[Funland] Hồi ký (Phóng tác) về đường ống xăng dầu Trường Sơn.

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Chủ nhiệm Đinh Đức Thiện vốn là người lãnh đạo Khu gang thép Thái Nguyên từ ngày đầu xây dựng, nên ông hiểu thực chất năng lực của nền công nghiệp Việt Nam.

- Bảy mươi lăm cân! Lính mình nhỏ bé, không thể vác cơ động được, nhưng có vẫn hơn không. Các cậu cho sản xuất gấp, thay tất cả các tuyến đã có trên miền Bắc, đưa ống Liên Xô vào 559. Tôi sẽ báo cáo chính phủ ráo riết đề nghị ban viện trợ. Thế còn máy bơm thì sao?
- Báo cáo. Các kỹ sư của quân đội cùng các giáo sư, thày giáo Đại học bách khoa đang nghiên cứu chế thử. Việc tạo khuôn đúc vô cùng khó khăn, có lẽ có bí quyết công nghệ mà ta chưa nắm được. Rất may ta có một đôi tay vàng – anh Nguyễn Văn Sên – Bằng phương pháp thủ công với tay nghề có lẽ là số một ở miền Bắc, đã tạo hình thành công khuôn đúc. Máy bơm Trường Sơn săp đến thành công.

- Tôt. Bằng mọi giá phải làm cho được bơm Trường sơn và các phụ kiện. Dù chưa hoàn chỉnh, ta nhất định sẽ có đường ống do Việt Nam sản xuất. Chú ý những nơi ác liệt, địa hình hiểm trở thì phải ưu tiên dùng ống viện trợ.

Ngày hôm sau, cục trưởng đưa Lê Trọng đi xem tận nơi một số cơ sở sản xuất ống, phụ kiện. Lê Trọng cố nhấc thử một chiếc ống thép đen dài sáu mét. Quả thật, khi leo dốc, ngay cả thanh niên cũng phải hai người mới vác nổi. những ống này không thể lắp được ở những nơi cheo leo như khu vực lèn đá 050. Tuy nhiên trên địa hình bằng phẳ ng thì có thể lắp ống này được. Lê Trọng đề nghị cục trưởng cho chuyển ống vào để nối thông tuyến từ Na Tăng đi bản Say, bản Vát.


Từ sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân, nhịp độ làm việc của Miền Bắc càng khẩn trương hơn theo tinh thần: “Một người làm việc bằng hai” mà Bác Hồ kêu gọi. Ngay khi thiết kế ống và phụ kiện được duyệt, tất cả các nhà máy có khả năng về công nghệ đều sản xuất hết công suất để chuyển cho bộ đội. Những chiếc ống thép đen nặng hơn 75 kg đã theo vai các chàng trai cô gái vượt qua bao núi đèo, sông suối. Những cô gái đường ống thon mảnh chỉ sau vài tháng vác ống đã chai sạm nắng cháy, cả thân hình như bị đè xuống, bàn chân bè ra, vai u và nét thon thả nhanh chóng mất đi. Vậy mà không mấy người quan tâm đến điều ấy, họ vô tư, sung sướng khi thấy tuyến ống cứ nối dài nư một con chăn khổng lồ bò dần vào phía Nam.

Vì đường ống dẫn dầu là một phương thức vận tải cần sự chỉ huy liên hiệp, dây chuyền và đồng nhất. Bộ Quốc Phòng đã quyết định thành lập một đơn vị đường ống cấp trung đoàn đầu tiên, gọi là Binh Trạm 691. Binh trạm gồm 4 tiểu đoàn, điểm đầu là cảng Vinh và điểm cuối sẽ là bản Vát trên đất Lào thuộc tuyến vận 559. Lê Trọng được bổ nhiệm Binh trạm trưởng. Hầu hết những cán bộ của công tường 81 được bổ nhiệm vào các vị trí của binh trạm 691. Đó là sự đánh giá xứng đáng của cấp trên với những gì bộ đội đường ống đã làm được trong một năm ác liệt, nhất là trên tuyến X42 và tuyến từ cổng trời đến Na Tăng.

Lễ trao quân kỳ quyết thắng cho Binh trạm được tổ chức trang nghiêm nhưng giản dị. Trong không khí trang nghiêm ấy, Lê Trọng thay mặt cán bộ chiến sỹ toàn Binh trạm hứa sẽ quyết tâm vượt qua mọi gian khổ hy sinh, quyết đưa xăng đến các hướng chiến trường, đảm bảo thắng lợi cho vận tải và chiến đấu. Chiến tranh không bao giờ chấp nhận những từ hô hào sáo rỗng. Mỗi lời hứa đều được thực hiện bằng mồ hôi và máu. Khi đọc lời hứa ấy, vụt qua trong óc ông là hình ảnh người lính bấm chân trên vách đá tai mèo, vác ống bật cả đệm vai, là những người ngã xuống trong bom đạn, là những ngôi mộ của những người trai trẻ dọc theo tuyến ống.


Tháng ba trời nồm, cây cối đã đâm chồi nảy lộc. Vậy là đã hơn một năm kể từ trận tổng tiến công Mậu Thân, cũng tròn một năm bộ đội ta biết đến tuyến ống dẫn dầu giã chiến. Từ những ngỡ ngàng ban đầu với van, T , cút… nay bộ đội tuyến ống đã đi được một bước dài. Tuyến ống của binh trạm 691 đã nối thông từ ga Vinh trên bờ biển Việt Nam đến tận Bản Say trên đất Lào. Lê Trọng trực tiếp kiểm tra những đoạn xung yếu nhất. Đó là nơi tuyến ống đi qua địa hình hiểm trở, những chỗ ống nằm dưới vực sâu. Phần ống do Việt Nam sản xuất có khi phải thử đi thử lại nhiều lần vì chất lượng ngoàm và doăng không đồng nhất, chịu áp suất kém hơn khá nhiều so với doăng ngoàm viện trợ.

Lần đầu tiên vận hành liên tuyến trên chiều dài của 4 tiểu đoàn. Với phương thức này, xăng từ kho đầu nguồn chuyển qua các máy bơm đến tận kho cuối. Nhưng nếu tuyến của một tiểu đoàn bị sự cố hoặc bị địch đánh phá, thì lập tức sẽ chuyển sang phương thức phân đoạn, nghĩa là mỗi tiểu đoàn vận hành từ kho đầu của tiểu đoàn mình đến kho đầu của tiểu đoàn bạn theo sự thống nhất từ Sở chỉ huy vận hành cua Binh trạm. Việc thay đổi linh hoạt phương thức vận hành liên tuyến và phân đoạn chính là sự sáng tạo về chiến thuật để đối phó với sự đánh phá ác liệt của không lực Hoa Kỳ.

