó, nó tan chảy vì nhiệt độ nóng chảy của nó chỉ là 29°C, nhưng để đưa nó đến điểm sôi, bạn cần phải đun nóng nó lên hơn 2.000°C.

Các hợp chất của nó, gali arsenide và gali nitride, có những đặc tính vượt trội khiến gali trở thành một kim loại cực kỳ linh hoạt cho thiết bị điện tử. Gali có thể đóng vai trò là chất bán dẫn và thay thế silic trong những thứ như đèn LED đỏ và xanh lá cây, điện thoại thông minh và cảm biến vì nó có thể chuyển đổi điện thành ánh sáng và ngược lại.

1739112790947.png


Những hợp chất này cũng có nhu cầu cao đối với sản xuất năng lượng tái tạo , đã trở nên không thể thiếu để sản xuất nam châm cho tua bin gió và tấm pin mặt trời. Một số chuyên gia cho biết gali có thể trở nên được coi trọng hơn cả lithium trong sản xuất pin. Các nhà nghiên cứu Hoa Kỳ thậm chí còn tuyên bố rằng pin lai với gali có thể cung cấp nhiều năng lượng hơn và sạc nhanh hơn pin lithium-ion hiện nay.

Vì Trung Quốc gần đây đã chặn xuất khẩu gali sang Hoa Kỳ và các nước phương Tây bắt đầu tìm kiếm các nhà nhập khẩu khác, nhu cầu này sẽ tiếp tục tăng, khiến Ukraine trở thành một lựa chọn thay thế hấp dẫn. Ukraine đứng thứ năm trong danh sách các nhà sản xuất gali toàn cầu , lấy gali từ các loại quặng khác mà nước này khai thác.

Tương lai của các khoáng sản quan trọng của Ukraine

Mặc dù danh sách này đề cập đến một số nguồn tài nguyên khoáng sản quan trọng nhất của Ukraine, nhưng nó chỉ phản ánh một phần tiềm năng đầy đủ của quốc gia này để trở thành " siêu cường khoáng sản quan trọng ". Bên cạnh các nguyên liệu thô được đề cập, Ukraine còn sở hữu những lợi thế khác khiến nơi đây trở thành nam châm thu hút đầu tư , chẳng hạn như hệ thống đấu giá minh bạch, tính sẵn có của thông tin địa chất, giá thấp hơn , v.v.

Ukraine cũng đã có hành động để phát triển các nguyên liệu thô quan trọng của mình, cung cấp giấy phép thăm dò các khoáng sản như coban, niken và lithium cho các công ty nước ngoài. Năm 2021, Ukraine đã ký một thỏa thuận đối tác chiến lược với EU để thành lập 100 dự án phát triển mười khoáng sản quan trọng, có thể hỗ trợ nền kinh tế Ukraine và quá trình chuyển đổi sang các nguồn năng lượng bền vững của châu Âu.

Cuộc chiến tranh tàn phá của Nga cản trở Ukraine đạt được tiềm năng lớn nhất của mình như một nhà cung cấp toàn cầu các nguyên liệu thô quan trọng có thể chấm dứt sự phụ thuộc của châu Âu vào hàng nhập khẩu từ Nga và Trung Quốc. Việc sản xuất và thăm dò nhiều mỏ chứa khoáng sản, như mangan, zirconi, niken và tất cả các nguồn tài nguyên được liệt kê ở trên đã bị tê liệt do hư hại, chiếm đóng hoặc gần tiền tuyến.

1739112918652.png


Mặc dù Nga đã chiếm đóng nhiều khu vực khoáng sản của Ukraine và tìm cách khai thác càng nhiều càng tốt trong khi vẫn kiểm soát được chúng , Ukraine vẫn không mất hy vọng. Chính phủ vẫn cấp giấy phép khai thác và quảng bá tài nguyên khoáng sản của Ukraine trong các cuộc họp quốc tế như một phần của Kế hoạch Chiến thắng của Tổng thống Zelensky. Các đồng minh như Pháp và Anh hỗ trợ phát triển lòng đất của Ukraine thông qua các thỏa thuận hợp tác.

Các công ty tư nhân của Ukraine như Beholder, chuyên khai thác bền vững các nguyên tố đất hiếm và các khoáng sản khác của Ukraine bằng AI và máy bay không người lái, vẫn tiếp tục nỗ lực để đảm bảo các khoản đầu tư nước ngoài.

Nguyên liệu thô quan trọng thực sự có thể mở đường cho tương lai thịnh vượng của Ukraine — một nền kinh tế mạnh mẽ và là đối tác của các nước láng giềng châu Âu — và giờ đây, với Trump ở Nhà Trắng, chúng có thể trở thành con bài mặc cả có thể khắc phục tình trạng viện trợ không ổn định của Hoa Kỳ cho Ukraine.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
31,458
Động cơ
1,415,596 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Ukraine: Không có cuộc bầu cử tổng thống vào năm 2025?

Volodymyr Zelenskyy đang chịu áp lực phải tổ chức bầu cử tổng thống trong năm nay. Trước đó, cuộc bầu cử đã bị hoãn lại vì cuộc chiến đang diễn ra với Nga. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cảnh báo sẽ có những rủi ro nghiêm trọng liên quan.

Khi nào Ukraine sẽ tổ chức bầu cử tổng thống? Cuộc bầu cử đã bị hoãn lại vì chiến tranh với Nga, nhưng hiện đã gần ba năm kể từ khi cuộc xâm lược của Nga bắt đầu, và Volodymyr Zelenskyy đang được hỏi về điều đó ngày càng thường xuyên hơn.

1739113061369.png


Ông luôn đưa ra cùng một câu trả lời: "Giai đoạn nóng bỏng của cuộc chiến sẽ kết thúc, và khi thiết quân luật được dỡ bỏ, cuộc bầu cử sẽ được công bố", Tổng thống Ukraine phát biểu đầu tuần này trong một cuộc phỏng vấn với nhà báo người Anh Piers Morgan.

Bầu cử ở Ukraine: Một phần trong kế hoạch của Trump?

Đã có nhiều cuộc thảo luận hơn về cuộc bầu cử kể từ những tuyên bố gần đây của đặc phái viên mới của Hoa Kỳ về Ukraine và Nga, Keith Kellogg.

Vào đầu tháng 2, Kellogg nói với hãng thông tấn Reuters rằng Hoa Kỳ muốn Ukraine tổ chức bầu cử, có khả năng là trước cuối năm nay, đặc biệt là nếu Kyiv có thể đồng ý một lệnh ngừng bắn với Moscow trong những tháng tới. Kellogg cho biết, bầu cử "tốt cho nền dân chủ".

Một số chính trị gia Hoa Kỳ đã bắt đầu kêu gọi Ukraine tổ chức bầu cử từ một năm trước, bất chấp cuộc chiến đang diễn ra . Trong năm qua, Nga cũng đã bình luận về việc không có cuộc bầu cử nào ở Ukraine. Tổng thống Nga Vladimir Putin đã nhiều lần bày tỏ sự nghi ngờ về tính hợp pháp của Zelenskyy với tư cách là tổng thống, trích dẫn việc hủy bỏ cuộc bầu cử dự kiến diễn ra vào mùa xuân năm 2024.

Hiến pháp Ukraine cấm tổ chức bầu cử theo thiết quân luật. Phản ứng của Moscow đối với vấn đề này là họ sẵn sàng đàm phán với Zelenskyy, nhưng sẽ không ký thỏa thuận chấm dứt chiến tranh cho đến khi cuộc bầu cử tổng thống mới được tổ chức tại Ukraine.

Có khả năng cuộc bầu cử ở Ukraine là một phần trong kế hoạch của Hoa Kỳ nhằm chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược của Nga, chi tiết vẫn chưa được tiết lộ. Đặc phái viên Hoa Kỳ Keith Kellogg dự kiến sẽ đến Kyiv vào tháng này.

1739113136501.png


John Herbst, cựu đại sứ Hoa Kỳ tại Ukraine hiện làm việc cho tổ chức tư vấn Hoa Kỳ The Atlantic Council, nói rằng ông không ngạc nhiên trước lập trường của Nga. Ông tin rằng đây là một phần trong nỗ lực của Moscow nhằm trì hoãn các cuộc đàm phán nhằm chấm dứt chiến tranh.

Herbst khen ngợi chính quyền Trump, mà ông cho là đã "rất thông minh khi nhận ra […] rằng Putin là trở ngại cho các cuộc đàm phán". Tuy nhiên, ông nói thêm rằng sẽ là một "tính toán sai lầm" nếu Washington nghĩ rằng họ có thể sử dụng các cuộc bầu cử ở Ukraine như một phương tiện để thúc đẩy các cuộc đàm phán.

Nga nhấn mạnh Ukraine phải tổ chức bầu cử

Nhà bình luận người Đức Winfried Schneider-Deters, một chuyên gia về Ukraine, cũng có thể thấy lý do tại sao Nga lại áp dụng lập trường này. "Tất nhiên người Nga đang đòi hỏi và thúc đẩy điều này. Họ muốn tạo ra bất ổn, tạo ra sự chia rẽ trong dân chúng trong chiến dịch bầu cử", ông nói với DW. "Mặt khác, tôi không thể hiểu được lợi ích của người Mỹ là gì".

Schneider-Deters tin rằng người Nga có động cơ "gian trá". Lời khuyên của ông cho chính phủ Zelenskyy là không nên khuất phục trước sức ép tiềm tàng từ Washington. Nhưng vẫn chưa rõ liệu Ukraine có thể chống lại nhà cung cấp vũ khí lớn nhất và quan trọng nhất của mình hay không.

1739113206978.png

Volodymyr Zelenskyy được bầu vào năm 2019, ba năm trước cuộc xâm lược của Nga

Cho đến nay, Tổng thống Zelenskyy vẫn tránh đưa ra những tuyên bố rõ ràng, chỉ nói rằng Ukraine sẵn sàng thỏa hiệp và muốn tổ chức bầu cử, nhưng cần có một số điều kiện nhất định để điều này có thể thực hiện được.

Cựu tổng thư ký của Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu (OSCE), Thomas Greminger, cảnh báo không nên đi bỏ phiếu quá sớm. "Tôi nghĩ rằng trong điều kiện hiện tại, đơn giản là không thể tổ chức các cuộc bầu cử tự do và công bằng", ông nói với DW. Ông chỉ ra rằng, ví dụ, phần lớn Ukraine hiện đang nằm dưới sự kiểm soát của Nga.

Nhà ngoại giao Thụy Sĩ bình luận rằng nhiều quốc gia đã phải chịu những kinh nghiệm tồi tệ khi các cuộc bầu cử được tổ chức quá sớm, dù là ở Châu Phi, Châu Á hay Tây Balkan. "Cần có một mức độ ổn định và chuẩn bị tốt", ông nói. Nếu không, sẽ có nguy cơ là, thay vì ổn định hệ thống, các cuộc bầu cử sẽ có tác dụng ngược lại.

.............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
31,458
Động cơ
1,415,596 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Điều kiện tiên quyết cho một cuộc bầu cử ở Ukraine

Nếu Ukraine tiếp tục và tổ chức bầu cử trong năm nay, John Herbst tin rằng điều đó sẽ nguy hiểm không chỉ đối với nền dân chủ của đất nước mà còn đối với an ninh của đất nước. "Không còn nghi ngờ gì nữa, người Nga sẽ sử dụng giai đoạn này để củng cố vị thế quân sự của họ", ông nói.

Ông giải thích rằng đây là lý do tại sao các cuộc bầu cử chỉ có thể được tổ chức trong một số điều kiện nhất định. Theo ông, những điều quan trọng nhất là những điều mà một số đồng minh của Donald Trump đã nêu: nhiều vũ khí hơn cho Ukraine, một khu phi quân sự và sự hiện diện của quân đội châu Âu. Nếu một lệnh ngừng bắn "nghiêm túc" được duy trì, thì có thể tổ chức bầu cử, Herbst nói — nhưng ông nói thêm rằng Moscow không đồng ý với tất cả các điều kiện này.

1739113295855.png


Thomas Greminger cho biết, để "cuộc bầu cử tự do và công bằng" diễn ra, phải có quyền tự do đi lại cho cử tri và ứng cử viên, cũng như quyền tự do báo chí, cả hai đều bị giới hạn bởi thiết quân luật. Ông bình luận rằng OSCE có thể hỗ trợ quan sát cuộc bầu cử; ông không nghĩ rằng cần phải có nhiều quan sát viên hơn so với những lần trước.

Ông cho biết điều quan trọng hơn là sự ổn định chính trị — và điều đó, ở Ukraine, vẫn còn "cách xa hàng dặm". Sớm nhất có thể tổ chức bầu cử ở đó, theo Greminger, sẽ là sau nửa năm ngừng bắn ổn định, được giám sát. Ông đặt cơ hội bầu cử tổng thống ở Ukraine năm nay là dưới một phần trăm.

Winfried Schneider-Deters có quan điểm tương tự. Đất nước hiện đang tham gia vào một cuộc chiến mà theo ông, "không diễn ra tốt đẹp cho Ukraine". Trong hoàn cảnh này, ông nói, Kyiv không có lý do gì để thay đổi nhà lãnh đạo của mình, người đã được bầu vào năm 2019 với hơn 70% số phiếu bầu.

1739113332953.png
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
31,458
Động cơ
1,415,596 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Trump 'không cam kết' sẽ đưa quân tới Gaza, thư ký báo chí cho biết

1739151115602.png

Thư ký báo chí Nhà Trắng Karoline Leavitt

Tổng thống Donald Trump "không cam kết" đưa quân đội Mỹ tới Gaza, sau khi tổng thống tuyên bố hôm thứ Ba rằng Hoa Kỳ sẽ "tiếp quản" vùng lãnh thổ bị tàn phá này, thư ký báo chí Nhà Trắng Karoline Leavitt cho biết hôm thứ Tư.

Bà cũng nhấn mạnh rằng Hoa Kỳ sẽ không trả tiền cho việc tái thiết ở Gaza, nhắc lại những bình luận trước đó của Trump cho rằng đây là nỗ lực xây dựng quốc gia rộng khắp.

“Tổng thống đã nói rất rõ rằng Hoa Kỳ cần tham gia vào nỗ lực tái thiết này để đảm bảo sự ổn định trong khu vực cho tất cả mọi người,” Leavitt phát biểu tại cuộc họp báo của Nhà Trắng hôm thứ Tư. “Điều đó không có nghĩa là phải có quân đội trên bộ ở Gaza. Điều đó không có nghĩa là người nộp thuế Mỹ sẽ tài trợ cho nỗ lực này.”

Bà nói thêm rằng Trump cam kết "tạm thời di dời những người" vẫn còn ở Gaza.
“Đây là một ý tưởng đột phá,” Leavitt nói. “Đó chính là con người của Tổng thống Trump. … Mục tiêu của ông là hòa bình lâu dài ở Trung Đông cho tất cả mọi người trong khu vực.”
Khi được hỏi tại sao tổng thống không loại trừ ý tưởng gửi quân đội Mỹ, Leavitt cho biết tổng thống "rất giỏi khi thực hiện các thỏa thuận và đàm phán, không loại trừ bất cứ điều gì, vì ông muốn duy trì sức ép đó trong các cuộc đàm phán".