Sở chỉ huy vận hành đặt tại cổng trời. Trọng hiểu rất rõ rằng việc chỉ đạo khắc phục sự cố trên tuyến lửa Trường Sơn mang tính chất thành bại cho đợt vận hành này. Lệnh vận hành đã được phát ra. Trạm bơm đầu nguồn báo cáo bắt đầu nổ máy. Đường dây thông tin vận hành hoàn toàn yên tĩnh, vài phút lại có tiếng báo số đo áp suất của đồng hồ ở các cửa van và các trạm bơm. Các kỹ sư trong sở chỉ huy vận hành ngồi trước sơ đồ tuyến, chăm chú nghe và nghi chép thông số áp suất, vòng quay của các máy bơm.Trạm bơm kho Na Tăng báo xăng đã đi qua. Lê Trọng hồi hộp theo dõi áp suất của trạm bơm này đang tăng dần. Theo số đo , áp suất xăng đã vượt qua khu vực bản Lắc, đang trên đường đi tới bản Say. Bỗng tiếng đại đội trưởng Chiến nói giật giọng: Bom bi khu vực tuyến Nam ngầm bản Lắc. Đề nghị cho dừng bơm. Trọng lập tức ra lệnh dừng máy bơm ở kho Na Tăng. Dòng xăng không đi qua trạm bơm, mà được bẻ rẽ vào các bể trong kho. Chiến thuật vận hành kết hợp liên tuyến và phân đoạn thật lợi hại.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Chừng một giờ sau, đại đội trưởng Chiến báo cáo, chỉ một số ống bị trúng bom bi, anh em đã lấy que tre đóng vào các lỗ thủng, dùng dây cao su cố định để que tre không bật ra. Đề nghị bơm tiếp. Dòng xăng chảy vào bể kho Na Tăng lại được hướng theo tuyến ống, qua trạm bơm vào bản Say.

Khi trên đường dây vang lên tiếng reo của Thục: Xăng đã vào kho bản Say, cả Sở chỉ huy vận hành như vỡ òa trong niềm vui sướng. Vậy là dòng xăng hôm nay đã liên tục chảy trên suốt tuyến của binh trạm 691 với chiều dài 325 cây số từ cảng Vinh trên đất Nghệ An vượt đỉnh Trường Sơn qua các trọng điểm 050 , qua Na Tăng và ngầm bản Lắc, đến tận kho bản Say. Đây có thể coi là kỳ tích lắm chứ.



Một buổi chiều, khi tan lớp, Khanh nhận được thư của Thục.
Khanh ơi. Anh viết cho em lá thư này trong một hang đá ở Tây Trường Sơn. Thế là từ đây về đến nơi em có thêm dãy Trường Sơn cách trở. Một tháng nay đơn vị phải thường xuyên đấu trí với máy bay Mỹ. Mỗi ngày, dù ra tuyến ác liệt, vất vả bao nhiêu, khi ngả lưng xuống anh vẫn không sao nguôi được nỗi nhớ về Hà Nội, về xứ Đoài, nhớ những người thân thiết. Không biết đến bao giờ anh lại được ra bến xe thay anh Sơn đón em như tối thứ bảy ấy. Em biết không, hồi còn học ở trường Sỹ quan, những buổi chiều cuối tuần em từ Hà Nội về là những ngày mong đợi và vui nhất đối với anh. Hôm nào em xuống xe trời cũng đã sẩm tối. Đường thì vắng vẻ, em đi một mình anh chẳng yên tâm. Anh rất muốn xin phép bố mẹ em để được đi đón em, nhưng anh không dám. Thế là chiều thứ bảy nào anh cũng ra bến xe chờ em. Rồi anh cứ lặng lẽ đi cùng em suốt đoạn đường từ bến xe về tới nhà, cách sau em một quãng xa, cho đến khi bóng em khuất hẳn sau hàng Dâm bụt vào cổng nhà, anh mới yên tâm quay về. Anh không định nói điều này với em. Nhưng cứ mỗi chiều thứ bảy đến, hình dung em đang một mình trên đoạn đường vắng ấy, anh lại chẳng hề thấy an lòng. Nếu như có một ai đó được em yêu mến và được em cho phép đưa đón, chắc hẳn lòng anh sẽ buồn, nhưng anh sẽ không còn phải lo lắng nữa. Có thể khi có người như thế, niềm vui trong em tràn đầy, em sẽ không còn tâm trí để nghĩ và nhớ về anh. Anh buồn, nhưng sẽ không giận, trách em đâu. Nếu em mãi mãi chỉ có thể coi anh như một người anh, thì anh thực sự cầu mong trên đời này có một người con trai che chở được cho em và mang đến cho em tình yêu và hạnh phúc.
Xin em luôn bảo trọng em nhé.
Anh Thục

Khanh đặt lá thư xuống, miên man nhìn ra con đường với dãy bằng lăng đang đâm những chồi lá đầu tiên lúc giao mùa. Anh Thục ơi. Em biết ơn anh nhiều lắm! Biết anh yêu em, em chưa kịp tự hỏi lòng mình về tình cảm dành cho anh thì anh đã đi xa rồi. Anh đâu biết rằng từ sau khi anh rời khỏi căn phòng, mang theo lời khước từ của em buổi tói hôm đó, em đã ân hận tới mức nào. Em đã đứng lặng bên thểm dõi nhìn theo bóng dáng quen thuộc của anh nhoà dần trong ánh đèn đường, bỗng cảm thấy se thắt trong lòng, cảm giác nghẹn ngào thương mến cứ trào dâng khiến em không sao cầm lòng được. Thời gian qua em đã nghĩ và nhớ về anh rất nhiều, mường tượng hình ảnh anh trên mỗi chặng đường. Rồi em lại hình dung, trở về với bao kỷ niệm vê anh. Đấy phải chăng chỉ là tình cảm của một người em gái? Anh luôn tốt với em là thế, cao thượng và bao dung là thế! Có người con trai nào trên đời này hiểu và yêu em được như anh không? Em thật không xứng đáng với tình cảm của anh đã dành cho em.
Có một điều chính Khanh cũng không tự lý giải được, đó là từ sau khi nhận được sự bày tỏ tình cảm của Thục, sau khi giãi bày cùng anh những cảm xúc thực của lòng mình về người bạn trai tên là Vịnh, giống như thông điệp về sự từ chối tình cảm dành cho Thục, Khanh thấy hình ảnh của Vịnh bỗng trở nên mờ nhạt và xa xăm. Ngày mỗi ngày trôi qua, nỗi nhớ, niềm mong mỏi đến khắc khoải được nhận những lá thư dường như không còn hướng vê Vịnh nữa. Càng ngày Khanh thấy mình càng nghĩ và nhớ về Thục nhiều hơn. Nghe tin tức về chiến trường, hình dung anh ở những nơi bom rơi đạn nổ, gian khổ, ác liệt, Khanh thấy lòng như có lửa đốt, bồn chồn khắc khoải không yên. Phải chăng tình cảm của Khanh dành cho anh dã không còn là tình cảm của một người em gái?
Sau một hồi tư lự, Khanh cầm bút viết:

Anh Thục ơi.
Vậy là qua bao ngày khắc khoải, cuối cùng, em đã nhận được thư anh. Anh không biết rằng chính cái đêm sau khi anh chia tay em ở ký túc xá, nhìn bóng anh nhòa vào ánh đèn đường, em bỗng cảm thấy mình vô cùng có lỗi. Một người con trai gắn với mình từ thuở thiếu thời với bao kỷ niệm đẹp, một người con trai vượt lên mọi khắc nghiệt của số phận để đứng vững trong cuộc đời, một người con trai dám sống vì nghĩa lớn và đã mang đến cho em một tình yêu vị tha và cao cả. Vậy mà trước khi dấn thân vào nơi lửa đạn, phải mang theo lời chối từ tình yêu của một cô gái! Em vô cùng ân hận và tự trách mình. Đọc thư anh, em càng nhận ra rằng em chưa hiểu hết tình yêu của anh. Em vụng dại, nông cạn quá, chẳng thể nào sánh được với tình cảm cao quý và thành thiện mà anh đã dành cho em.
Anh Thục ơi. Ngay từ chiều hôm đó, nỗi nhớ và nỗi bồn chồn cứ đầy lên trong em. Những nẻo đường anh đi đầy bom đạn, không biết rồi nỗi buồn em mang đến cho anh rồi có nguôi ngoai mỗi khi anh phải dấn thân vào chốn hiểm nguy? Em nhớ anh mỗi khi chiều xuống, em lo đến thắt lòng khi đọc những dòng tin về những trận đánh phá hủy diệt của máy bay địch trên tuyến lửa Trường Sơn. Em đã nhận ra rằng đó không chỉ còn là nỗi nhớ của cô em gái với một người anh. Em mong có một ngày gần nhất được gặp anh, hoặc khi được đón anh từ chiến trường trở về, em sẽ được đặt bàn tay mình trong bàn tay rắn rỏi ấm áp của anh và em sẽ nói với anh mọi điều.
Mọi việc ở nhà vẫn bình thường anh ạ. Bố mẹ em vẫn khoẻ. Anh Sơn em đang phục vụ tại quân y viện của Quân khu. Thỉnh thoảng anh ấy ghé về thăm nhà. Lần nào anh ấy cũng hỏi thăm anh. Còn em đã tốt nghiệp ra trường rồi. Vì em tốt nghiệp loại giỏi nên được phân công về dạy học ở trường Cao đẳng ở Hà Nội. Ở trong ấy chiến trường gian khổ, ác liệt, anh nhớ bảo trọng anh nhé!
Chúc anh luôn mạnh khỏe và bình an.
Nhớ anh nhiều lắm
Em Khanh

Khanh đinh ninh lá thư này sẽ tới với Thục và anh sẽ đón nhận nó một cách chân thành, tha thiết như nỗi lòng cô lúc này. Nhưng cô không biết rằng chiếc xe chở thư đã bị đánh cháy giữa đường, và nỗi mong của chàng trai vẫn khắc khoải ngày đêm. Thục không hề biết rằng có một lá thư như thế ở đầu kia nỗi nhớ đang trên đường vào với anh, và anh sẽ có một niềm vui lớn tới mức nào nếu không phải vì muôn vàn trắc trở của Trường Sơn.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Đúng như nhận định của Chủ nhiệm Đinh Đức Thiện. Ngay sáng mồng hai tết, những trận bom B52 bắt đầu chà đi xát lại trọng điểm 050. Tuy nhiên, do địa hình dốc, khi ngừng vận hành, hầu hết xăng theo độ dốc của ống chảy vào kho. Phần xăng còn lại trên tuyến ống rất it, lại được cách ly nhau bằng những van chặn trên tuyến, nên khi bom đánh, thiệt hại được hạn chế rất nhiều. Việc vận hành chỉ trôi chảy được vài hôm. Cho đến một lần, tuyến đang vận hành thì một quả bom rơi trúng tuyến đoạn giao với đường ô tô gần kho Na Tăng do máy bay đuổi đánh mấy chiếc xe. Đám cháy bùng lên dữ dội. Thế là đủ mọi loại bom đạn từ trên trời đánh tan nát khu vực ấy. Rất may đó là khu vực đường bằng, lại không có sông suối chia cắt, không gắn với trọng điểm giao thông nên dễ khắc phục sự cố, đảm bảo vận hành.

Tuyến tránh trọng điểm 050 chưa bị lộ. Trọng cho tiếp tục dùng các ống hỏng lắp từng đoạn ống nửa kín, nửa hở; Lại cho đặt một vài thùng xăng lên đó để nếu bom đánh trúng bốc cháy, địch ngỡ đường ống vẫn theo tuyến cũ. Tuy nhiên, từ sau hôm đánh cháy kho xăng gần Hang Giơi, máy bay địch bắt đầu quan tâm đến điểm này. Bom tọa độ, bổ nhào thường xuyên đánh phá khu vực trước cửa hang. Thỉnh thoảng B52 lại quét qua. Chính vì vị trí quan trọng của Hang Giơi, một van chặn được lắp sát hang, và Hang Giơi trở thành nơi đóng chốt để bảo vệ cửa van đó, cửa van số 7.