1739151270990.png


Vào thứ Tư, tại một cuộc họp báo cùng với Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu, Trump cho biết Hoa Kỳ sẽ điều động quân đội Hoa Kỳ "nếu cần thiết", điều này đã gây ra phản ứng dữ dội ngay lập tức từ cả các nhà lập pháp Cộng hòa và Dân chủ. Thượng nghị sĩ Rand Paul (R-Ky.) đã chỉ trích những bình luận trên X , nói rằng Hoa Kỳ "không có lý do gì để cân nhắc đến một cuộc chiếm đóng khác để hủy hoại kho báu của chúng ta và đổ máu của những người lính của chúng ta".
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
31,458
Động cơ
1,415,596 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Nga bán siêu tên lửa cho Ấn Độ để thống trị trên biển

Tin tức gần đây đã xác nhận rằng Nga đang bán tên lửa chống hạm 3M54TE Kalibr/Club tiên tiến cho Ấn Độ, đánh dấu sự tăng cường đáng kể trong kho vũ khí của Hải quân Ấn Độ. Sự phát triển này diễn ra trong bối cảnh các lệnh trừng phạt quốc tế đang diễn ra đối với Nga, làm nổi bật cam kết chiến lược của Ấn Độ trong việc duy trì và nâng cấp năng lực quân sự của mình bằng công nghệ của Nga.

1739153924800.png

Tên lửa chống hạm 3M54TE Kalibr/Club

Ấn Độ có lịch sử lâu dài về hợp tác quốc phòng với Nga, đặc biệt là trong các hệ thống hải quân. Thỏa thuận về tên lửa hành trình chống hạm Kalibr-PL đã được ký kết với sự hiện diện của Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ, Rajesh Kumar Singh, như Bộ Quốc phòng đã công bố trên nền tảng truyền thông xã hội X. Động thái này được coi là một sự cân bằng chiến lược đối với các lực lượng hải quân trong khu vực, đặc biệt là trong bối cảnh căng thẳng địa chính trị liên quan đến các nước láng giềng.

Hệ thống tên lửa Kalibr, được Nga sử dụng rộng rãi trong nhiều hoạt động quân sự khác nhau, bao gồm cả ở Ukraine, được biết đến với tính linh hoạt và hiệu quả của nó. Nó có thể được phóng từ tàu ngầm, tàu nổi và thậm chí là các bệ phóng trên đất liền, khiến nó trở thành vũ khí đáng gờm trong chiến tranh hải quân. Các tên lửa bay ở độ cao 10-15 mét, giúp giảm đáng kể thời gian phản ứng của hệ thống phòng thủ của đối phương, tăng cường khả năng tấn công chính xác của chúng.

Việc mua lại này đặc biệt nhằm mục đích tăng cường khả năng chiến đấu của tàu ngầm lớp Kilo của Ấn Độ, có nguồn gốc từ Liên Xô. Thiết kế mô-đun của Kalibr cho phép nhiều cấu hình, chia sẻ các bộ phận chung với các biến thể khác trong họ Kalibr, có thể hợp lý hóa hậu cần và bảo trì cho Hải quân Ấn Độ.

Tuy nhiên, thỏa thuận này cũng đặt ra câu hỏi về hiệu quả của các lệnh trừng phạt quốc tế đối với Nga. Bất chấp các lệnh trừng phạt này, các quốc gia như Ấn Độ vẫn tiếp tục tìm thấy giá trị trong công nghệ quân sự của Nga, cho thấy một mạng lưới phức tạp của các mối quan hệ quốc tế, nơi nhu cầu quốc phòng thường lớn hơn áp lực chính trị. Kịch bản này cũng đặt vào viễn cảnh các liên minh toàn cầu đang thay đổi và quyền tự chủ chiến lược mà Ấn Độ đang thực hiện trong việc mua sắm quốc phòng của mình.

Đối với Ấn Độ, giao dịch mua này là một phần của chiến lược rộng hơn nhằm hiện đại hóa hạm đội hải quân của mình, bao gồm quan hệ đối tác với các quốc gia khác cho các dự án tàu ngầm mới. Chỉ vài ngày trước thông báo này, Ấn Độ đã đưa ThyssenKrupp Marine Systems của Đức vào danh sách rút gọn để đóng sáu tàu ngầm, thể hiện cách tiếp cận đa dạng nhằm tăng cường sức mạnh hải quân của mình.

1739153990661.png


Việc bán tên lửa Kalibr cho Ấn Độ không chỉ nhằm tăng cường sức mạnh quân sự của một quốc gia mà còn phản ánh sự phức tạp của chính trị quốc tế, nơi các liên minh lịch sử, lợi ích chiến lược và sức mạnh công nghệ đóng vai trò quan trọng.

Khi thế giới theo dõi những diễn biến này, những tác động đối với an ninh khu vực và cán cân quyền lực ở Ấn Độ Dương có thể rất sâu sắc, có khả năng thúc đẩy các quốc gia khác đánh giá lại các chiến lược và liên minh hải quân của họ.

Tên lửa 3M-54 Kalibr/Klub, được biết đến với tên báo cáo NATO là SS-N-27 “Sizzler,” đại diện cho một họ tên lửa hành trình đa năng của Nga do Cục Thiết kế Novator [OKB-8] phát triển. Hệ thống tên lửa này lần đầu tiên được đưa vào sử dụng vào năm 1994 và kể từ đó đã phát triển để bao gồm các biến thể cho các vai trò chống hạm, tấn công trên bộ và chống tàu ngầm. Họ tên lửa Kalibr bao gồm cả phiên bản trong nước và xuất khẩu, phiên bản sau được gọi là Klub.

Tên lửa được thiết kế như một hệ thống mô-đun, cho phép cấu hình khác nhau dựa trên mục đích sử dụng. Triết lý thiết kế cốt lõi liên quan đến việc chia sẻ các bộ phận chung giữa các biến thể phóng từ tàu và phóng từ tàu ngầm, mặc dù mỗi loại tên lửa kết hợp các thành phần riêng biệt như tên lửa đẩy dành riêng cho bệ phóng của nó.


...........
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
31,458
Động cơ
1,415,596 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Hệ thống Kalibr bao gồm tên lửa chống hạm và tấn công mặt đất có khả năng tăng tốc siêu thanh khi tiếp cận mục tiêu, giúp giảm đáng kể thời gian phản ứng của các hệ thống phòng thủ.

Đối với vai trò chống hạm, 3M-54 là một biến thể trong nước được Hải quân Nga sử dụng. Đây là tên lửa phóng từ tàu ngầm có chiều dài 8,22 mét và đầu đạn nặng 200 kg. Tầm bắn của nó ước tính từ 440–660 km và hoạt động như một tên lửa lướt trên biển với tốc độ đầu cuối siêu thanh là Mach 2,9 và độ cao bay ở giai đoạn cuối là 4,6 mét. 3M-54T là một biến thể chống hạm khác được thiết kế cho tàu nổi, sử dụng Hệ thống phóng thẳng đứng [VLS] và bộ tăng lực đẩy vectơ, duy trì các thông số hiệu suất tương tự như 3M-54.

1739154185655.png


Phiên bản xuất khẩu được gọi là Club bao gồm các hệ thống Club-S (phóng từ tàu ngầm) và Club-N (phóng từ tàu nổi). Biến thể Club-S bao gồm 3M-54E, có tầm bắn 220 km, và 3M-54E1, mở rộng tầm bắn lên 300 km nhưng di chuyển với tốc độ dưới âm trong suốt chuyến bay.

Cả hai đều mang đầu đạn 200 kg. Biến thể Club-N có 3M-54TE với tầm bắn 220 km và 3M-54TE1 với tầm bắn 300 km, cả hai đều được trang bị hệ thống điều khiển lực đẩy để cải thiện tính linh hoạt khi phóng.

Đối với các cuộc tấn công trên bộ, 3M-14 cung cấp hướng dẫn quán tính và có thể được phóng từ tàu ngầm hoặc tàu nổi. Nó có tầm bắn thay đổi đáng kể tùy theo nguồn, một số tuyên bố lên tới 2.500 km đối với các phiên bản vũ trang thông thường, trong khi những người khác lại cho rằng tầm bắn khác nhau đối với các biến thể có thể được vũ trang nhiệt hạch.

Khả năng chống tàu ngầm được cung cấp bởi biến thể 91RE1, đây là tên lửa hai tầng có động cơ đẩy rắn và ngư lôi chống tàu ngầm hạng nhẹ làm tải trọng. Nó có tầm bắn 50 km và có thể đạt tốc độ siêu thanh, theo đường đạn đạo trước khi triển khai ngư lôi.

Tên lửa Kalibr đã được sử dụng trong nhiều bối cảnh hoạt động khác nhau, đáng chú ý là trong Nội chiến Syria, nơi các tàu và tàu ngầm của Nga phóng chúng từ Biển Caspi và Biển Địa Trung Hải vào các mục tiêu ở Syria. Các hoạt động này đã chứng minh khả năng tấn công tầm xa của tên lửa, với một số tên lửa được cho là đã bay xa hơn 1.500 km để đánh trúng mục tiêu.

Tính linh hoạt của hệ thống được tăng cường hơn nữa nhờ khả năng triển khai từ nhiều nền tảng khác nhau, bao gồm tàu ngầm lớp Kilo, Lada, Akula, Yasen và Borei, cũng như các tàu nổi như lớp Đô đốc Gorshkov, Đô đốc Grigorovich, Gepard, Gremyashchy và Buyan-M. Mảng nền tảng rộng lớn này nhấn mạnh lợi thế chiến lược mà Nga nắm giữ với họ tên lửa này, cho phép triển khai và sử dụng linh hoạt trong các kịch bản chiến tranh hải quân khác nhau.

Tóm lại, hệ thống tên lửa 3M-54 Kalibr/Klub, với tên gọi SS-N-27 “Sizzler” , là một hệ thống vũ khí tinh vi và đa năng không thể thiếu trong chiến lược hải quân hiện đại của Nga, cung cấp khả năng chống hạm, tấn công trên bộ và chống tàu ngầm, với cả phiên bản trong nước và xuất khẩu giúp tăng cường phạm vi hoạt động và hiệu quả của Hải quân Nga và các đồng minh.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
31,458
Động cơ
1,415,596 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Hegseth cho biết, ngăn chặn Trung Quốc, cắt giảm phát thải là ưu tiên hàng đầu của Lầu Năm Góc

1739155096621.png


Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth hôm thứ Sáu đã cam kết chứng minh với Trung Quốc rằng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục hỗ trợ các đồng minh của mình ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương.

Tuy nhiên, Hegseth cho biết trong phiên hỏi đáp tại hội trường với các nhân viên Bộ Quốc phòng, Hoa Kỳ sẽ không tạo ra xung đột không cần thiết với Bắc Kinh.

“Chúng tôi rất sáng suốt về Trung Quốc, [Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa], nhưng chúng tôi cũng không cố gắng khởi xướng xung đột hoặc tạo ra xung đột ở nơi mà nếu không thì xung đột không cần phải tồn tại”, Hegseth nói. “Chúng tôi sẽ kiên cường với các đối tác của mình. Và sau đó, Tổng thống Trump, ở cấp độ chiến lược của mình, là người sẽ có các cuộc trò chuyện để đảm bảo rằng chúng ta không bao giờ có xung đột.

“Chúng tôi không muốn điều đó, [người Trung Quốc] không muốn điều đó,” Hegseth nói tiếp. “Chúng tôi chỉ cần duy trì sức mạnh để có thể ở vị trí tốt nhất có thể.”

Lầu Năm Góc đã đăng tải biên bản cuộc họp nội bộ vào tối thứ Sáu, sau khi chương trình phát trực tiếp sự kiện này bị cắt sau 15 phút phát biểu khai mạc của Hegseth.

Bình luận của Hegseth về Trung Quốc được đưa ra sau khi một quan chức Không quân hỏi ông liệu Bộ Quốc phòng có quyết đoán hơn ở khu vực "vùng xám" - trừ khi xảy ra chiến tranh - để ngăn chặn Trung Quốc và Nga hay không.

Hegseth cho biết: "Có những hoạt động trong vùng xám, một số trong đó bạn có thể thừa nhận, một số thì không. Nhưng chắc chắn, chúng tôi muốn gửi tín hiệu đến Trung Quốc rằng khu vực [Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương] sẽ và sẽ tiếp tục bị tranh chấp".

Trả lời câu hỏi về khả năng cắt giảm nhân sự tại DOD, Hegseth cũng cho biết rằng “có hàng nghìn vị trí bổ sung [trên khắp Bộ Quốc phòng] đã được tạo ra trong 20 năm qua mà không nhất thiết sẽ dẫn đến thành công trên chiến trường”.

Ông cho biết, “[Có] thêm nhân viên, thêm nhiều tầng quan liêu [và] thêm nhiều vị trí sĩ quan chỉ huy mà chúng tôi sẽ không xem xét nếu không xem xét lại”.

.........
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
31,458
Động cơ
1,415,596 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Hegseth lưu ý rằng sở này hoạt động trong "môi trường hạn chế về ngân sách" và nhấn mạnh đến đơn vị kỵ binh thiết giáp tại Fort Bliss, đơn vị đã phải cắt giảm một loạt các nhiệm vụ huấn luyện sắp tới do ngân sách eo hẹp.

Hegseth cho biết: "Khi bạn sống dựa vào các nghị quyết và giới hạn liên tục, rồi sau đó bạn có các hoạt động dự phòng và những thứ thay đổi, đột nhiên bạn bị thiếu hụt và giờ đây việc huấn luyện đơn vị bị bỏ qua". "Theo quan điểm của tôi, điều đó hoàn toàn không thể chấp nhận được".

1739156077374.png


Hegseth cho biết ngoài việc loại bỏ lãng phí, gian lận và lạm dụng, Lầu Năm Góc cần cắt giảm hệ thống phân cấp và nhiều tầng lớp quan liêu không phục vụ cho quân đội.

Ông cho biết điều đó cũng có thể liên quan đến việc cắt giảm số lượng tướng bốn sao và sĩ quan chỉ huy.

“Chúng ta đã chiến thắng Thế chiến II với bảy vị tướng bốn sao,” Hegseth nói. “Ngày nay chúng ta có 44 vị. Tất cả những vị tướng đó có trực tiếp góp phần vào thành công trong chiến tranh không? Có thể là có. Tôi không biết, nhưng đáng để xem xét lại để đảm bảo rằng chúng có đóng góp.”

Trong cuộc họp nội bộ, một viên chức từ văn phòng Đánh giá chương trình và đánh giá chi phí của Lầu Năm Góc, nơi cung cấp phân tích độc lập về các chương trình của Bộ Quốc phòng, đã hỏi liệu quá trình mua sắm của quân đội có nên tập trung vào các năng lực nhỏ hơn có thể triển khai nhanh hơn hay các năng lực quy mô lớn hơn có thể ngăn chặn kẻ thù hiệu quả hơn không.

Hegseth cho biết: “Trong một thế giới hoàn hảo, tôi sẽ nói là cả hai”, đồng thời trích dẫn hiệu quả của máy bay không người lái giá rẻ trong cuộc chiến ở Ukraine.

Ông cho biết Lầu Năm Góc có thể hợp tác với Thung lũng Silicon và các nhà thầu mới có khả năng triển khai nhanh chóng các hệ thống mới.

Lầu Năm Góc cần đẩy nhanh quá trình thử nghiệm để các chỉ huy có thể thấy các hệ thống mới hoạt động như thế nào trên thực địa, sau đó mở rộng quy mô sản xuất khi đã thấy rõ mức độ ứng dụng thực tế của những công nghệ mới đó.

Ngoài ra, Hegseth lưu ý rằng có một câu hỏi nêu bật những thách thức mà các gia đình quân nhân phải đối mặt, chẳng hạn như việc di chuyển thường xuyên, là "đúng 100%". Ông cũng gợi ý rằng các chương trình quân sự lớn có thể cần phải nhường chỗ cho những lo ngại của gia đình.

Ông cho biết sự thất vọng của các gia đình là “một vấn đề lớn về sự sẵn sàng và duy trì cũng như là một vấn đề về tinh thần”.

“Việc tài trợ cho thêm một hệ thống trị giá hàng tỷ đô la không quan trọng bằng việc tài trợ cho các gia đình và năng lực của hệ thống con người giúp tạo nên tất cả những điều đó.”
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
31,458
Động cơ
1,415,596 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Kênh đào Funan Techo và bài toán của Việt Nam

• Việt Nam có thể được định nghĩa là một quốc gia lục địa hướng biển. Mặc dù tư duy lục địa truyền thống vẫn phổ biến ở Việt Nam, nhưng tầm quan trọng của biển ngày càng được thừa nhận. Duy trì sự cân bằng giữa 2 lĩnh vực này là điều cần thiết nếu Việt Nam muốn đạt được sự thịnh vượng chung.

• Dự án kênh đào Funan Techo của Campuchia có tác động lớn về môi trường đối với cả Campuchia và Việt Nam. Với Việt Nam, dự án này đặt ra thách thức chiến lược, đặc biệt là đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long, vốn rất quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế của nước này. Thách thức này được Việt Nam coi là mối đe dọa “lục địa” từ nước láng giềng phía Tây, mặc dù theo một cách khác so với trước đây.

• Điều quan trọng là Campuchia phải áp dụng cách tiếp cận minh bạch và cung cấp thông tin, dữ liệu toàn diện về chức năng, hoạt động và biện pháp đảm bảo an toàn của kênh đào. Đây là quan điểm đồng thuận trong giới chuyên gia Việt Nam, mặc dù có những phân tích khác nhau về tác động của dự án.

• Do những tác động tiềm tàng về môi trường và sinh thái của kênh đào, Việt Nam phải chủ động có biện pháp phòng bị. Chính phủ Việt Nam cần cân bằng giữa nhu cầu lục địa ở phía Tây và nhu cầu biển ở phía Đông, ngay cả trong bối cảnh nguồn lực bị hạn chế. Do đó, điều cần thiết là Việt Nam phải xây dựng chiến lược quản lý hiệu quả bài toán khó mới xuất hiện này.

1739156710950.png


Kể từ khi thành lập nước Việt Nam độc lập vào năm 1945, đại chiến lược của Việt Nam xoay quanh 2 trụ cột: “xây dựng” và “bảo vệ”. Trước năm 1975, Việt Nam tập trung vào 2 nhiệm vụ chính: “xây dựng” chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đồng thời “đấu tranh” chống chính quyền miền Nam và giải phóng miền Nam khỏi chủ nghĩa đế quốc Mỹ. Quá trình này cơ bản mang bản chất lục địa, với việc hầu hết hoạt động “chiến đấu” và “xây dựng” diễn ra trên bộ. Vùng đất miền Tây và miền Bắc là nguồn gốc chính của những lo ngại về an ninh của Việt Nam và hình thành nên những trụ cột trong chiến lược phòng thủ của đất nước, bằng chứng là các cuộc chiến tranh với Trung Quốc và Khmer Đỏ. Sau năm 1991, khi vấn đề Campuchia đã được giải quyết, Việt Nam chuyển trọng tâm sang trụ cột “xây dựng”. Đồng thời, Việt Nam ngày càng hướng sang vùng biển phía Đông để đảm bảo sự thịnh vượng kinh tế.

Ngày 5/8, Campuchia khởi công Dự án kênh đào Funan Techo, gây căng thẳng mới giữa Việt Nam và Campuchia, đồng thời làm dấy lên những tranh luận về tác động an ninh của dự án này đối với Việt Nam. Khi Việt Nam chuyển sự chú ý sang phía Đông biển đảo, dự án này gợi lại ký ức cay đắng về phía Tây lục địa vốn là mối đe dọa an ninh nghiêm trọng đối với đất nước trong những năm 1970 và 1980. Việt Nam hiện phải đối mặt với thách thức bảo vệ lợi ích của mình trước một Trung Quốc ngày càng quyết đoán ở Biển Đông (quốc tế gọi là biển Nam Trung Hoa) từ phía Đông và một mối đe dọa phi truyền thống, phức tạp và ngày càng gia tăng từ phía Tây. Điều này đặt ra câu hỏi quan trọng: với nguồn lực hạn chế, Việt Nam cân bằng lợi ích ở phía Tây lục địa và phía Đông biển đảo như thế nào?

Phía Tây lục địa và phía Đông biển đảo

Kể từ đầu thế kỷ 21, vùng biển phía Đông đã được xác định là khu vực quan trọng cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Hướng ra biển là cách để dân tộc Việt Nam kết nối lại với di sản biển của mình. Trong suốt lịch sử, không gian biển đóng vai trò đáng kể trong việc định hình nền kinh tế chính trị của đất nước, ngay cả trước khi các triều đại đầu tiên giành được độc lập khỏi ách thống trị của Trung Quốc vào thế kỷ thứ 10 sau Công nguyên. Sự nổi bật của Đại Việt (nhà nước phong kiến bao gồm một phần lãnh thổ Việt Nam ngày nay) trong mạng lưới thương mại biển khu vực, cũng như sự phát triển của bản sắc biển rõ ràng ở Nam Kỳ trong thế kỷ 16 và 17, chứng tỏ rằng dân tộc Việt Nam luôn có mối liên hệ chặt chẽ với lĩnh vực biển. Hơn nữa, thông qua việc mở rộng sự quan tâm sang lĩnh vực biển, Việt Nam cũng đang xác định lại “không gian sống” của mình. Sau khi trải qua xung đột biên giới với Trung Quốc và Khmer Đỏ vào những năm 1970 và 1980, các nhà lãnh đạo Việt Nam nhận thấy sự cần thiết phải mở rộng chủ quyền và quyền tài phán của đất nước ra phía biển. Quan điểm này nhằm tạo ra vùng đệm an ninh ở Biển Đông, đồng thời tối đa hóa lợi ích kinh tế của đất nước từ các nguồn tài nguyên biển.

1739156755289.png


Tầm quan trọng chiến lược của biển được chính thức công nhận vào năm 1993, và tiếp tục được thể chế hóa trong những thập kỷ sau đó. Mục tiêu rất rõ ràng: biến Việt Nam thành “quốc gia biển mạnh”. Mục tiêu này được nhắc lại trong Chiến lược biển năm 2007 và Chiến lược kinh tế xanh sửa đổi năm 2018. Những văn kiện này phản ánh tư duy chiến lược biển mạnh mẽ của lãnh đạo Việt Nam. Đơn cử, Chiến lược biển năm 2007 thừa nhận thế kỷ 21 là “thế kỷ biển đảo”, do đó có là khẩu hiệu “hướng ra biển là thịnh vượng”. Biển được coi là “không gian sống”, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển và an ninh của đất nước. Vì vậy, việc xây dựng và thực hiện chiến lược biển là điều bắt buộc để định hướng phát triển đất nước dựa vào biển.

Điều đó cho thấy các chiến lược truyền thống của Việt Nam chủ yếu được định hình bởi tư duy lục địa bị chi phối bởi tầng lớp thống trị theo Nho giáo và không coi trọng thương mại trong thời kỳ phong kiến của đất nước. Trong suốt thế kỷ 20, Việt Nam phải đối mặt với nhiều mối đe dọa an ninh trên bộ và tham gia các cuộc chiến tranh chủ yếu trên bộ. Nền văn minh Việt Nam đã phát triển và được duy trì nhờ hệ thống sông ngòi rộng lớn. Đồng bằng sông Hồng ở miền Bắc từ lâu được coi là cái nôi của nền văn minh Việt Nam, trong khi đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam là nguồn lương thực chính của cả nước. Trên thực tế, gần một nửa sản lượng lúa gạo, 65% sản lượng thủy sản và 70% hoa quả của Việt Nam được sản xuất ở đồng bằng sông Cửu Long. Bản sắc lục địa mạnh mẽ này còn được thể hiện rõ hơn khi lục quân vượt trội hơn hải quân về nhân sự và nguồn lực trong quân đội Việt Nam.

Tóm lại, việc cùng tồn tại cả tư duy lục địa và tư duy biển cho thấy Việt Nam không thể chỉ tập trung vào lĩnh vực này hay lĩnh vực kia. Tương lai của Việt Nam được xác định bởi cả không gian biển và đầu tư vào vùng lục địa rộng lớn của mình.

...........
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
31,458
Động cơ
1,415,596 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Kênh đào Funan Techo: Mối đe dọa phi truyền thống từ mặt trận lục địa

Mấu chốt của bất đồng gần đây giữa Việt Nam và Campuchia về Dự án kênh đào Funan Techo là sự thiếu minh bạch về cách Campuchia định sử dụng nước từ kênh đào này, như mục đích và khối lượng dự kiến. Năm 2023, Ủy ban sông Mekong quốc gia Campuchia (CNMC) công bố báo cáo dài 14 trang về dự án. Tuy nhiên, các chuyên gia Việt Nam chỉ trích báo cáo thiếu thông tin về quy trình vận hành dự kiến hay thiếu đánh giá về tác động môi trường do kênh đào gây ra. Báo cáo chỉ đề cập đến chức năng của kênh đào này là tuyến đường thủy hay tuyến giao thông, không nêu rõ mức độ phục vụ các mục đích như tưới tiêu, thoát nước và thu nước cho các hoạt động khác nhau. Như vậy, báo cáo này mâu thuẫn với tuyên bố gần đây của Chủ tịch Thượng viện Hun Sen rằng kênh đào sẽ “tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động nông nghiệp bằng cách cung cấp nước cho canh tác cây trồng”. Phó Thủ tướng Campuchia Sun Chanthol cũng thảo luận về lợi ích của kênh đào này đối với hoạt động tưới tiêu trong một cuộc phỏng vấn video bằng tiếng Anh. Hơn nữa, mặc dù báo cáo của CNMC đề cập đến việc sử dụng hệ thống âu thuyền để ngăn việc thất thoát nước khỏi dòng chính sông Mekong, nhưng vẫn cần cung cấp thêm thông tin về thiết kế, bảo trì và vận hành hệ thống này.

1739156829284.png


Tháng 9/2023, Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam yêu cầu các chuyên gia đánh giá tác động của dự án. Tháng 10, Cục Khí tượng thủy văn Việt Nam công bố báo cáo dài 4 trang nhấn mạnh: “Việc xây dựng kênh đào ở Campuchia sẽ làm trầm trọng thêm vấn đề khô hạn ở đồng bằng sông Cửu Long như đã chứng kiến trong những năm gần đây”. Tuy nhiên, phân tích này chỉ xem xét tác động đến nguồn cung nước nếu kênh đào này được sử dụng cho mục đích giao thông. Tháng 4/2024, những người tham gia hội thảo tại thành phố Cần Thơ nêu bật những tác động tiêu cực tiềm ẩn của kênh đào Funan Techo đối với đồng bằng sông Cửu Long. Tại cuộc họp báo thường kỳ cùng tháng, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam thể hiện sự quan tâm đến Dự án kênh đào Funan Techo và kêu gọi Chính phủ Campuchia phối hợp chặt chẽ với Việt Nam và Ủy hội sông Mekong cũng như cộng đồng quốc tế trong việc chia sẻ thông tin về dự án này. Điều này cho thấy rõ Chính phủ Việt Nam vẫn chưa được thông tin đầy đủ về dự án.

Cả học giả Việt Nam và chuyên gia phương Tây đều bày tỏ quan ngại về hậu quả môi trường của dự án ở hạ lưu sông Mekong. Tuy nhiên, các chuyên gia Việt Nam có nhiều ý kiến khác nhau về quy mô và mức độ ảnh hưởng. Ước tính cực đoan nhất cho thấy kênh đào này có thể làm giảm 50-70% lưu lượng nước đến đồng bằng sông Cửu Long trong mùa khô. Tuy nhiên, các chuyên gia khác không nhất trí, cho rằng viễn cảnh có lẽ không nghiêm trọng đến thế với việc lưu lượng nước vào đồng bằng sông Cửu Long chỉ giảm 5-13%. Dự án cũng sẽ tác động đáng kể đến chế độ thủy văn của vùng ngập lũ xuyên biên giới. Đơn cử, lũ theo mùa cung cấp nước tưới cho kênh Vĩnh Tế ở tỉnh Kiên Giang, Việt Nam. Tuy nhiên, việc xây đê cao để bảo vệ kênh đào Funan Techo khỏi thiệt hại do lũ lụt sẽ làm giảm lũ tự nhiên và gia tăng tình trạng khô hạn ở một khu vực rộng lớn của đồng bằng sông Cửu Long và một phần đáng kể vùng đồng bằng ngập lũ của Campuchia, cuối cùng khiến sản lượng nông nghiệp sụt giảm.

Rõ ràng là các quan chức chính phủ và chuyên gia Việt Nam đã theo dõi chặt chẽ vấn đề này kể từ khi CNMC đệ trình văn bản đầu tiên lên Ủy hội sông Mekong vào năm 2023 về việc xây dựng kênh đào Funan Techo. Dù có những khác biệt trong đánh giá tác động tiềm tàng của dự án, nhưng hầu hết các chuyên gia Việt Nam nhất trí rằng Campuchia cần minh bạch hơn và cung cấp thêm thông tin, dữ liệu về quy trình vận hành, chức năng và mục đích của kênh đào cũng như các giải pháp đảm bảo an toàn trong trường hợp xảy ra sự cố.

Việt Nam: Bài toán cũ trong bối cảnh mới

Trong bối cảnh Việt Nam ưu tiên phát triển kinh tế và cách tiếp cận hòa bình trong chính sách đối ngoại và quốc phòng, rất khó có khả năng Chính phủ Việt Nam phản ứng mạnh mẽ với kế hoạch xây dựng kênh đào Funan Techo của Campuchia. Tuy nhiên, bất đồng gần đây đã làm sáng tỏ một sự thật quan trọng mà người dân Việt Nam lâu nay không chú ý đến: tầm quan trọng ngày càng tăng của lục địa phía Tây trong thế trận an ninh của Việt Nam, mặc dù bản chất khác so với trước đây. Do chiến lược lớn dựa rất nhiều vào biển và phải đối mặt với những xung đột tiềm tàng ở Biển Đông, Việt Nam hiện phải đối mặt với thách thức của việc cân bằng nguồn lực và ưu tiên chiến lược giữa vùng biển ở phía Đông và lục địa ở phía Tây.