Đã thành thói quen, trước khi vận hành, bao giờ Thọ cũng đi kiểm tra dọc tuyến đại đội. Tuyến bây giờ đã có một con đường tuần tra rất thuận lợi. Phía trên tán cây được giữ nghiêm ngặt. Phía dưới, đường được dọn quang đãng, sạch sẽ. Lên dốc có bậc, qua khe suối nhỏ có cầu khá chắc chắn.Một con đường đảm bảo các yêu cầu như vậy không chỉ tạo điều kiện cho người đi tuần, phát hiện sự cố trên tuyến, mà còn cơ động nhanh để khắc phục sự cố. khi Thọ đến gần hang Giơi thì xăng đã qua đây được mười phút. Anh ghé vào thăm tổ canh van. Cậu Tôn đang áp tai vào tổ hợp điện thoai theo dõi tình hình trên tuyến. Cậu Thông và Tăng đang tranh thủ đánh cờ. Thấy đại đội trưởng đến, họ tỏ ra lúng túng.
- Không sao đâu, tuyến đang vận hành yên ổn, cứ tự nhiên đi.
Thọ toan ngồi vào xem ván cờ đang dở dang thì nghe tiếng vo ve quen thuộc. Anh ngẩng lên: Một chiếc tàu càng trên trời đang thu hẹp dần vòng lượn. Không hiểu hắn đã phát hiện ra điều gì. Một quả đạn khói bắn xuống, trong chốc lát bom nổ cách cửa hang chừng hai trăm mét. Tuyến ống như có một bàn tay khổng lồ giật mạnh. Từ một khớp nối, xăng phun ra như một cái dẻ quạt. Thọ nói:
- Ống chưa đứt, nhưng bị bom giật, đã hở mối nối.
Tôn gào vào máy:
- Cửa Bảy bị bom, đề nghị dừng bơm.
Rồi anh quay sang báo cáo:
- Sở chỉ huy đã ra lệnh tắt bơm đầu nguồn.
Mặc dù vậy, khối xăng trong ống từ trên Cổng trời vẫn cuồn cuộn chảy xuống. cái dẻ quạt dường như đang lớn dần lên. Thông vớ lấy chiếc cờ lê quay nhanh:
- Tôi sẽ siết mối nối này lại.
Anh lao về phía cái dẻ quạt đang phun xăng phì phì. Theo tay quay của Thông, cái dẻ quạt thu nhỏ dần lại. Thọ chưa kịp mừng thì một loạt bom tiếp theo nổ. Thông gục xuống, tay vẫn nắm chắc cờ lê. Phía dưới dốc, lửa đã bùng lên. Tăng hét:
- Tuyến ống bị đứt rồi.
Thật nguy hiểm. Dưới chân dốc là kho hàng và một đơn vị Thanh niên xung phong. Nếu không chặn dòng xăng lại thì chưa thể lường được hậu quả. Tăng lao ra đóng van chặn tuyến. Nhưng chưa đóng xong van thì anh đã loạng choạng, rồi gục xuống bên tay van. Máu từ vai, từ ngực Tăng xối xả tràn đỏ ống. Cái lưỡi lửa như nhỏ lại một chút, nhưng lại bùng lên cao. Tôn chuyển tổ hợp điện thoại cho Thọ:
- Van chưa được đóng kín, đại đội trưởng để tôi.
Tôn vọt tới đóng nốt những vòng quay cuối cùng. Có vẻ như khó hơn vì máu của Tăng đã tưới lên làm tay van trơn và nhớp nháp. Cái lưỡi lửa dưới chân đồi đã nhỏ dần lại. Vậy là dòng xăng đã bị chặn, không thể chảy xuống chân dốc được nữa. Tôn vừa đứng thẳng lên, bỗng loạng choạng khuỵu xuống. Cậu ta bị thương rồi. Thọ lao ra. Tốt nhất là phải nhanh chóng nằm xuống, vì xung quanh bom vẫn nổ. Người Tôn đầy máu. Máu của Tôn, của Tăng đã trộn với nhau, và không biết cậu ta bị thương vào đâu nữa. Tôn nói:
- Anh Tăng hy sinh rồi. Hình như tôi bị vào bụng.
Đúng rồi. Từ mạng sườn bên phải của Tôn, máu vẫn đang chảy. Thọ băng vết thương cho Tôn, đứng dậy, khom lưng để cõng Tôn vào hang, nhưng chính anh bỗng cảm thấy chân tê buốt, Mình cũng bị rồi. Ở bắp chân, máu đang trào ra. Thọ xé áo băng vết thương lại, rồi rút khẩu súng ngắn bắn bốn phát chỉ thiên.
- Cậu bám chắc vào tôi, chúng ta cùng về hang.
Thọ cắn răng, nhích từng đoạn cho đến khi cả hai vào được trong hang. Anh lôi hết băng cá nhân dự phòng của cả bốn người ra, băng chặt lại vết thương cho Tôn. Và cho mình. Thọ hét vào máy điện thoại: Bom đánh đứt tuyến cửa Bảy. Hai hy sinh, hai bị thương. Nhưng tiếng của anh chỉ đập qua đập lại vách hang. Đường dây điện thoại đã bị bom đánh đứt.

Ngớt bom, tổ cấp cứu chạy đến. Thọ giục anh em đưa ngay Tôn đến trạm phẫu thuật, còn anh ở lại chỉ huy khắc phục sự cố. Chỉ nửa giờ sau, bầy máy bay phản lực lại xúm xít quần đảo bắn phá. Lần này không chỉ bom phá, bom phát quang mà cả bom bi, bom sát thương. Tuyến chưa vận hành trở lại nên không có đám cháy mới, nhưng thêm hai chiến sỹ hy sinh. Toàn bộ ống trên nửa cây số trước hang Giơi đều bị phá hủy.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Bắt đầu từ hôm đó, bom đạn nối nhau băm nát khu vực Hang Giơi. Tuyến ống thay xong chưa kịp vận hành lại bị đánh hỏng. Chỉ ba ngày, thêm bảy ngôi mộ mới của những người lính đường ống được đắp trên sườn núi. Không biết đã thay ống bao nhiêu lần. Địa hình ở đây ngặt nghèo quá. Không thể tìm được tuyến mới khả dĩ tránh xa được bán kính khu vực đánh phá. Tuy nhiên, khác với các phương thức vận tải khác, nếu bom đánh, không có đám cháy thì kẻ địch trên trời không thể biết tuyến còn ở đó hay đã nắn đi hướng khác.. Thục hiểu điều đó, anh đề nghị trên cho dừng hẳn vận hành cả tuần. Nó đánh mãi, chẳng thấy gì là chán ngay thôi. Cùng với việc đó, Thục cho ghi chép lại tỷ mỷ quy luật đánh phá của địch, nhờ vậy, cuối cùng việc vận hành lại được tiếp tục, dòng xăng vẫn được bơm vào Na Tăng .