Những thách thức từ cả 2 lĩnh vực này được xem là mối đe dọa rõ ràng đối với lợi ích quốc gia, hay theo quan điểm địa chiến lược là đối với “không gian chiến lược” của Việt Nam. Điều đáng chú ý là “không gian chiến lược” có tầm quan trọng đáng kể trong ngôn ngữ chiến lược của Việt Nam. “Không gian chiến lược” hàm ý môi trường tự nhiên của một quốc gia, bao gồm đất liền, biển, không gian và các khu vực phụ cận, cũng như các nước láng giềng và chính sách đối ngoại của họ. Không gian chiến lược hiện tại của Việt Nam bao gồm lục địa ở phía Bắc và phía Tây (với Campuchia, Lào và Trung Quốc là các nước láng giềng gần kề) và vùng biển ở phía Đông, với Biển Đông đóng vai trò là biên giới mới trong thế kỷ 21. Cân bằng các mối đe dọa ở cả 2 không gian chiến lược này là một nhiệm vụ khó khăn, đòi hỏi kỹ năng quản lý nhà nước và phân bổ nguồn lực thuần thục.

1739156928864.png

Quân đội Campuchia sử dụng chủ yếu vũ khí do TQ sản xuất

Vùng đất liền rộng lớn của Việt Nam và các nước láng giềng lân cận (Lào, Campuchia và Trung Quốc) luôn đóng vai trò quan trọng đối với quốc phòng và an ninh của Việt Nam. Nếu không có các nước láng giềng ổn định và thân thiện, Việt Nam sẽ gặp khó khăn trong việc huy động các nguồn lực để phát triển kinh tế, xã hội. Trong lịch sử, biên giới đất liền vừa là nguồn đảm bảo an ninh vừa là nguồn gây bất an theo nghĩa truyền thống, chủ yếu tập trung vào việc mở rộng và bảo vệ lãnh thổ. Tuy nhiên, trong thế giới kết nối của thế kỷ 21, được định hình bởi một trật tự quốc tế cụ thể, bản chất của các mối đe dọa từ biên giới đất liền ngày càng trở nên phức tạp và ít tập trung hơn vào vấn đề lãnh thổ. Những thách thức phi truyền thống này đòi hỏi Việt Nam phải có khả năng thích ứng, đổi mới và thành thạo hơn trong việc quản lý các mối quan hệ của mình, cả song phương và đa phương. Việt Nam cần tập trung không chỉ vào các yếu tố bên ngoài mà cả việc phát triển trong nước để đảm bảo tương lai kinh tế và quan hệ đối tác với các nước láng giềng. Nền tảng kinh tế vững mạnh là điều cần thiết để đảm bảo sự ổn định lâu dài dọc biên giới phía Tây của Việt Nam.

Thách thức quan trọng nhất đối với chiến lược lớn của Việt Nam là tìm kiếm sự cân bằng giữa lục địa ở phía Tây và biển ở phía Đông. Điều này liên quan đến việc phân bổ hiệu quả các nguồn lực cho cả 2 lĩnh vực, đặc biệt là trong quốc phòng và an ninh. Vấn đề không phải là chọn cái này hay cái kia mà là xác định ưu tiên chiến lược trong một môi trường phức tạp và luôn thay đổi. Đây không phải là nhiệm vụ dễ thực hiện và có thể tốn kém, đặc biệt đối với một quốc gia có thu nhập trung bình. Các hoạt động bất hợp pháp, ép buộc, hung hăng và dối trá của Trung Quốc ở Biển Đông gây ra mối đe dọa buộc Việt Nam phải đầu tư mạnh vào việc phát triển và hiện đại hóa lực lượng biển. Tranh cãi gần đây xung quanh Dự án kênh đào Funan Techo cho thấy rõ những thách thức trong tương lai từ lục địa phía Tây có thể làm chuyển hướng các nguồn lực khỏi Biển Đông.

Ảnh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc ở biên giới “lục địa” phía Tây là mối quan ngại chính của Việt Nam. Khi căng thẳng ở Biển Đông tiếp tục leo thang, việc xây dựng kênh đào Funan Techo đặt ra câu hỏi lớn hơn ở cấp độ chiến lược lớn: làm thế nào Việt Nam có thể cân bằng hiệu quả các nguồn lực và chính sách của mình giữa “lục địa” ở phía Tây và “biển” ở phía Đông? Trong khi Biển Đông vẫn là chiến trường chủ quyền chính, nhưng khu vực biên giới phía Tây hiện đang đối mặt với nhiều thách thức an ninh phi truyền thống, bao gồm các vấn đề ở khu vực sông Mekong, nạn buôn bán người và tội phạm xuyên quốc gia vốn đòi hỏi cách tiếp cận khác.

1739156975481.png

Quân đội Campuchia sử dụng chủ yếu vũ khí do TQ sản xuất

Một số nhà phân tích nhận định rằng Việt Nam cần thực hiện các biện pháp chủ động với các chiến lược do chuyên gia dẫn dắt và các giải pháp có tính thực tế để giảm thiểu mọi tác động tiềm ẩn có thể phát sinh từ kênh đào Funan Techo. Đồng thời, chính phủ phải cân bằng các nhu cầu có tính cạnh tranh của phía Tây lục địa và phía Đông biển đảo. Điều quan trọng là Việt Nam phải tiếp tục tận dụng sự hỗ trợ và hợp tác quốc tế để giải quyết các mối lo ngại về an ninh và phát triển trên cả 2 mặt trận. Dù lĩnh vực biển mang lại cơ hội tăng trưởng kinh tế và thịnh vượng, nhưng nếu không có sự hỗ trợ của lĩnh vực lục địa thì nền tảng lợi ích kinh tế và an ninh của Việt Nam sẽ không bền vững.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
31,458
Động cơ
1,415,596 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Trạng thái “bình thường mới” trong quan hệ Trung Quốc-Philippines?

Bài viết của Trần Tương Miếu (Chen Xiangmiao), Phó viện trưởng Viện khoa học hải dương thuộc Viện nghiên cứu Nam Hải (Trung Quốc), đăng trên trang mạng Người quan sát, nội dung như sau:

Cái gọi là “mang tính tấn công” có nghĩa là tìm cách tăng cường quyền lực, lợi thế và các lợi ích đơn phương khác, chủ động thách thức nguyên trạng và thực hiện các biện pháp nhằm làm suy yếu lợi ích của đối thủ cạnh tranh hoặc đối tác mà không tính đến hậu quả. Khái niệm này thường được Mỹ và phương Tây sử dụng để miêu tả tác động và thách thức của các cường quốc đang trỗi dậy đối với các cường quốc truyền thống. Tuy nhiên, các biểu hiện của Philippines trong vấn đề Biển Đông (Trung Quốc gọi là Nam Hải) không những phản ánh đúng bản chất của khái niệm “mang tính tấn công” này, mà còn phản ánh ở các hoạt động quân sự, cũng như các phương diện khác như cuộc chiến về ngoại giao, tình báo, nhận thức...

Philippines luôn tự nhận mình là một nước yếu và nhỏ, nhưng điều này không cản trở chính sách mang tính tấn công của nước này trong vấn đề Biển Đông. Kể từ năm 2023, mọi sắp xếp chính sách của Philippines đối với Biển Đông đều nhằm mục đích gia tăng lợi thế cạnh tranh và mở rộng quyền lực bất cân xứng. Những biện pháp mang tính tấn công này đã làm gián đoạn tiến độ phát triển vốn có của tình hình Biển Đông và trở thành nguồn gốc gây bất ổn lớn nhất cho khu vực này.

“Nguyên trạng ở Biển Đông” giữa Trung Quốc và Philippines là gì?

Có lẽ các bên ở trong và ngoài khu vực có cách hiểu khác nhau về “nguyên trạng ở Biển Đông”. Các phát ngôn và diễn giải của Mỹ và một số đồng minh, đối tác luôn nói rằng Trung Quốc đang phá hoại nguyên trạng nhưng hiếm khi đưa ra thời gian và trạng thái cụ thể của cái gọi là “nguyên trạng”. Liên quan đến tình trạng tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines ở Biển Đông, kể từ khi Philippines chiếm đóng đảo Vĩnh Viễn (Trung Quốc gọi là đảo Mã Hoan) bằng vũ lực vào năm 1970 và sau đó bắt đầu làn sóng kiểm soát bất hợp pháp quần đảo Trường Sa (Trung Quốc gọi là Nam Sa), 2 bên từng xuất hiện “nguyên trạng” mang tính giai đoạn xoay quanh những vướng mắc trên biển.

Sau khi Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002 được ký kết, tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines xoay quanh Biển Đông bao gồm 3 khía cạnh: Thứ nhất, không chiếm giữ các thực thể không có người ở; thứ hai, duy trì đối thoại về các tranh chấp trên biển, kiểm soát ổn thỏa những bất đồng giữa 2 bên và thúc đẩy việc giải quyết tranh chấp; thứ ba, quan tâm đến mối quan ngại và lợi ích trên biển của nhau và thúc đẩy hợp tác thực chất trên biển. Tóm lại, Trung Quốc và Philippines đều quan tâm đến các lợi ích và mối quan ngại trên biển của nhau, cùng nhau xây dựng lòng tin và tạo điều kiện để giải quyết hòa bình các tranh chấp.

1739157210336.png

Bãi cạn Scarborough

Nguyên trạng này dựa trên việc 2 bên đều duy trì được chủ trương của mình, quyền lợi và chủ trương không bị tổn hại, không có cuộc đọ sức được mất ngang nhau. Tuy nhiên, nguyên trạng này đã trải qua 2 lần biến động kể từ năm 2012. Lần đầu tiên là dưới thời Chính quyền Tổng thống Benigno Aquino III và lần thứ hai là từ sau năm 2023. Chính quyền Aquino III tìm cách bắt giữ ngư dân Trung Quốc tại bãi cạn Scarborough (Trung Quốc gọi là đảo Hoàng Nham) và đệ đơn kiện Trung Quốc về vấn đề Biển Đông lên Tòa trọng tài quốc tế, từ bỏ hoàn toàn thế cân bằng động đã được thiết lập giữa Trung Quốc và Philippines. Logic cơ bản của việc Philippines kiện Trung Quốc về vấn đề Biển Đông lên Tòa trọng tài quốc tế là để tăng lợi thế và quân bài mặc cả trong cuộc đọ sức ở Biển Đông, trong khi việc bắt giữ ngư dân lại xuất phát từ cân nhắc kiểm soát hoàn toàn bãi cạn Scarborough.

Từ năm 2016-2023, Trung Quốc và Philippines một lần nữa thiết lập thế cân bằng động trong cuộc đọ sức trên biển. Trung Quốc cho phép Philippines tiếp tế hàng hóa nhân đạo cho con tàu chiến mắc cạn trên bãi Cỏ Mây (Trung Quốc gọi là Nhân Ái tiêu) và hoạt động đánh bắt cá của ngư dân ở vùng biển gần bãi cạn Scarborough; đồng thời, ngầm chấp thuận việc Philippines bồi lấp và xây dựng cơ sở cảng trên đảo Thị Tứ (Trung Quốc gọi là đảo Trung Nghiệp). Ngoài ra, 2 bên đều giữ thái độ kiềm chế ở bãi Trăng Khuyết (Trung Quốc gọi là Bán Nguyệt tiêu), đá Hoài Ân (Trung Quốc gọi là Thiết Tuyến tiêu) và các đảo, đá ngầm khác để tránh làm leo thang tình hình. Về ngoại giao, sự cân bằng được thể hiện qua việc thiết lập và duy trì cơ chế tham vấn song phương trong các vấn đề Biển Đông, đối thoại giữa lực lượng bảo vệ biển 2 bên… Về cuộc chiến dư luận và nhận thức, 2 bên thông cảm cho nhau và tránh làm cho ý kiến và thái độ của người dân liên quan đến vấn đề biển trở nên căng thẳng và hình thành sự đối đầu về tinh thần dân tộc.



.............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
31,458
Động cơ
1,415,596 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Chính sách của Chính quyền Marcos Jr. đối với Biển Đông là “tấn công” hay “phòng thủ”?

Philippines luôn miêu tả mình là “nạn nhân”, “người bảo vệ quy tắc” và “người phòng thủ”, đồng thời coi Trung Quốc là “kẻ phá vỡ quy tắc”, “kẻ bắt nạt” và “kẻ phá hoại nguyên trạng”. Tuyên bố của Philippines không những phù hợp với chiến lược “vùng xám” mà Mỹ đang tìm cách áp dụng để chống lại Trung Quốc ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, mà còn được Nhật Bản, Australia, Ấn Độ... ủng hộ. Vì hầu hết các quốc gia này đều có tranh chấp trên biển hoặc trên đất liền với Trung Quốc, trong đó có một số nước còn tồn tại xung đột chồng lấn không gian địa chiến lược với Trung Quốc. Vậy Philippines đang “tấn công” hay “phòng thủ” trong vấn đề Biển Đông?

Sức mạnh quốc gia lớn hay nhỏ không liên quan đến định hướng chính sách hoặc chiến lược. Mặc dù Philippines là một quốc gia nhỏ nhưng lại áp dụng chính sách mang tính tấn công đối với Biển Đông. Sau tháng 2/2023, những sự cân bằng này gần như bị phá vỡ hoàn toàn bởi các hành động đơn phương của Philippines. Các biện pháp này đã tạo thành chính sách mang tính tấn công của Philippines đối với Biển Đông.

1739157372870.png


Thứ nhất, Philippines tìm cách thiết lập liên minh ngầm, thậm chí là thân thiết, với các nước có yêu sách ở Biển Đông bằng biện pháp gây chia rẽ. Tham vọng của Manila nhằm lôi kéo các nước có yêu sách khác thiết lập mặt trận chung đã có từ thời Chính quyền Aquino III, nhưng chưa bao giờ thực hiện được. Chính quyền Marcos Jr. áp dụng chiến lược “lùi một bước để tiến hai bước” và “tiến theo đường vòng”, từ bỏ ý tưởng phi thực tế là liên kết với các nước có yêu sách khác, chuyển sang tìm cách cùng các nước có tranh chấp khác xử lý ổn thỏa tiến trình tranh chấp trên biển.

Tờ Philippine Daily Inquirer đã đăng công hàm ngoại giao của Trung Quốc gửi tới Malaysia liên quan đến hoạt động khai thác dầu khí tại các khu vực tranh chấp ở Biển Đông. Động thái này tưởng chừng không liên quan đến Chính phủ Philippines, nhưng trên thực tế lại có mối liên hệ chặt chẽ với cá nhân Marcos Jr., bởi Giám đốc hành chính của tờ Philippine Daily Inquirer là họ hàng của Marcos Jr., cũng là thành viên chủ chốt của gia tộc chính trị Marcos. Sở dĩ Chính phủ Philippines “nhắm mắt làm ngơ” trước vụ rò rỉ công hàm lần này chính là để tìm cách ép Chính quyền Anwar Ibrahim của Malaysia có lập trường cứng rắn, cản trở tiến trình giải quyết vấn đề Biển Đông thông qua đối thoại hiệp thương hữu nghị giữa chính phủ Trung Quốc và Malaysia.

Đầu tháng 10/2024, mục đích thực sự của việc Chính phủ Philippines nhiều lần đề cập đến vụ tàu cá Việt Nam bị chìm ở vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là Tây Sa) là nhằm kích động tinh thần dân tộc chủ nghĩa ở Việt Nam, gây sức ép buộc Chính phủ Việt Nam phải thực hiện chính sách cứng rắn ở Biển Đông. Hai vụ việc này cho thấy Philippines không hài lòng với hiện trạng tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông, tìm cách gây rắc rối cho Trung Quốc bằng cách liên kết với các bên tranh chấp khác để làm suy yếu sức ép của Trung Quốc đối với Philippines ở trên biển. Tuy nhiên, động thái này không những tạo ra tính khó đoán định lớn hơn cho Trung Quốc và Malaysia, Trung Quốc và Việt Nam xử lý các tranh chấp trên biển, mà còn tăng thêm sự bất ổn mới cho tình hình an ninh khu vực.

Thứ hai, Chính phủ Philippines thực hiện kế hoạch mở rộng mới ở Biển Đông. Ngay sau khi lên cầm quyền, Chính quyền Marcos Jr. bắt đầu thực hiện kế hoạch mở rộng trên biển, bao gồm: quay trở lại bãi cạn Scarborough, chiếm đóng thực tế 3 bãi đá ngầm thuộc quần đảo Trường Sa và đơn phương đệ trình ranh giới ngoài thềm lục địa ở Biển Đông. Sau vụ đối đầu với Philippines ở bãi cạn Scarborough năm 2012, Trung Quốc bắt đầu bình thường hóa sự kiểm soát ở bãi cạn này và cho phép ngư dân Philippines đánh cá ở vùng biển xung quanh. Do trong nước luôn “canh cánh trong lòng” về cái gọi là “mất đi” quyền kiểm soát đối với bãi cạn Scarborough, nên Chính quyền Marcos Jr. đã thổi phồng và lợi dụng tinh thần dân tộc, từ tháng 8/2023 đã huy động Lực lượng bảo vệ bờ biển (PCG), hải quân, Cục nghề cá và nguồn lợi thủy sản, lực lượng dân quân xâm nhập vào bãi cạn này, bên cạnh việc tuyên bố chủ quyền đối với bãi cạn Scarborough, còn tìm cách giành lại quyền kiểm soát thực tế.

1739157483313.png


Các động thái của Philippines ở bãi Cỏ Mây, bãi Sa Bin (Trung Quốc gọi là Tiên Tân tiêu) và đá Hoài Ân thuộc quần đảo Trường Sa cũng là để kiểm soát thực tế, thậm chí là chiếm hữu chúng. Tuy nhiên, Trung Quốc và Philippines đã hình thành thỏa thuận ngầm và sự cân bằng về mối quan tâm lợi ích nào đó xoay quanh 3 thực thể trên biển này. Chẳng hạn, duy trì tình trạng không có người ở đá Hoài Ân và bãi Sa Bin, cho phép Philippines tiếp tế hàng hóa nhân đạo cho nhân viên trên con tàu mắc cạn ở bãi Cỏ Mây... Các động thái của Marcos Jr. đối với 3 bãi đá này thực chất là để tăng số lượng đảo, bãi đá chiếm đóng thực tế ở Biển Đông, nhằm mở rộng diện tích lãnh thổ và yêu sách các vùng biển thuộc quyền kiểm soát của nước này. Đây là biểu hiện của hành vi mang tính tấn công điển hình.

Thứ ba, việc Philippines ủng hộ Mỹ tăng cường triển khai chiến lược ở Biển Đông không chỉ do sức ép của Mỹ và sự cám dỗ của lợi ích, mà còn tìm cách dựa vào Mỹ để có được lợi thế trước Trung Quốc. Mỹ và Philippines là liên minh quân sự và đã ký 3 văn kiện hợp tác an ninh. Philippines cung cấp cho Mỹ các căn cứ quân sự, thậm chí còn hỗ trợ nước này triển khai hệ thống phóng tên lửa Typhon ở Biển Đông. Đây đều là những hành vi bình thường, hợp lý của một quốc gia. Đặc biệt, để thúc đẩy thực hiện Chiến lược Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, Mỹ muốn biến Philippines trở thành “người đại diện” của mình và cung cấp căn cứ tiền tuyến làm phong phú sức mạnh quân sự của nước này ở chuỗi đảo thứ nhất. Tuy nhiên, nếu xét từ góc độ của Philippines, hành động này của Marcos Jr. đã bộc lộ tính tấn công rõ rệt. Trong lịch sử, Philippines từng nhiều lần yêu cầu Mỹ làm rõ Hiệp ước phòng thủ chung Mỹ-Philippines được áp dụng cho Biển Đông, điều này có nghĩa là Chính phủ Philippines trên thực tế coi Mỹ là xuất phát điểm cho chiến lược an ninh của nước này đối với Biển Đông.

Tuy nhiên, yêu cầu của Philippines đối với liên minh quân sự Mỹ-Philippines là không nhất quán. Chính quyền Marcos Jr. không phải là dựa vào Mỹ để bảo vệ nhu cầu lợi ích của mình ở Biển Đông, mà là tìm cách dựa vào sự hỗ trợ của Mỹ để thực hiện kế hoạch bành trướng ở Biển Đông. Điều này khác với chính phủ các nhiệm kỳ trước đây. Thông qua tuyên bố của Ngoại trưởng 2 nước vào đầu năm 2019, Chính phủ Mỹ xác nhận Hiệp ước phòng thủ chung Mỹ-Philippines được áp dụng cho Biển Đông. Marcos Jr. không hài lòng với cam kết an ninh của Mỹ, thay vào đó coi sự hỗ trợ của Mỹ như cung cấp thông tin tình báo, ngoại giao, hiện đại hóa quốc phòng… làm chỗ dựa để tiến hành các hoạt động chiếm đóng ở bãi Cỏ Mây, bãi Sa Bin và bãi cạn Scarborough. Đặc biệt, việc Philippines hỗ trợ Mỹ triển khai hệ thống phóng tên lửa Typho đã vượt ra ngoài phạm trù phòng thủ, mục đích của nước này là giúp Mỹ củng cố lợi thế chiến lược trước Trung Quốc ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, từ đó tăng cường năng lực răn đe chiến lược của Philippines đối với Trung Quốc.

1739157564189.png


Thứ tư, chính sách mang tính tấn công của Philippines còn được thể hiện ở cuộc chiến dư luận và cuộc chiến nhận thức. Sau khi Chính quyền Marcos Jr. lên nắm quyền, PCG, quân đội, Cục nghề cá và nguồn lợi thủy sản và các đơn vị tư nhân liên tiếp đề xuất các sáng kiến mới, tạo ra các khái niệm mới và sử dụng các câu chuyện khác xa với thực tế khách quan, qua đó hình thành dư luận chống Trung Quốc. Philippines nhận định rằng mặc dù câu chuyện liên quan đến Biển Đông có nhiều thông tin sai lệch, nhưng khoảng cách quyền lực giữa Trung Quốc và Philippines là rất lớn, nên với tư cách là một cường quốc trên thế giới, Trung Quốc sẽ thỏa hiệp để giữ thể diện.

Từ năm 2023, PCG đã đề xuất cái gọi là “sách lược phơi bày” và “kế hoạch minh bạch”. Ngoài việc thỉnh thoảng công bố số lượng và tình hình hoạt động cụ thể của các tàu hải cảnh, tàu đánh cá và tàu hải quân Trung Quốc trong vùng biển mà Philippines tuyên bố chủ quyền, lực lượng này còn thông qua cắt ghép góc quay và biên tập video trực tiếp tại hiện trường để cố tình xuyên tạc tình hình thực tế của xung đột trên biển. Trong một số vụ việc, PCG thậm chí còn cố tình gây ra sự cố va chạm trên biển. Chẳng hạn như vụ va chạm giữa tàu của PCG và Hải cảnh Trung Quốc ở bãi Sa Bin vào ngày 31/8/2024. Lý do khiến Philippines làm điều này chính là để củng cố thêm ấn tượng của cộng đồng quốc tế về việc Trung Quốc bắt nạt nước nhỏ.

Trước thời Chính quyền Marcos Jr., Trung Quốc và Philippines nhìn chung duy trì được sự cân bằng xoay quanh vấn đề Nam Hải, 2 bên đều có các hành động phù hợp với các chuẩn mực cơ bản của quan hệ quốc tế. Để tận dụng lợi thế là một quốc gia nhỏ, Chính quyền Marcos Jr. đã tăng cường quyền phát ngôn và sự ủng hộ của dư luận quốc tế, cố tình tạo ra và thổi phồng các cuộc đối đầu, xung đột trên biển.

Thứ năm, việc Philippines ủng hộ, tham gia và đóng vai trò đặc biệt trong nhiều cơ chế an ninh tiểu đa phương ở mức độ rất lớn là tìm kiếm sức mạnh để có thể cản trở (không phải là đối trọng) Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông. Ngoài việc dựa vào sự hỗ trợ an ninh của Mỹ, Chính quyền Marcos Jr. còn theo đuổi chiến lược liên kết đa dạng hơn so với người tiền nhiệm, từng bước nâng cấp quan hệ an ninh với các nước trong và ngoài khu vực Biển Đông như Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Ấn Độ và Việt Nam, đồng thời gia nhập các cơ chế an ninh tiểu đa phương do Mỹ dẫn đầu. Philippines luôn coi vấn đề Biển Đông là trọng điểm để tăng cường quan hệ an ninh song phương với các nước ở trong và ngoài khu vực, cũng như tham gia một số cơ chế an ninh tiểu đa phương. Tuy nhiên, việc Manila tăng cường phối hợp chiến lược an ninh với những nước này rõ ràng là làm giảm ưu thế và ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực Biển Đông.

Sự phối hợp chính sách và hợp tác an ninh giữa Philippines với Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Ấn Độ xoay quanh vấn đề Biển Đông ở một mức độ nhất định đã thiết lập tiền đề ứng phó với thách thức đến từ Trung Quốc. Đặc biệt là các cuộc tuần tra chung giữa Mỹ, Philippines với Nhật Bản, Australia ở Biển Đông mang màu sắc kiềm chế Trung Quốc mạnh mẽ. Tuy nhiên, chiến lược này của Philippines đã phá vỡ kết cấu tương tác ban đầu với Trung Quốc xoay quanh vấn đề Biển Đông, đồng thời có tác động rất lớn đến cấu trúc an ninh khu vực do Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) dẫn dắt.


............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
31,458
Động cơ
1,415,596 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Sự tương tác giữa Trung Quốc và Philippines ở Biển Đông sẽ đi về đâu?

Sự tương tác giữa Trung Quốc và Philippines xoay quanh các tranh chấp trên biển có thể được chia thành 4 cấp độ tùy theo mức độ hợp tác và tin cậy lẫn nhau: một là, 2 bên đề xuất các giải pháp và lộ trình thực hiện cho các tranh chấp trên biển dưới hình thức đối thoại trực tiếp; hai là, thúc đẩy đàm phán để giải quyết tranh chấp giữa 2 bên và triển khai hợp tác thiết thực trên biển; ba là, kiểm soát bất đồng và ngăn chặn khủng hoảng và xung đột leo thang; bốn là, ở trong tình trạng đối đầu toàn diện trên tất cả các mặt như trên biển, ngoại giao, pháp luật, dư luận… Kể từ năm 2023, trên thực tế Chính quyền Marcos Jr. đã hạ thấp mức độ giải quyết các tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines ở Biển Đông.

1739157678210.png


Hiện sự tương tác giữa 2 nước xoay quanh tranh chấp trên biển trên thực tế đã bị hạ cấp từ hợp tác thực chất trên biển và tích lũy sự tin cậy lẫn nhau dưới thời Chính quyền Duterte sang kiểm soát khủng hoảng và bất đồng, thậm chí là rơi vào trạng thái đối đầu toàn diện trong trường hợp xấu nhất. Dưới thời Chính quyền Aquino III, quan hệ Trung Quốc-Philippines thực sự đã chạm đáy vào năm 2016. Các kênh đối thoại giữa 2 bên xoay quanh tranh chấp Biển Đông gần như bị gián đoạn hoàn toàn, sự tin cậy lẫn nhau cũng mất đi. Sau khi lên nắm quyền, Chính quyền Duterte đã gác lại phán quyết của Tòa trọng tài đối với vụ kiện Biển Đông và loại bỏ các điểm nóng xung đột như bãi cạn Scarborough, bãi Cỏ Mây và đá Hoài Ân thông qua các thỏa thuận ngầm và thỏa thuận tạm thời. Điều này đã đặt nền tảng cho 2 bên kiểm soát các cuộc khủng hoảng tiềm tàng và khôi phục sự tin cậy lẫn nhau.

Dưới thời Chính quyền Duterte, cơ chế tham vấn song phương Trung Quốc-Philippines về vấn đề Biển Đông không chỉ đặt nền tảng vững chắc cho việc tăng cường sự tin cậy lẫn nhau về chính trị giữa 2 nước, mà còn tạo điều kiện để 2 bên chuyển từ xung đột, đối đầu sang đối thoại, hiệp thương. Đặc biệt, 2 bên đã tiến hành hợp tác hiệu quả xoay quanh nghề cá, thực thi pháp luật chung và khai thác dầu khí. Sau khi Marcos Jr. lên nắm quyền, mặc dù cơ chế đối thoại Trung Quốc-Philippines vẫn tồn tại và mở rộng thêm các cơ chế trao đổi trên biển, nhưng chức năng của các cơ chế này đã bị suy giảm từ việc thúc đẩy hợp tác, tăng cường sự tin cậy lẫn nhau và tìm cách giải quyết tranh chấp xuống ngăn chặn và kiểm soát khủng hoảng xảy ra. Đồng thời, đường dây nóng liên lạc giữa lực lượng bảo vệ bờ biển Trung Quốc và Philippines cũng bị gián đoạn do quyết sách đơn phương của Philippines. Ngoài ra, Trung Quốc và Philippines cũng không có dự án hợp tác thực chất trên biển nào.

Tranh cãi giữa Trung Quốc và Philippines xoay quanh vấn đề Biển Đông từ những năm 1970 đến nay đã trải qua nhiều thăng trầm. Tuy nhiên, hiện những mâu thuẫn, bất đồng giữa 2 bên liên tục bị các phương tiện truyền thông, báo chí và Internet thổi phồng. Đồng thời, cũng vì trong lịch sử, Mỹ chưa từng coi trọng Biển Đông và lợi dụng Philippines để kiềm chế Trung Quốc như hiện nay. Chính phủ các nhiệm kỳ trước đây của Philippines cũng chưa từng lợi dụng vấn đề Biển Đông để thực hiện chính sách đối nội, đối ngoại giống như Chính quyền Marcos Jr.

Từ góc độ này, những xung đột và tranh chấp giữa Trung Quốc và Philippines ở Biển Đông là chưa từng có. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là mâu thuẫn giữa 2 nước là không thể hóa giải và yếu tố Biển Đông trong quan hệ Trung Quốc-Philippines sẽ không bao giờ biến mất. Trong khoảng thời gian 18 tháng ngắn ngủi từ tháng 2/2023-8/2024, các cuộc xung đột trên biển giữa Trung Quốc và Philippines về cơ bản đã lên đến đỉnh điểm, các biện pháp mang tính tấn công của Philippines trong chính sách đối với Biển Đông cũng đã được sử dụng triệt để. Cùng với việc những mâu thuẫn được lộ rõ, quan hệ Trung Quốc-Philippines đã trải qua giai đoạn khó khăn, nhưng điều này cũng tạo điều kiện cho 2 nước khắc phục một số lỗ hổng trong quan hệ song phương.