Từ trên đài quan sát, Thục phóng tầm mắt nhìn về phía bắc. Giữa đại ngàn Trường Sơn, con đường 128 chằng chịt bom đạn, cây cối xác xơ. Xa xa, trọng điểm ngầm bản Lắc lở lói, đất đỏ vàng trộn với màu tro xám như ráng chiều vàng sắp chuyển sang dông. Xa hơn nữa, màu xanh thẫm của đỉnh Trường Sơn. Bên kia là quê hương đất nước yên bình. Ở đó có gia đình, và nhất là có em. Bóng dáng người con gái đã in sâu trong tâm hồn anh. Đôi mắt với cái nhìn sâu thẳm theo anh đi trên khắp mọi nẻo đường. Điều cần nói, anh đã thổ lộ thành lời. Nhưng nó đã trở thành nỗi buồn anh mang theo từ ngày rời Hà Nội. Tuy vậy, vào những phút yên tĩnh, Thục bỗng thấy nỗi buồn của mình thật vô lý. Thực ra, tình cảm của em dành cho anh cũng rất lớn và trong trẻo lắm. Chỉ có điều đó chưa phải là cung bậc của tình yêu. Mình đã yêu em, chân thành, sâu sắc. Bây giờ là tình yêu một chiều. Không sao cả, nếu tự em chưa cảm thấy muốn gắn bó với mình, mà mình gượng ép, thì có khác gì mình ích kỷ. Nếu em được hạnh phúc, chẳng phải là nửa phần đời của mình cũng hạnh phúc đó sao. Anh biết sẽ có nhiều người mong ước được đến với em, trong số đó nhất định em sẽ chọn được người thực sự mang lại cho em hạnh phúc. Em hãy sống thật hạnh phúc! Anh luôn cầu mong em những điều tốt đẹp nhát. Nhưng anh cũng có một niềm tin mãnh liệt rằng, ở trên đời này sẽ không có ai hiểu em, yêu em hơn anh. Vì thế, nếu một lúc nào đó, em hiểu được tình yêu của anh. Em nghĩ đến anh như người đàn ông thực sự của lòng mình, có thể che chở cho em, mang đén cho em một chỗ dựa tình cảm tin cậy,vững chắc. Anh sẵn sàng sống để chờ ngày đó. Nghĩ như vậy, Thục thấy lòng mình dịu lại trong một cảm giác ngọt ngào. Đó là cảm giác ngọt ngào cũng rất tuyệt vời mà người ta có thể có được trong mối tình đơn phương. Anh cảm thấy cuộc đời của mình thật có ý nghĩa.

Lạ thật, gian khổ ác liệt thế mà cứ có một phút yên tĩnh, đủ thứ lý do để nỗi nhớ lại ùa về. Hơn một năm nay, tiểu đoàn đường ống của anh đã vật lộn với đủ loại bom đạn từ trên trời rơi xuống. Máu của bộ đội đã thấm đỏ trên tuyến ống ở trọng điểm 050, ở ngầm bản Lắc, ở bắc kho Na Tăng. Không chỉ thế, bộ đội của tiểu đoàn còn phải chiến đấu tiễu phỉ mặt đất bảo vệ tuyến. Tuyến ống đi qua các bản Lào, được dân che chở, đùm bọc. Có những ngày, được dân báo, bộ đội đã tháo gỡ hơn 30 quả mìn hẹn giờ. Em ạ gian nan vậy, anh vẫn có một niềm tin, một ngày nào đó anh sẽ được về thăm em. Có thể lúc đó, em đã có gia đình. Cho dù vậy thì sau những ngày dài thương nhớ, anh lại được thấy em. Anh cầu mong em hạnh phúc.

Thục đang miên man nghĩ thì bỗng từ hang bản Say phát ra một tiếng nổ lớn và bùng lên một quả cầu lửa như một cái nấm khổng lồ, rồi tắt lịm. Chắc chắn đã xảy ra chuyện gì đó rất nghiêm trọng. Chưa đầy phút sau, từ phía ấy vọng tới bốn phát súng. Vậy là có thương vong rồi. Thục tụt nhanh khỏi đài quan sát, chạy về bản Say.

Đó là vụ nổ phát ra từ hang máy bơm. Những trạm bơm khác, máy được đặt trong một cái nhà nửa chìm nưởi nổi, phía trên là một lớp đất để chống bom bi, xung quanh là tường đất bảo vệ. Tường đất được đắp cao hơn đầu người, phần còn lại để trống đảm bảo không khí trong hầm lưu thông. Tuyến ống Trường Sơn bom cầy đi xới lại. Ống đứt lại nối. Những chiếc ống được moi lên từ lớp đất bom vùi. Bởi vậy, dù cố gắng đến đâu cũng không sao làm sạch hoàn toàn cát trong ống. Cát theo dòng xăng đi qua các máy bơm, phá hỏng các vòng bi ổ trục, làm xước rách các vòng đệm cao su. Xăng theo những chỗ đó chảy ra ngoài, làm cho trạm bơm nồng mùi xăng mỗi lúc vận hành. Ở đây, bên cạnh hang lớn đặt bể, mọi người rất mừng vì phát hiện ra một cái hang nhỏ có thể đặt máy bơm. Đây thực sự là một cộng sự tuyệt vời để tránh bom. Không ai ngờ chính sự lựa chọn đó là một nguyên nhân quan trọng gây nên tai họa. Qua mấy ngày ngừng vận hành, xăng đường ống vẫn theo cổ trục nhỏ xuống cái xô hứng bên dưới. Hơi xăng bốc lên dần dần đậm đặc làm cho hang như một buồng đốt khổng lồ. Khoảng thời gian những người thợ vào hang chuẩn bị vận hành, hơi xăng đã lùa vào hốc mắt, hốc tai, khoang miệng, theo hơi thở vào tận trong phổi của họ.Tất cả những chỗ đó vô tình đều là nơi chứa hơi xăng của buồng đốt. Cái buồng đốt khổng lồ ấy sẽ lập tức phát nổ nếu có bất kỳ một tia lửa nào. Có thể lửa từ ống xả, hoặc vì một sự vất cẩn nào đó. Điều khủng khiếp đã xẩy ra. Ba người thợ vận hành hy sinh. Họ cháy đen và mềm nhũn.vì vừa bị bỏng, mà bị sức ép cả bên ngoài và bên trong cơ thể.

Mộ của ba người lính thợ được chôn trên một mỏm đồi. Tháng ba, những bông gạo bung ra như những bó lửa rừng rực cháy giữa vòm trời xanh ngắt. vài cánh lìa cành, nhẹ nhàng đậu trên mộ những chàng trai trẻ. Trung đội kho xếp hàng trước nơi yên nghỉ của ba người đồng đội. Loạt đạn tiễn đưa vọng vào vách núi. Vẫn rừng xanh, trời xanh ấy, vẫn những ngọn núi đá tai mèo đen xám ấy, mà Thục cảm thấy loạt đạn tiễn đưa đồng đội bây giờ có nỗi quặn đau của người xa xứ. Mấy tháng nay, tiểu đoàn 96 đã chính thức tách khỏi binh trạm 691 của Tổng cục Hậu cần, trở thành tiểu đoàn đường ống đầu tiên của đoàn 559. Điều đó có nghĩa là từ nay họ là lính của một chiến trường xa, cũng có nghĩa là từ nay đến hết chiến tranh, cơ hội về Hà Nội thăm Khanh đã trở nên quá xa vời.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Chương IV​
THỬ LỬA

Điểm đầu của tuyến Hướng Đông cũng bắt đầu ở chân phía đông dải Trường Sơn- chân đèo 700. Con đèo này vắt qua phân thủy của một dãy núi có đỉnh là cao điểm 1001. Qua đỉnh đèo này là thời tiết chuyển từ nắng sang mưa, là từ bầu trời hòa bình sang nơi bom gào đạn réo. Đoàn cán bộ gồm các kỹ sư, nhân viên khảo sát, cán bộ tham mưu hạ trại bên một con suối lớn, gọi là suối Xa Rắc. Một con đường mòn đi men theo suối và bò dần lên đỉnh đèo 700. Đó là con đường gùi thồ ngày xưa, nay công binh đã dựa vào đó làm thành đường ô tô, gọi là đường 18. Từ cái thời những người lính Trường Sơn “Đi không dấu, nấu không khói, nói không tiếng” đến giờ, con đường này vẫn giữ được bí mật với máy bay Mỹ nên rừng vẫn là đại ngàn nguyên sơ, ẩm ướt.