Trong tương lai, Chính phủ Philippines sẽ phải xem xét về mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia và lợi ích nhóm chính trị, đánh giá đầy đủ những ưu và nhược điểm của việc gia tăng xung đột trên biển, nhất là phải đánh giá lại mức độ mà Mỹ có thể hỗ trợ cho chính sách của nước này đối với Biển Đông. Cho dù những cân nhắc về lợi ích nhóm chính trị hay lợi ích quốc gia, Philippines không có lựa chọn nào khác ngoài việc nối lại đối thoại và hợp tác. Chính sách mang tính tấn công ở Biển Đông sẽ không bền vững. Nhận định này không phải là nhận định của một phía, cũng không phải là sự tưởng tượng, mà là nhận định dựa trên diễn biến của tình hình khu vực và trên biển hiện nay.

Thứ nhất, Mỹ muốn Philippines duy trì vai trò là “kẻ phá rối”, nhưng cũng lo ngại Manila sẽ trở thành “ngòi nổ” cho cuộc xung đột khu vực, đặc biệt là cuộc đọ sức Trung-Mỹ. Nếu chính sách mang tính tấn công của Philippines ở Biển Đông chạm đến điểm giới hạn của Trung Quốc thì sẽ ảnh hưởng đến tình hình chiến lược chung của Mỹ ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương.

1739157715727.png


Mặc dù Mỹ muốn Philippines trở thành “người đại diện” để Trung Quốc phải tăng chi phí và kiềm chế bố cục ngoại giao láng giềng của Trung Quốc, nhưng nước này không có cơ hội chiến thắng trong cuộc xung đột quy mô lớn giữa Trung Quốc và Mỹ ở khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương. Ngoài sức ép mà Mỹ tạo ra cho Philippines, bản thân Marcos Jr. và nhóm hoạch định chính sách của ông cũng phải đưa ra nhận định toàn diện về việc Mỹ không thể can thiệp trực tiếp vào xung đột Biển Đông, mà chỉ có thể cung cấp các hỗ trợ an ninh khác như vũ khí và tình báo; đồng thời, cũng phải đưa ra nhận định tương xứng đối với việc chọc giận Mỹ sẽ phải đối mặt với tình huống cô lập không được viện trợ.

Thứ hai, sách lược theo kiểu tiến dần của Philippines ở Biển Đông đã không còn hiệu quả, hiệu quả của cái gọi là “kế hoạch minh bạch” cũng suy giảm. Kể từ những năm 1990, Philippines đã tiến hành mở rộng lãnh thổ và vùng biển ở Biển Đông thông qua sách lược theo kiểu tiến dần. Đây cũng là quá trình thăm dò điểm giới hạn của Trung Quốc. Xét từ các động thái sau năm 2023, Trung Quốc đã thể hiện quyết tâm rõ ràng và kiên định với cộng đồng quốc tế và sẽ không tiếp tục nhượng bộ trước Philippines. Tương tự, Philippines tìm cách gây sức ép với Trung Quốc thông qua cuộc chiến nhận thức, nhưng kể từ năm 2024, Trung Quốc đã tiến hành một loạt cuộc phản công xoay quanh cuộc chiến nhận thức ở Biển Đông và đạt được những kết quả đáng chú ý.

Thứ ba, quyết tâm bảo vệ quyền lợi trên biển của Trung Quốc khiến cho các hành động trên biển của Philippines mất nhiều hơn được. Mặc dù Philippines đã gây sức ép dư luận nhất định lên Trung Quốc thông qua các hoạt động trên biển, nhưng hiệu quả của các hoạt động này đều đã giảm đáng kể, và cái giá phải trả lớn hơn lợi ích thu được.

Vì vậy, có lý do để dự đoán rằng sau khi trải qua những thăng trầm, sự tương tác giữa Trung Quốc và Philippines xoay quanh tranh chấp Biển Đông sẽ dần chuyển sang giai đoạn tương đối ổn định với những biến động nhỏ. Những mâu thuẫn mang tính kết cấu trên biển giữa Trung Quốc và Philippines có 3 khía cạnh: xung đột về chủ trương, đối lập về tinh thần dân tộc và phán quyết của Tòa trọng tài đối với vụ kiện Biển Đông. Những mâu thuẫn này không có con đường giải quyết hiệu quả trong ngắn hạn, xung đột xoay quanh các vấn đề nóng của khu vực trong tương lai vẫn sẽ tiếp tục. Tuy nhiên, kinh nghiệm từ tranh chấp trên biển hiện nay giữa Trung Quốc và Philippines chắc chắn sẽ tạo động lực mạnh mẽ cho đối thoại và hợp tác giữa 2 nước trong tương lai.


Trong tương lai, sự tương tác giữa Trung Quốc và Philippines xoay quanh vấn đề Biển Đông sẽ tiến tới trạng thái “bình thường mới”: Cùng tồn tại ở các khu vực có tranh chấp, đối thoại và khẩu chiến về ngoại giao, đối lập về mặt pháp lý, cũng như đối đầu gay gắt trong cuộc chiến dư luận và cuộc chiến nhận thức. Hai nước sẽ tiếp tục trong trạng thái “vừa đàm phán vừa đấu tranh”. Thời kỳ hợp tác trên biển giữa Trung Quốc và Philippines dưới thời Chính quyền Duterte đã không thể quay trở lại, trong khi đối đầu không ngừng cũng sẽ trở thành quá khứ. Về cơ bản, Trung Quốc và Philippines có thể duy trì lâu dài trạng thái: 2 bên buộc phải nỗ lực để kiểm soát bất đồng và cuộc khủng hoảng tiềm tàng trên biển.
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
31,458
Động cơ
1,415,596 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Kế hoạch B cho hòa bình ở Ukraine

Cuộc chiến của Nga ở Ukraine đã trở thành một cuộc chiến tiêu hao. Ở Kiev, cuộc thảo luận đã chuyển sang ngừng bắn dưới một hình thức nào đó, dù không theo các điều khoản mà Moskva đưa ra. Chìa khóa là mở ra con đường hướng tới lệnh ngừng bắn mà có thể kéo dài và đặt nền tảng cho một châu Âu an toàn hơn.

Gần 3 năm sau cuộc tấn công toàn diện của Nga vào Ukraine, quân đội hai bên đều đã kiệt sức. Hàng trăm nghìn người thiệt mạng, một lượng lớn thiết bị quân sự bị phá hủy và nhiều nơi ở Ukraine bị tàn phá. Cuộc chiến trên bộ lớn nhất của châu Âu kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai tiếp tục có nguy cơ leo thang thành một cuộc đối đầu trực diện giữa các nước phương Tây – vốn ủng hộ Ukraine thông qua viện trợ kinh tế và quân sự – và Nga – cường quốc hạt nhân lớn nhất thế giới. Sau thất bại trong cuộc chiến chớp nhoáng ban đầu, Nga hiện hướng tới mục tiêu chiếm ưu thế bằng vũ lực và lợi thế về số lượng. Ở Kiev, quan điểm rằng một thỏa thuận ngừng bắn thực tế hơn một chiến thắng quân sự trên chiến trường đang ngày càng phổ biến, mặc dù người Ukraine phản đối bất kỳ thỏa thuận nào không bao gồm các đảm bảo an ninh nhằm ngăn chặn một cuộc tấn công mới từ Nga. Trong bối cảnh hiện tại, Ukraine và những quốc gia phương Tây ủng hộ nước này phải đối mặt với thách thức xác định hướng đi để chuẩn bị cho các cuộc đàm phán cuối cùng mà có thể dẫn đến hòa bình bền vững và làm giảm tác động của những nhượng bộ mà Ukraine có thể phải thực hiện.

Cuộc chiến tiêu hao

Trong những tháng gần đây, Nga dường như đã thắng thế trong cuộc chiến tiêu hao này. Lực lượng Nga tiếp tục tiến về phía Đông Ukraine giữa lúc các cuộc đụng độ dữ dội gây tổn thất nặng nề cho cả hai bên. Các cuộc tấn công bằng tên lửa và thiết bị bay không người lái của Ukraine đã đẩy hạm đội Biển Đen của Nga ra khỏi căn cứ ở Crimea, nhưng cả thành công này lẫn cuộc tấn công của quân đội Ukraine hồi tháng 8 nhằm vào khu vực Kursk của Nga đều không thể làm thay đổi cán cân chiến lược. Trong khi đó, các cuộc tấn công bằng tên lửa và thiết bị bay không người lái của Nga đã phá hủy khả năng sản xuất điện của Ukraine, khiến người dân nước này phải đối mặt với một mùa Đông khắc nghiệt nữa sắp tới.

1739186566654.png


Cho đến nay, không bên nào dường như đủ mạnh để đạt được một bước đột phá mang tính quyết định. Cuộc tấn công của Ukraine ở Kursk dường như đã làm đảo ngược tình thế đối với quân đội Nga, vốn được xem là lực lượng không thể ngăn chặn, nhưng nó không đủ để giúp Ukraine giành được ưu thế đáng kể. Trên thực tế, nhiều tháng sau, Nga tiếp tục tiến sâu vào Ukraine, với bom lượn, pháo kích và các cuộc tấn công trực diện. Điện Kremlin tính toán rằng họ có lợi thế trong một cuộc chiến tranh tiêu hao, nhờ vào dân số đông hơn và sự phụ thuộc về mặt vật chất của Ukraine vào các nước viện trợ phương Tây. Do đó, mặc dù đã tái triển khai lực lượng để chống lại cuộc tấn công ở Kursk, nhưng Moskva tin rằng họ có thể buộc Kiev phải theo đuổi biện pháp hòa bình.

Giới lãnh đạo Ukraine nhận ra các thách thức. Họ hiểu rằng nước họ không thể cầm cự trong một cuộc chiến như vậy mà không có sự hỗ trợ kinh tế và quân sự liên tục, không giới hạn của phương Tây. Việc gói viện trợ 60 tỷ USD được Quốc hội Mỹ thông qua hồi tháng 4 bị trì hoãn là lời nhắc nhở rõ ràng về sự phụ thuộc của Ukraine và những nguy cơ mà nó mang lại. Kiev cũng hiểu rằng nếu không có phép màu, thì họ sẽ không thể giành lại quyền kiểm soát toàn bộ lãnh thổ bằng vũ lực. Tâm lý mệt mỏi vì chiến tranh đang gia tăng ở Kiev. Ở Ukraine, các tướng lĩnh cấp cao đã đi xa tới mức thảo luận nghiêm túc về các kế hoạch hòa bình giả mạo của Nga được lan truyền trên mạng xã hội. Trong các cuộc trao đổi với Nhóm khủng hoảng quốc tế (ICG), các quan chức Ukraine đã đề cập đến hiệp định đình chiến năm 1953 chấm dứt Chiến tranh Triều Tiên (nhưng không dẫn đến một hiệp ước hòa bình chính thức) như một hình mẫu khả thi để chấm dứt cuộc chiến.

Tin đồn về một thỏa thuận ngừng bắn tiềm tàng đã nổi lên từ mùa Hè qua ở Ukraine, ngay cả khi người Ukraine tránh phát biểu công khai về viễn cảnh này vì không muốn bị gắn mác là kẻ cam chịu thất bại. Một nhà quan sát ở Kiev nói với ICG: “Những người ở xa chiến trường công khai bày tỏ lòng yêu nước, nhưng lại hỏi nhỏ: ‘Khi nào cuộc chiến kết thúc?’”. Một cuộc thăm dò dư luận do tờ báo Dzerkalo Tyzhnia của Ukraine thực hiện cuối tháng 6 cho thấy 44% người dân Ukraine tin rằng đã đến lúc đàm phán hòa bình với Nga, trong khi 35% phản đối và 21% không biết nói gì. Đồng thời, 61% số người được hỏi cho biết Ukraine không nên nhượng bộ, và 66% tin vào một chiến thắng quân sự. Các cuộc phỏng vấn của ICG với các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự cho thấy họ sẵn sàng lên kế hoạch cho việc đình chiến dưới một hình thức nào đó, và điều này phản ánh tâm lý mệt mỏi chung.

Không lập luận nào trong số những lập luận trên cho thấy người Ukraine đang cân nhắc đầu hàng. Họ coi lệnh ngừng bắn là một cách để nghỉ ngơi, tái thiết và chiến đấu trở lại cho đến khi có thể buộc Nga phải xem xét lại khả năng duy trì cuộc chiến. Mùa Xuân vừa qua, Tổng thống Volodymyr Zelensky đã ký luật điều động mới để gia tăng tân binh, cho dù chưa rõ liệu luật này có giúp cung cấp đủ lực lượng tăng viện được huấn luyện tốt cho mặt trận phía Đông hay không, nhất là khi xét tới sự gia tăng nhu cầu do cuộc tấn công Kursk. Một số người Ukraine cũng coi đình chiến là cơ hội tái thiết nền chính trị trong nước. Zelensky đã có được quyền lực đủ lớn để gạt Quốc hội và các đối thủ chính trị sang một bên. Mặc dù Zelensky vẫn là chính trị gia đáng tin cậy nhất Ukraine, nhưng tỷ lệ ủng hộ ông đã sụt giảm giữa lúc có nhiều cáo buộc tham nhũng và tâm lý thất vọng trước diễn biến cuộc chiến. Những chỉ trích về sự chuẩn bị của Zelensky trước cuộc chiến xuất hiện ngày càng nhiều. Hiện tại, thiết quân luật cấm các cuộc bầu cử mới. Nhưng một thỏa thuận ngừng bắn sẽ cho phép tiếp tục tiến hành bỏ phiếu, cạnh tranh công khai và cải cách chính trị – viễn cảnh mà nhiều người Ukraine mong chờ.

1739186632636.png


Thời gian dường như đang chống lại Kiev, và điều này có lẽ là động lực thúc đẩy đàm phán sớm. Nếu Nga tiếp tục tiến về phía Đông, thì vị thế đàm phán của Ukraine có thể sẽ sụt giảm, đặc biệt là nếu sự ủng hộ của phương Tây giảm. Thế nhưng, đa số quan chức Ukraine đều tin rằng thỏa thuận tốt nhất mà họ có thể đạt được trong bối cảnh hiện tại sẽ là thảm họa cho nước này. Cho đến nay, họ thấy rằng Điện Kremlin không quan tâm đến thỏa hiệp, và Tổng thống Nga Vladimir Putin tin rằng ông có thể chiếm ưu thế về mặt quân sự hoặc ít nhất đang chờ xem liệu chính quyền tiếp theo ở Mỹ có thể mở ra cơ hội mới hay không. Những tuyên bố gần đây của Putin cho thấy trong trường hợp tốt nhất, ông sẽ chỉ đồng ý đàm phán khi Kiev đưa ra những nhượng bộ lớn và tệ nhất là khi Ukraine đầu hàng. Đa số người Ukraine hiểu rằng đối với Điện Kremlin, chiến tranh không phải là để sát nhập một khu vực nào đó của Ukraine, mà là để giữ chặt Ukraine trong phạm vi ảnh hưởng của Nga. Họ thấy không có lý do gì để đàm phán về những điều khoản này.

...............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
31,458
Động cơ
1,415,596 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Công thức hòa bình của Zelensky

Zelensky đã ngăn chặn các cuộc đàm phán với Putin nhưng vẫn thúc đẩy tầm nhìn của riêng mình về các cuộc đàm phán, và điều này phản ánh việc người dân Ukraine mong muốn hòa bình nhưng lại không sẵn sàng thỏa hiệp. Năm 2022, ông đưa ra các yêu cầu của Ukraine trong “công thức hòa bình” bao gồm 10 điểm giống như các điều khoản về sự đầu hàng của Nga hơn. Cụ thể, Zelensky đòi truy tố tội ác chiến tranh của Nga và yêu cầu nước này trả lại cho Ukraine toàn bộ lãnh thổ đã chiếm đóng, rút toàn bộ lực lượng và trả tiền bồi thường. Tháng 6 vừa qua, Ukraine và Thụy Sĩ đã tổ chức hội nghị quốc tế tại một khu nghỉ dưỡng trên núi Alp. Đây là đỉnh điểm của một loạt cuộc gặp do Kiev khởi xướng nhằm thể hiện sự ủng hộ toàn cầu đối với công thức hòa bình của Zelensky. Chánh văn phòng Tổng thống Ukraine quyền lực, Andriy Yermak, đã bỏ qua Bộ Ngoại giao Ukraine và trực tiếp điều phối các cuộc họp từ văn phòng của mình.

1739186704578.png


Hội nghị thượng đỉnh tại Thụy Sĩ đã quy tụ hơn 90 quốc gia, nhưng không thể thống nhất một liên minh toàn cầu để ủng hộ yêu cầu của Ukraine. Thông cáo cuối cùng chỉ đề cập đến 3 điểm – có thể nói là ít gây tranh cãi nhất – trong tổng số 10 điểm của Zelensky: tầm quan trọng của an toàn hạt nhân, an ninh lương thực và việc trả tự do cho các tù nhân. Các quốc gia chủ chốt không thuộc phương Tây như Ấn Độ, Saudi Arabia và Nam Phi không ký vào văn kiện này. Trung Quốc và Brazil, các quốc gia đã cùng nhau trình bày đề xuất về đàm phán hòa bình hồi tháng 5, thậm chí còn không tham dự. (Brazil chỉ cử một quan sát viên).

Trước ngày diễn ra hội nghị hòa bình tại Thụy Sĩ mà Nga không được mời tham dự, Putin cho biết Điện Kremlin sẵn sàng đàm phán ngay lập tức. Ông liệt kê 2 điều kiện đàm phán: Một là, Ukraine rút toàn bộ lực lượng khỏi 4 khu vực của nước này – Donetsk, Luhansk, Kherson và Zaporizhzhia – mà Nga tuyên bố chủ quyền nhưng chưa nắm quyền kiểm soát hoàn toàn; hai là, Ukraine từ bỏ tham vọng gia nhập Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Sau cuộc tấn công của Ukraine vào Kursk, Putin cho biết Moskva chắc chắn không đàm phán với Kiev.

Những trở ngại cũ và mới

Bất chấp tất cả những thách thức mà Ukraine phải đối mặt, các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự ở Kiev vẫn lặp lại câu nói quen thuộc rằng: “Mọi cuộc chiến tranh đều kết thúc bằng đàm phán”. Mặc dù các cuộc đàm phán hiện không khả thi, nhưng cần xem những yêu cầu mà Zelensky và Putin đưa ra là vị thế mở cho tương lai khi hai bên sẵn sàng ngồi vào bàn đàm phán và đi đến một thỏa thuận.

Cán cân trên chiến trường chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến viễn cảnh hòa bình. Thế nhưng, bất chấp thái độ dường như không nhượng bộ của cả hai bên, những điểm chính được cân nhắc đưa ra đàm phán đã trở nên rõ ràng. Trong những ngày đầu của cuộc xâm lược năm 2022, Ukraine và Nga đã nỗ lực chấm dứt tình trạng thù địch trong một loạt cuộc đàm phán ở Belarus và Istanbul. Dự thảo hiệp ước ghi ngày 15/4/2022, thời điểm hai bên tiến gần đến một thỏa thuận nhất, cho thấy những gì có thể được đưa ra đàm phán trong tương lai. Khi đó, cả hai bên đều sẵn sàng đưa ra những nhượng bộ nghiêm túc: Ukraine sẵn sàng trở thành một quốc gia trung lập vô thời hạn – tức từ bỏ hy vọng trở thành thành viên NATO – và để lại vấn đề trạng thái của Crimea cùng các vùng lãnh thổ khác của Ukraine đang bị Nga kiểm soát cho các cuộc thảo luận sau. Trong khi đó, Nga dường như sẵn sàng chấp nhận tư cách thành viên của Ukraine trong Liên minh châu Âu (EU) cũng như các cuộc đàm phán giữa Putin và Zelensky, mặc dù nhà lãnh đạo Nga từ chối gặp mặt người đồng cấp Ukraine trước cuộc tấn công năm 2022.

1739186766247.png


Cuộc đàm phán năm 2022 cũng hé lộ nhiều điểm bế tắc. Có một hố sâu ngăn cách giữa những điều hai bên sẵn sàng chấp nhận liên quan đến quy mô quân sự của Ukraine hậu xung đột. Ukraine cũng bác bỏ quan điểm rằng Nga sẽ là nước đảm bảo an ninh cho họ, vai trò có phần mâu thuẫn với vị thế nước tấn công của Nga. Dự thảo hiệp định tháng 4 cũng liệt kê Anh, Trung Quốc, Pháp và Mỹ là những nước có thể đảm bảo an ninh cho Ukraine, cho dù họ chưa được tham vấn về văn kiện này hay về vai trò triển vọng của họ. Kiev khăng khăng rằng các nước bảo lãnh phải có quyền sử dụng lực lượng quân sự để ngăn chặn bất kỳ cuộc tấn công nào trong tương lai nhằm vào Ukraine, trong khi Moskva đòi hỏi quyền phủ quyết đối với bất kỳ quyết định nào như vậy. Yêu cầu cuối cùng này dường như đã khiến Ukraine mất động lực tiếp tục đàm phán.

Kể từ các cuộc đàm phán năm 2022, lập trường của Ukraine và Nga sau những trận chiến đẫm máu với số thương vong lên tới hàng trăm nghìn người đã trở nên cứng rắn hơn. Số phận các vùng lãnh thổ bị Nga chiếm đóng hiện gây tranh cãi hơn bao giờ hết. Tuyên bố của Putin hồi tháng 9/2023 rằng Donetsk, Luhansk, Kherson và Zaporizhzhia là những khu vực không thể tách rời của Nga, cho dù quân đội Nga chỉ nắm quyền kiểm soát một phần, có thể cản trở việc đình chiến. Các cuộc thảo luận về việc hạn chế quy mô quân đội Ukraine cũng sẽ khó khăn hơn vì quân đội nước này đã trở thành lực lượng chiến đấu dày dạn kinh nghiệm nhất châu Âu. Các tội ác chiến tranh dường như ngày càng lan rộng của Nga ở các khu vực bị chiếm đóng của Ukraine, cũng như việc Nga nhắm mục tiêu vào cơ sở hạ tầng dân sự, càng khiến người Ukraine quyết tâm hơn trong việc đòi bồi thường và công lý.

.............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
31,458
Động cơ
1,415,596 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Thách thức cốt lõi

Thách thức cốt lõi đối với bất kỳ thỏa thuận nào trong tương lai là liệu thỏa thuận đó có thể tồn tại lâu dài hay không, hay chỉ tạo cơ hội cho các bên tái tập hợp lực lượng cho một đợt chiến đấu khác. Đối với Ukraine, nạn nhân của một cuộc tấn công vô cớ của Nga, khả năng ngăn chặn các cuộc tấn công của Nga trong tương lai sẽ có ý nghĩa quan trọng. Như có thể thấy từ các cuộc đàm phán trong năm 2022, Nga muốn quân đội Ukraine yếu hơn nhiều so với mức Ukraine có thể chấp nhận, nhưng Ukraine không thể chấp nhận cắt giảm lực lượng vì điều này sẽ khiến họ không có khả năng tự vệ nếu chiến sự tiếp diễn.

1739186836049.png


Vấn đề quan hệ của Ukraine với NATO cũng trở nên nghiêm trọng hơn. Nếu Kiev đã sẵn sàng cân nhắc vị trí trung lập ngay từ đầu cuộc tấn công, thì tính chất tàn bạo của cuộc chiến lại dẫn đến ý kiến đồng thuận ở Ukraine rằng chỉ có việc trở thành thành viên NATO mới có thể giúp họ ngăn chặn một cuộc tấn công khác. Tuy nhiên, Điện Kremlin coi việc Ukraine từ bỏ nguyện vọng gia nhập NATO là mục tiêu chính của cuộc chiến tranh. Đồng thời, bản thân liên minh này cũng bị chia rẽ về việc có cho phép Ukraine gia nhập hay không. Nhìn chung, các thành viên NATO đang nghiêng về phía cho phép Ukraine gia nhập nhóm dưới hình thức nào đó; trong đó, các nước như Pháp, Ba Lan và các quốc gia Baltic đã lên tiếng ủng hộ Ukraine gia nhập NATO. Mỹ và Đức đối mặt với lựa chọn này một cách thận trọng hơn. Họ cho rằng đây là gánh nặng có thể kéo họ vào cuộc xung đột trực diện với Nga, trong khi Hungary và Slovakia, với các nhà lãnh đạo đồng quan điểm với Điện Kremlin, lại thẳng thừng phản đối tư cách thành viên của Ukraine. Một số quan chức phương Tây, bao gồm cả các thành viên Chính phủ Mỹ, đề xuất rằng chỉ những khu vực của Ukraine vẫn thuộc quyền kiểm soát của Kiev mới có thể tham gia liên minh – viễn cảnh cho thấy nước này sẽ không thể sớm giành lại phần lớn lãnh thổ của mình.

Trải nghiệm của Ukraine về các thỏa thuận Minsk được ký kết sau cuộc tấn công ban đầu của Nga vào năm 2014 đã định hình suy nghĩ của nhiều quan chức Kiev và nhận thức của họ về sự cần thiết của việc có được ảnh hưởng đòn bẩy đủ để ngăn chặn Nga đưa ra các điều khoản. Một cố vấn trong Chính quyền Zelensky cho rằng công thức hòa bình của ông là giúp Ukraine giành lại quyền tự quyết thông qua việc xác định hình dung của họ về hòa bình. Theo vị cố vấn này, Kiev không muốn lặp lại trải nghiệm về các thỏa thuận Minsk có sự tham gia của cộng đồng quốc tế trong vai trò trung gian, mà trong đó Ukraine không có lựa chọn nào khác ngoài việc đặt bút ký vào thỏa thuận vì thất thế trên chiến trường.

Ukraine nhận ra rằng thách thức chính là việc Kiev không ở vị thế có thể định hình bất kỳ điều khoản nào của thỏa thuận. Hội nghị ở Thụy Sĩ, vốn là nỗ lực nhằm củng cố sự ủng hộ của thế giới đối với tầm nhìn về hòa bình của Ukraine hơn là đàm phán, hầu hết đã thất bại trong việc này. Kể từ đó, Chính quyền Zelensky đã hoãn kế hoạch tổ chức hội nghị thượng đỉnh tiếp theo vào tháng 11 có sự tham dự của Nga. Tuy nhiên, rất ít người tin rằng một cuộc họp như vậy có thể diễn ra, chủ yếu là vì Nga không muốn tham dự. Một nhà ngoại giao ở Kiev thậm chí còn đi xa tới mức gọi sáng kiến của Zelensky là “dự án phù phiếm”. Một người khác lại mô tả đây là hành động cổ vũ Ukraine. Tuy nhiên, ngay cả sau cuộc tấn công vào Kursk, Chính phủ Ukraine vẫn khăng khăng rằng hội nghị thượng đỉnh tiếp theo vẫn đang trong quá trình chuẩn bị.

Các nhà lãnh đạo khác, với tầm ảnh hưởng và mức độ nghiêm túc khác nhau, đã đưa ra kế hoạch hòa bình của riêng mình. Tháng 7 vừa qua, Thủ tướng Hungary Viktor Orbán, người chỉ trích gay gắt nhất châu Âu về việc viện trợ quân sự cho Ukraine, đã bắt tay thực hiện điều mà ông gọi là “nhiệm vụ hòa bình” – trước tiên là tới thăm Zelensky và sau đó là gặp mặt Putin, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (Xi Jinping) và Donald Trump, khi đó là ứng cử viên tổng thống đảng Cộng hòa. Sau khi EU tách mình khỏi chính sách ngoại giao con thoi tự do của Orbán, nhà lãnh đạo Hungary đã nói rằng các cuộc đàm phán là bất khả thi khi không có sự can thiệp đáng kể từ bên ngoài. Ông cho biết sau khi đắc cử tổng thống Mỹ, Trump sẵn sàng lập tức đóng vai trò trung gian hòa bình dựa trên các kế hoạch chi tiết và có căn cứ. Orbán sau đó thể hiện sự ủng hộ đối với đề xuất 6 điểm của Trung Quốc và Brazil. Tại Đại hội đồng Liên hợp quốc hồi tháng 9, Zelensky đã bác bỏ đề xuất này, vốn không đề cập đến chủ quyền hay sự toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine, ngay cả khi Trung Quốc và Brazil đã ra thông cáo chung với 11 quốc gia khác, kêu gọi giải pháp toàn diện và lâu dài cho cuộc xung đột.

1739186875487.png


Việc Trump quay trở lại Nhà Trắng có tác động rất lớn. Cả Kiev và Moskva đều cho rằng cuộc bầu cử tổng thống Mỹ có ý nghĩa quan trọng đối với quỹ đạo chiến tranh. Zelensky diễn giải cuộc tấn công vào Kursk là một phần trong kế hoạch chiến thắng mà ông đã giải thích với Tổng thống Mỹ Joe Biden cũng như Trump và Kamala Harris – trong vai trò ứng cử viên tổng thống – trong chuyến thăm Mỹ hồi tháng 9. Một số quan chức Ukraine từng nhận định rằng việc Trump tái đắc cử tổng thống sẽ là thảm họa vì ông đã công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với Putin và sự khinh thường đối với Ukraine trong nhiệm kỳ đầu. Tuy nhiên, các quan chức khác lại cho rằng việc Trump trở lại Nhà Trắng mang lại cơ hội phá vỡ thế bế tắc với Nga – có lẽ vì họ hy vọng một thỏa thuận do Mỹ đặt ra có thể giải phóng họ khỏi trách nhiệm trực tiếp và đưa Mỹ trở thành bên đảm bảo thành công cho họ.

Mặc dù Trump có những tuyên bố mang tính thù địch về Ukraine và hứa sẽ buộc Kiev phải ký thỏa thuận với Moskva, nhưng vẫn chưa rõ ông sẽ thực hiện lời hứa như thế nào. Tháng 6 vừa qua, 2 cố vấn của Trump đã trình bày kế hoạch mà trong đó Washington sẽ đưa các bên tham chiến vào bàn đàm phán bằng cách đe dọa Putin rằng Mỹ sẽ tăng viện trợ quân sự cho Ukraine, trong khi đó lại nói với Zelensky rằng Mỹ sẽ không viện trợ nếu ông từ chối đàm phán. Các yếu tố then chốt của kế hoạch này đều rất quen thuộc: ban hành lệnh ngừng bắn trên các mặt trận và trì hoãn việc kết nạp Ukraine vào NATO. Nhóm khủng hoảng quốc tế đã nghe được các ý kiến tương tự từ các nhà phân tích Ukraine. Chưa rõ kế hoạch này sẽ giải quyết vấn đề khó xử then chốt là đảm bảo thỏa thuận ngừng bắn tồn tại lâu dài và bảo vệ Ukraine khỏi một cuộc tấn công khác của Nga như thế nào. Trump chưa công khai bày tỏ sự ủng hộ đối với cách tiếp cận như vậy. Trump được cho là sẽ khởi động một giải pháp hòa bình trước khi nhậm chức vào tháng 1/2025.