Ngọc và Quang mắc võng cạnh nhau. Từ hôm gặp nhau ở làng Thọ đến nay, hai người mới có thời gian dài tâm sự. Những phút gặp nhau ban đầu thấy mến nhau, rồi qua một năm biết bao thử thách, cách họ nhìn nhận cuộc sống gian khổ ác liệt giống nhau nên đôi bạn đã nhanh chóng trở nên thân thiết. Chỉ một đêm thôi, họ đã tâm sự với nhau tất cả mọi chuyện về chuyện gia đình, về bạn bè. Họ cùng học Bách khoa, cùng là học sinh Hà nội, nên cũng có những người bạn chung. Chính những người bạn chung ấy đã làm cho họ nhanh chóng trở thành đôi bạn tâm giao. “Hãy nói cho tôi bạn của anh như thế nào, tôi sẽ nói về anh”. Câu phương ngôn ấy dường như đang rất đúng với đôi bạn này. Quang kể cho Ngọc nghe về thời học sinh, về cha mẹ. Gia đình con một, nhưng anh không hề được nuông chiều. Có lẽ chính vì vậy, anh rất dễ thích nghi với cuộc sống gian khổ hiện nay. Anh thích chơi bóng đá, bóng bàn và thuộc loại chơi bóng bàn khá. Anh tâm sự về cô bạn hàng xóm. Đi bộ đội rồi mới tiếc sao chẳng ai giám thổ lộ tình cảm của mình. Nước da nõn nà ấy, mái tóc như dòng suối mềm mại buông dài lên bờ vai suôn như trong tấm hình Jen ny Mác, gần nhau lắm, nghe được hơi thở của nàng, người mình cứ run rẩy mà chẳng giám làm gì. Tối hôm ấy, cả nhà nàng đều đi vắng, mình nàng ở nhà. Chàng sang chơi. Chỉ có hai đứa, nàng ra đóng cửa lại, rồi thanh minh: “Cửa để ngỏ, mấy con mèo hàng xóm hay vào phá lắm”. Cách nhau có mấy phòng trong dãy nhà tập thể, chàng có bao giờ thấy bọn mèo phá phách gì đâu. Hai người ngồi đối diện nhau qua một cái bàn vuông, những câu chuyện rời rạc, nhát ngừng, chẳng đâu vào đâu. Chàng từ từ đứng dậy, đi vòng sang phía nàng. Chàng muốn đưa tay vuốt tóc nàng và nói một câu gì đó. Yên lặng, căng thẳng. Rồi chàng lại không dám, chỉ đưa tay bóc tờ lịch trên tường và nói : “Sao lịch để mấy hôm không bóc thế này?”. Nàng ngước lên, không nói gì, chỉ nguýt dài một cái … Những chuyện đại loại như thế đâu phải chỉ một lần, nhưng rồi lần nào kết cục cũng chỉ như vậy. Ngọc kể cho Quang nghe về thời thơ ấu cha đi kháng chiến, mình sống với mẹ ở quê, nhà nghèo phải ăn rau, ăn cám trừ bữa, có khi hàng tháng trời chỉ mơ một bát cơm trắng. Hòa bình, cha làm cán bộ cao cấp, nhưng nhà tới chín miệng ăn nên vẫn chẳng làm sao mà no đủ được. Anh kể cho Quang rằng anh sinh ra từ một gia đình nhà nho nên gia giáo ăn sâu vào máu. Người quân tử là người biết tu thân ngay cả khi chỉ có một mình mình. Hồi sơ tán, một hôm, đi chặt gỗ làm nhà mệt nhoài và khát, đang đi thì gặp một vườn quýt, quả nào cũng chín mọng, đỏ au. Cả bọn sà vào vườn vặt ăn say sưa, còn cởi áo đùm về nhà. Mình kiên quyết không ăn, nói đó là của dân, làm như vậy không khác gì ăn trộm. Cả bọn cười chế nhạo. Đến giờ mình vẫn thấy điều ấy chẳng có gì đáng cười. Cha mình là cán bộ liêm khiết, dạy sống phải trung thực. Ngay từ nhỏ mình đã được giáo dục rằng những người cộng sản là những người luôn sống và chiến đấu vì mọi người, không bao giờ vụ lợi cho bản thân. Mình chính thức rời khỏi gia đình khi theo trường đại học sơ tán ở Lạng Sơn. Thờì kỳ đầu nằm tạm lán, vào rừng chặt gỗ, chặt lồ ô dựng nhà bên dòng sông Kỳ Cùng. Một hôm bó lồ ô của mình để ở đầu lán biến mất. Đi tìm một hồi, phát hiện ra nó được dấu ở đầu nhà mấy anh **** viên. Đêm ấy mình đã trùm chăn khóc tức tưởi. Khóc hàng giờ đồng hồ. Không phải vì tiếc công trèo đèo lội suối, thả bè bì bõm dọc sông Kỳ Cùng suốt buổi chiều. Mà vì sụp đổ một thần tượng. Dần dần cuộc sống cho mình hiểu ra: lý tưởng của **** là cao cả, còn đảng viên cũng là con người, không thể mong họ là thánh được. Ngọc cũng kể về một tình yêu đơn phương với một cô bạn cùng lớp và cách hành xử dại dột để người con gái ấy oán giận mình. Rồi cũng có cô hàng xóm đem lòng yêu mến, hôm lên đường nhập ngũ, cô bé cứ lẽo đẽo đi theo: “anh đi còn nhớ người ở khu tập thể nữa không?”.
Đêm ấy họ thức trắng. Khi bảo nhau ngủ thì cũng là lúc tiếng những con chim rừng lảnh lót hót trên cành chào những tia sáng mặt trời đầu tiên.

[FONT=&quot]Quang và một số người ở lại chân đèo 700 để tìm chỗ đặt kho đầu nguồn và nơi trú quân của đơn vị thi công tuyến ống, gọi là Công trường 181. Ngọc đi trong tổ khảo sát tuyến. Phụ trách tổ là một trung úy ba mươi sáu tuổi, người miền Nam, có cái tên nghe lạ lạ: Huỳnh Phường. Bắt đầu từ đây là khu vực vĩ tuyến mười bảy nên trong tổ khảo sát có cả y tá, vài cậu chiến sỹ để giúp việc và chiến đấu bảo vệ khi cần thiết. Từ chân đèo bảy trăm, tuyến ống tách khỏi đường 18. Vượt sang tây Trường Sơn thì từ đường ô tô đến tuyến ống xa ít nhất một cây số. Đó là khoảng cách an toàn không bị vạ lây khi B52 đánh vào đường ô tô. Chính cái khoảng cách cần thiết ấy đã đẩy tuyến đường ống lên độ cao cheo leo hơn, và vô tình đi gần hơn những con đường hoạt động bí mật của các nhóm thám báo địch. Vừa đi vừa phát tuyến nên mỗi giờ có khi chỉ đi được một cây số. Mới chỉ qua mấy tháng đi rừng, Ngọc, Danh và các bạn đã rất nhiều kinh nghiệm tìm rau rừng, kiểm cá, ốc suối để cải thiện bữa ăn. Khi ở tuyến Hướng Tây, tổ khảo sát thường hạ trại bên bờ suối. Đó là nơi có thể thư giãn sau một ngày vất vả. Sau bữa cơm chiều có thể thả mình lên cánh võng bên dòng suối trong vắt, mắt nhìn lên vòm lá mà mơ mộng. Huỳnh Phường là một cán bộ đại đội trinh sát bộ binh, nên anh có một kiểu tư duy khác: Suối là nơi dễ bị thám báo biệt kích địch chú ý nhất. Có thể chúng phát hiện khi ta nấu cơm, tối đến, chúng sẽ đánh úp. Bởi vậy, sau bữa cơm chiều, anh yêu cầu mọi người thu dọn và di chuyển đến một nơi cách chỗ nấu cơm ít nhất 500 mét mới được mắc võng ngủ. Với cái cách ấy, khi mắc võng thường trời đã nhá nhem tối, và hôm sau, lại phải đi thêm một quãng dài mới tới chỗ có nước rửa mặt đánh răng và nấu cơm sáng. Bất tiện vậy, nhưng mọi người đều chấp hành. Một tối, Khi mọi người lên võng thì đã nhọ mặt người. Nơi họ nghỉ lại là một đỉnh cao ẩm ướt. Những lớp sương mờ đục bảng lảng quấn quanh võng. Mệt nhoài sau một ngày cật lực vừa đi vừa phát cây mở lối và nghiên cứu địa hình, cả tổ lăn ra ngủ. Ngọc tranh thủ trùm chăn bấm đèn pin học tiếng Lào. Từ sau cái lần không biết nói lời cảm ơn với người dẫn đường, Ngọc luôn cố gắng học tiếng Lào. Thường thì thời gian học như vậy chỉ khoảng nửa giờ. Tích tiểu thành đại. Vả lại đâu đủ pin để học được nhiều.[/FONT]
 
Chỉnh sửa cuối:

nghiemthang

Xe tải
Biển số
OF-11816
Ngày cấp bằng
28/11/07
Số km
413
Động cơ
531,090 Mã lực
Em đọc một mạch đến giờ. Cam ơn cụ chủ Chitom.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Khi đã chìm sâu vào giấc ngủ, bỗng ngọc giật mình vì một tiếng rú ghê rợn. Anh lăn khỏi võng, vơ lấy khẩu súng ngắn, nép vào gốc cây và hướng nòng súng về phía tiếng rú. Có tiếng huỳnh huỵch của một cuộc vật lộn. Từ khi ra trường, vào ngay tuyến, khảo sát, thi công đường ống, nhóm kỹ sư không hề được huấn luyện kỹ năng chiến đấu bộ binh. Trời tối như mực, chẳng nhìn thấy gì. Bây giờ mà bắn thì có khi bắn vào người của ta. Tiếng Huy quát:
- Ai đấy?
- Anh Phường. Hình như anh ấy bị lên cơn động kinh – Tiếng cậu y tá.
Lúc này, những ánh đèn pin loang loáng bật lên. Mọi người chạy laị chỗ Phường ngủ. Anh ấy đã lăn xuống đất, dãy dụa, sùi bọt mép, dưới anh đèn pin, mắt anh trợn ngược trông thật ghê rợn. Cậu y tá nói mọi người dãn bớt ra cho anh thở. Cậu vuốt ngực, xoa dầu vào thái dương cho Phường. Chẳng biết đó có là cách xử lý với người động kinh không, nhưng phải làm một cái gì chứ. Cậu ta để Phường ngả lên ngực mình và làm như vậy cho đến khi Phường hết giãy dụa. Mọi người dìu anh nằm lên võng và lo lắng quây quanh. Phường nằm thiếp một lúc rồi từ từ mở mắt. Anh nhìn khắp lượt mọi người, thều thào hỏi:
- Tôi vừa qua một cơn động kinh phải không?
- Vâng. Anh tỉnh lại thế này là ổn rồi- Cậu y tá trả lời.
- Không sao đâu. Tôi trở lại bình thường ngay thôi mà. Năm ngoái đánh nhau ở Khe Sanh, bị thương ở đầu. Nằm viện một tháng thì khỏi, nhưng thỉnh thoảng lại bị thế này, nhất là hôm nào căng thẳng, mệt mỏi.

Sáng hôm sau, từ trên đỉnh, tổ khảo sát men theo sườn dốc, xuống một dòng suối có tên là Ra Vơ. Đây là con suối lớn đổ ra sông Sê Bang Hiêng. Dòng suối nhiều đoạn nước chảy xiết. Hai bên bờ, những cây đại thụ vươn bóng ra tới giữa dòng. Đoạn hạ lưu, thung lũng suối mở rộng, bằng phẳng thật nên thơ. Đó là dấu vết cũ của bản Mai. Để có thể đưa xăng vào chiến trường nhanh nhất, cấp trên yêu cầu đặt một kho tại đây, gọi là kho Q3, với sức chứa hai trăm nghìn lít.. Đoạn tuyến vượt đỉnh Trường Sơn từ chân đèo 700 sang đây không có đường ô tô chở các bể chứa bằng sắt. Do đó, bể chứa ở đây sẽ là các bể bằng cao su, mỗi bể nặng khoảng tám mươi ki lô gam, chứa được hai nghìn lít xăng. Với trọng lượng ấy, lính có thể khiêng chúng đi hai mươi cây số, vượt đỉnh Trường Sơn sang đến kho này. Kho sẽ vận hành không có sự trợ giúp của máy bơm, bởi vậy, từ các bể chứa đến bãi đóng phuy, phải dựa vào địa hình để cấp phát theo nguyên lý tự chảy. Thanh, Ngọc và Danh chia nhau lựa chọn địa hình đặt bể. Đây là dấu vết bản cũ, những cây cổ thụ xen giữa rừng le cao rậm rạp, khá tiện lợi cho việc đặt kho. Các bể chứa sẽ được đặt trong các hầm kiên cố. Mỗi hầm hai đến bốn bể được nối thông với nhau bằng hệ thống ống. Khoảng cách giữa các hầm và từ hầm đến bãi đóng phuy phải đủ xa để giảm bớt thiệt hại khi bị bom đánh. Tại đây, xăng sẽ được đóng vào phuy. Các phuy được dắt theo suối Ra Vơ, rồi dắt khoảng hai mươi cây số theo dòng sông Sê Bang Hiêng, đến một bến của Binh trạm 90, gọi là S5. Từ đó các phuy xăng được bốc lên ô tô, tiếp tế cho các binh trạm. Phải mất ba ngày cật lực, việc xác định vị trí các bể chứa, thiết kế tuyến đường nội bộ trong kho mới hoàn tất.