...............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
31,458
Động cơ
1,415,596 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Hướng tới kế hoạch B cho hòa bình

Mặc dù thời gian có lẽ đứng về phía Nga, nhưng Ukraine vẫn có một số lợi thế. Những bước tiến của Nga trong năm 2024 là rất hạn chế, đồng thời đặc biệt tốn kém về mặt nhân lực và thiết bị. Hạm đội Biển Đen của Nga không còn đóng vai trò quyết định trong cuộc chiến. Ukraine tiếp tục tấn công các mục tiêu quân sự và kinh tế nằm sâu trong lãnh thổ Nga. Cuộc xâm nhập qua biên giới vào Kursk đã cho thấy sự mỏng manh của tuyến phòng thủ và lỗ hổng trong mạng lưới tình báo quân sự của Nga. Nếu các nỗ lực điều động quân của Kiev bắt đầu có hiệu quả và các quốc gia phương Tây tiếp tục cung cấp viện trợ quân sự như đã hứa, chẳng hạn như bổ sung máy bay chiến đấu F-16 vào kho vũ khí của Ukraine, thì khả năng ngăn chặn của Kiev trong việc cản trở bước tiến tiếp theo của Moskva cuối cùng có thể khiến Nga phải tìm cách thỏa hiệp.

1739186976156.png


Mặc dù các cuộc đàm phán hòa bình thực sự dường như còn xa vời, nhưng Kiev có thể tuyên bố rằng họ sẵn sàng đàm phán với Moskva mà không đề cập đến các điều kiện tiên quyết. Một tuyên bố như vậy có thể là cách để vượt qua khỏi giới hạn là các lập trường theo chủ nghĩa tối đa mà hai bên đưa ra nhưng đều biết rằng sẽ bị gạt bỏ trong các cuộc đàm phán thực sự. Việc Ukraine đưa ra lời mời đàm phán sẽ buộc Nga có trách nhiệm phải phản hồi, trong khi Nga một mực khẳng định sẵn sàng tham gia đàm phán trong khi vẫn đòi hỏi những nhượng bộ đáng kể như điều kiện tiên quyết. Quan trọng là điều này sẽ báo hiệu với phần còn lại thế giới thấy rằng Ukraine đang theo đuổi biện pháp ngoại giao và có thể mang lại cho các quốc gia không thuộc phương Tây thêm lý do để thúc đẩy chấm dứt chiến tranh mà không khiến Ukraine bị yếu thế trước các bước tiến hơn nữa của Nga.

Cho dù đã cung cấp vũ khí cho Ukraine, nhưng các quốc gia phương Tây cũng có thể làm nhiều việc hơn nữa để đặt nền móng cho các cuộc đàm phán. Họ nên ủng hộ đề xuất của Ukraine là gặp mặt các quan chức Nga mà không cần có các điều kiện tiên quyết. Các nhà ngoại giao phương Tây cũng có thể âm thầm thăm dò các kênh hiện có với Moskva và giúp thúc đẩy các bên trung gian tiềm tàng để đặt nền móng cho các cuộc đàm phán. Điều quan trọng là các nước phương Tây có thể làm rõ rằng nếu đạt được tiến triển thì các cuộc đàm phán giữa Ukraine và Nga có thể được liên kết với các cuộc đàm phán về các chủ đề khác có liên quan mà Điện Kremlin quan tâm – chủ yếu là an ninh châu Âu, bao gồm cả việc bố trí quân đội và vũ khí của NATO.

Nếu Nga sẵn sàng đàm phán, thì Ukraine và các đối tác của nước này sẽ cần một kế hoạch để giảm thiểu phí tổn từ những nhượng bộ không thể tránh khỏi, trừ khi Ukraine bất ngờ lấy lại vận may trên chiến trường. Ví dụ, một thỏa thuận thông qua đàm phán giữa hai bên có thể bao gồm cả vấn đề lãnh thổ. Ukraine dường như không thể tránh được việc sẽ phải chấp nhận ít nhất là mất đi những khu vực đã bị Nga chiếm giữ – như đã xảy ra vào mùa Xuân năm 2022. Bất kỳ thỏa thuận nhượng lãnh thổ nào (trên thực tế không phải về mặt pháp lý) cũng có thể dễ chấp nhận hơn nếu nó cho phép người dân di chuyển tới vùng lãnh thổ do Ukraine nắm giữ nếu họ chọn lựa như vậy, thay vì phải sống dưới sự chiếm đóng của Nga. Trên thực tế, cụm từ “người dân, không phải lãnh thổ” được nhắc tới ngày càng nhiều ở Kiev. Cách rõ ràng nhất để xác định ranh giới phân chia là dọc theo chiến tuyến vào thời điểm ngừng bắn.

Nếu các cuộc đàm phán vào mùa Xuân năm 2022 là tiền lệ, thì thách thức chính đối với các cuộc đàm phán sẽ nằm ở tranh chấp về quân đội Ukraine và hợp tác an ninh của nước này với các quốc gia phương Tây, bao gồm khả năng nước này trở thành thành viên NATO. Nếu Ukraine không thể tự vệ hay ngăn chặn các bước tiến tiếp theo của Nga, thì bất kỳ thỏa thuận nào cũng khó có thể kéo dài. Ngoài Ukraine, các nước phương Tây khác coi bất kỳ thỏa thuận nào khiến Ukraine mất khả năng phòng thủ là mối đe dọa đối với an ninh của toàn bộ lục địa và tin rằng nếu không có động thái răn đe mạnh mẽ, thì chủ nghĩa bành trướng của Moskva sẽ khó mà dừng lại ở các khu vực của Ukraine bị Nga chiếm giữ.

1739187014244.png


Tham vọng của Ukraine về việc gia nhập NATO chắc chắn sẽ là một điểm gây tranh cãi – có lẽ còn gay gắt hơn so với trong các đàm phán mùa Xuân năm 2022. Đối với Nga, khả năng Ukraine được kết nạp vào NATO vẫn là một lằn ranh đỏ rõ ràng, và Ukraine dường như đã sẵn sàng tuyên bố lập trường trung lập trong các cuộc đàm phán trước đó. Thế nhưng, kể từ đó, lập trường của Ukraine đã trở nên cứng rắn hơn, giống như các đối tác phương Tây, và nước này sẽ không muốn từ bỏ mục tiêu này. Mặc dù NATO khó có thể chấp nhận tư cách thành viên của toàn bộ Ukraine trong khi nước này vẫn đang trong cuộc chiến với Nga, nhưng Mỹ và các đồng minh đang ngày càng cân nhắc các kịch bản có sự tham gia của một phần nước này.

.............
 
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
31,458
Động cơ
1,415,596 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
(Tiếp)

Ngay cả các kịch bản này cũng khó được Nga chấp nhận, và cũng tồn tại các thách thức thực tế. Nếu không có một mặt trận được phân định rõ ràng, thì việc NATO kết nạp một phần Ukraine – thường được gọi là mô hình Tây Đức – sẽ khó thành hiện thực. Điều này sẽ chỉ xảy ra thông qua một lệnh ngừng bắn và thỏa thuận với Moskva về vị trí đường ranh giới. Tuy nhiên, Nga – hầu như không có dấu hiệu thỏa hiệp trong bất kỳ trường hợp nào – sẽ càng ít có động lực hơn để giải quyết vấn đề phân định nếu phần còn lại của Ukraine cuối cùng vẫn có được tư cách thành viên NATO. Ngoài ra, ngay cả khi Ukraine vượt qua được rào cản của Hungary và Slovakia, thì việc nước này trở thành thành viên NATO cũng khó có thể được Thượng viện Mỹ thông qua. Các cường quốc phương Tây cuối cùng có thể hứa hẹn kết nạp Ukraine vào NATO dưới dạng một lời mời, nhưng vì Ukraine vốn đã được mời – và điều này được đề cập đến lần đầu tiên tại Hội nghị thượng đỉnh NATO tại Bucharest vào năm 2008 – nên không rõ việc nhắc lại cam kết đó nhằm mục đích gì.

1739187070882.png


Quy mô và vũ khí của quân đội Ukraine tương lai có thể sẽ là một trong những điểm gây tranh cãi gay gắt nhất, khi xét đến mục tiêu chiến tranh ban đầu của Putin là “phi quân sự hóa” Ukraine và những bất đồng đáng chú ý trong các cuộc đàm phán mùa Xuân năm 2022. Ngay cả khi có các đảm bảo an ninh, Ukraine vẫn muốn – và hầu hết các đối tác phương Tây vẫn cần – một đội quân Ukraine có động lực và được trang bị tốt như một phần của hệ thống phòng thủ. Một lựa chọn khả thi là Ukraine vẫn có quyền tập hợp một lực lượng dự bị có năng lực, thay vì duy trì một đội quân thường trực hùng hậu, để nhấn mạnh khả năng phòng thủ của mình. Hợp tác quân sự với các nước phương Tây cũng sẽ gây tranh cãi. Ukraine đã ký hơn 20 thỏa thuận an ninh song phương và có thể sử dụng chúng như quân bài mặc cả vì các thỏa thuận này phần lớn chỉ mang tính biểu tượng. Trong khi khẳng định quyền tiếp tục hợp tác với Ukraine, các nước phương Tây có thể bỏ qua những điều mà Nga tuyên bố rằng họ lo ngại – và không một quốc gia phương Tây nào thực sự đề xuất – chẳng hạn như các căn cứ thường trực trên lãnh thổ Ukraine.

Ukraine có thể đưa ra các đề xuất hấp dẫn đối với Nga mà gây phí tổn tương đối thấp cho Ukraine nhưng sẽ cho phép Nga coi thỏa thuận này là một thành công. Ví dụ, Ukraine có thể đề nghị dành cho tiếng Nga một vị thế chính thức theo chuẩn mực ngôn ngữ thiểu số của các nước châu Âu. Kiev cũng có thể đồng ý thông thông qua luật hạn chế hơn nữa các biểu tượng và phát ngôn vốn bị cho là bất hợp pháp của Đức quốc xã. Trên thực tế, chỉ có một số ít người ủng hộ Đức quốc xã ở Ukraine, nhưng những động thái như vậy sẽ giúp Putin có thể tuyên bố quốc gia này đã được “phi phát xít hóa”. Từ đó, hệ thống tư pháp quốc tế có thể truy tố các tội phạm chiến tranh người Nga, ngay cả khi các tòa án của Ukraine tiếp tục thu thập bằng chứng và tìm cách chứng minh thiệt hại của các nạn nhân.

Cuối cùng, Ukraine và các nước ủng hộ họ cần lên kế hoạch cho tương lai chính trị của Ukraine. Bất kỳ thỏa thuận nào với Nga cũng có thể dẫn đến tình trạng tố cáo lẫn nhau. Sự trở lại của nền chính trị gây tranh cãi và tự do báo chí sẽ khiến tâm lý oán giận chuyển từ trạng thái âm ỉ sang công khai. Bất kỳ sự nhượng bộ nào với Putin cũng sẽ kích động làn sóng oán giận mới. Các cựu chiến binh, tình nguyện viên và gia đình người thiệt mạng có thể đòi trả thù, do đó làm tăng nguy cơ bất ổn và thậm chí là bạo lực. Kiev phải tìm sẵn các cách để giải quyết những mâu thuẫn gay gắt này một cách minh bạch và toàn diện nhất.

Nhìn về phía trước

Hiện tại, triển vọng đàm phán có vẻ mong manh, ngay cả khi Nga và Ukraine quay trở lại bàn đàm phán, và việc giải quyết các điểm bế tắc năm 2022 vẫn sẽ là một thách thức. Điện Kremlin tin rằng họ đang chiếm ưu thế và không có động lực để đàm phán – ít nhất cho đến khi định hướng chính sách của Mỹ sau cuộc bầu cử tháng 11 trở nên rõ ràng. Kiev cũng thấy không đáng để thử, khi xét tới các điều kiện tiên quyết mà Nga đưa ra. Ngay cả khi các tính toán thay đổi, thì con đường dẫn đến một thỏa thuận đình chiến bền vững nhằm chấm dứt cuộc chiến vẫn chưa rõ ràng. Cho dù Ukraine từ bỏ gia nhập NATO, điều mà họ dường như đã sẵn sàng thực hiện vào năm 2022, thì Ukraine vẫn cần đến sự răn đe, ít nhất dưới dạng một quân đội hùng mạnh, để cản trở các bước tiến tiếp theo của Nga. Giải pháp thay thế sẽ khiến Ukraine mất đi khả năng phòng thủ, chỉ có thể dựa vào lập trường trung lập đã tuyên bố để tự vệ. Ukraine và hầu hết các nước phương Tây sẽ phản đối một thỏa thuận như vậy. Nó không chỉ mang lại nhiều rủi ro cho Ukraine, mà còn có thể làm gia tăng tình trạng bất ổn ở châu Âu. Thỏa thuận như vậy sẽ gây sức ép rất lớn buộc Mỹ phải can thiệp nếu Nga không tuân thủ các điều khoản và tiếp tục tiến xa hơn.

1739187098157.png


Tuy nhiên, Ukraine và các nước ủng hộ họ, đáng chú ý nhất là Mỹ, có thể và nên có động thái chuẩn bị cho đàm phán. Điều này vẫn có thể được thực hiện mà không làm suy yếu vị thế đàm phán của Ukraine và trên thực tế có thể đóng vai trò quan trọng trong việc củng cố lập trường của nước này. Thứ nhất, mặc dù Nga nhiều khả năng sẽ phản đối đề xuất đàm phán của Ukraine mà không đề cập đến các điều kiện tiên quyết, nhưng Ukraine có thể để ngỏ đề xuất và sẽ không gặp bất lợi khi làm vậy. Thứ hai, dù ai tiếp quản Nhà Trắng, thì Mỹ vẫn sẽ là nước đi đầu, cùng Ukraine, trong việc định hình chiến lược cho phép các nước ủng hộ củng cố một cách hiệu quả vị thế đàm phán của Ukraine, ngay cả khi tình hình trên chiến trường không được cải thiện. Điều này sẽ đòi hỏi nhiều cuộc trao đổi thẳng thắn hơn giữa Ukraine và các nước châu Âu ủng hộ họ để đạt được sự đồng thuận về các vấn đề cốt lõi trước bất kỳ cuộc đàm phán nào với Nga. Những cuộc trao đổi này sẽ phải diễn ra một cách kín đáo, vì chúng có thể gây căng thẳng cho liên minh và không có gì đảm bảo rằng Nga sẽ chấp nhận bất kỳ đề xuất nào được đưa ra. Nhưng nếu không có các cuộc trao đổi này, thì một thỏa thuận bền vững thậm chí còn ít khả thi hơn.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top