Theo đường đã vạch trên bản đồ, từ kho bản Mai, tuyến đường ống sẽ đi men suối Ra Vơ, đến gần sông, nó vượt qua một yên ngựa để sang cánh đồng bản Na. Đi hết cánh đồng bản Na, là tới một nơi phong cảnh thật hữu tình: Dòng sông Sê Bang Hiêng uốn lượn giữa hai dãy núi đá hiểm trở. Sông đi sát chân núi phía nam. Còn phía bắc là một dải đất hẹp với những ruộng lúa, khóm rừng của bản Pha Bang, Đi tiếp, theo bờ sông, sẽ đến vùng núi đá bản Cọ. Cả hai dãy núi ở phía bắc và nam sông đều khá nhiều hang động, thuận tiện cho việc đặt kho và nơi trú quân. Trong đó, địa thế bản Cọ rất thuận lợi đặt kho. Nhất là nơi đây có một hang lớn có thể làm kho hàn chứa hàng trăm mét khối xăng.
Đến đây việc khảo sát gần năm mươi cây số đoạn đầu của tuyến Hướng Đông đã hoàn tất. Trên đường trở lại công trường bộ, tổ khảo sát hạ trại dưới một khóm rừng săng lẻ gần bản Pha Bang. Đêm ấy trăng rất sáng. Ánh trăng lọt qua tán lá, vẽ thành những khoanh tròn nho nhỏ trên mặt đất. Những cây săng lẻ cao vút. Không biết những cây này bao nhiêu tuổi mà cây nào cũng vài người ôm. Vỏ cây săng lẻ màu nâu sáng điểm những mảnh lõm màu trắng như có ai lấy con dao sắc lẹm vẹt sượt qua. Một con đường ô tô đang được công binh mở đi qua dưới tán rừng săng lẻ. Đất bằng phẳng, rừng cây lớn nên làm đường rất nhàn. Hầu như chỉ lựa cho đường đi giữa những thân cây lớn, bất đắc dĩ mới phải đốn đi vài cây nhỏ.. Huỳnh Phường chỉ con đường đang thi công nói:
- Dải đất hẹp này có tới ba phương thức vận tải buộc phải đi qua: Đường ô tô, đường ống, đường sông. Không hiểu rồi có yên ổn không đây.
Ngọc cười:
- Anh đúng là lính trinh sát, quá nhạy cảm với địa hình. Đây đâu có hiểm trở như Trà Ang hay Seng Phan. Đây cũng đâu phải đoạn dốc dài bên núi cao, bên vực thẳm như đoạn 050; đâu phải là ngầm vượt sông như bản Lắc.
- Các cậu là dân kỹ thuật, có thể nói đúng hơn. Tôi nhìn dưới con mắt chiến thuật thì nhận xét vậy. Thôi, không tranh luận nữa. Cầu mong chúng nó đừng làm khó cho mình ở đoạn này.
Phường nói vậy nên không ai nói lại chuyện này nữa. Họ đâu biết rằng chỉ ít tháng nữa, nơi thơ mộng này trở thành tử địa. Cảnh thơ mộng quá khiến mọi người không nỡ ngủ. Họ vừa đung đưa võng, vừa ngắm vầng trăng thấp thoáng sau tán lá, ngắm dòng sông Sê Bang Hiêng hiền hòa lấp lánh ánh trăng. Bên kia sông, dãy núi đá hùng vĩ hiện ra dưới ánh trăng mờ mờ, trắng đục.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Khi tổ khảo sát trở lại chân phía bắc đèo 700 thì hầu hết bộ máy của công trường bộ 181 đã vào đủ. Các kỹ sư được mời lên gặp Ban chỉ huy công trường. Chỉ huy trưởng Công trường không ai khác là Đại úy Đặng Văn Thế, chỉ huy phó Công trường 81,. Ngồi bên cạnh Thế là một vị trông cao lớn, bệ vệ. Thế giới thiệu:
- Đây là đồng chí Hoàng Trần, đại úy, phụ trách chính trị của công trường.
- Ở đây tôi là người chỉ huy cao nhất về công tác ****, công tác chính trị, nên có thể gọi là chính ủy của đơn vị- Trần trịnh trọng nối lời- Xin chúc mừng các cậu, các kỹ sư trẻ tuổi. Được biết có một số là học sinh Hà Nội, đúng không? Tôi nhắc các cậu: Trường Sơn gian khổ ác liệt lắm, không giống như những gì các cậu biết trên ghế nhà trường đâu.
- Xin lỗi anh Trần, tôi chưa kịp giới thiệu với anh- Thế cắt ngang- Mấy kỹ sư này tuy mới ra trường chưa được một năm, nhưng đã được thử thách ở X42 và tuyến Hướng Tây. Họ dũng cảm và cũng khá dày dạn rồi đấy.
- Thế là tốt. Vậy các cậu cố gắng lên nhé. Thắng lợi đừng kiêu, thất bại đừng nản, hứ.
Mấy chàng kỹ sư đánh mắt nhìn nhau khó chịu. Ra khỏi lán chỉ huy, Danh bực bội:
- Chính ủy là Chính ủy, sao lại có thể coi như? Nhất định ông đại úy này đã tự xưng là chính ủy.
Quang tiếp lời:
- Cái chữ hứ của ông ấy nghe khó chịu quá. Rồi không biết vị chỉ huy này sẽ quản lý chúng mình sao đây.
Nói vậy, nhưng cái khó chịu ấy thoảng qua ngay. Ban kỹ thuật phải tập trung vào vẽ mặt cắt dọc tuyến, thiết kế và lên kế hoạch thi công để kịp vận hành theo yêu cầu của trên. Ở đây, bác Bảo, kỹ sư già hói đầu, người của Bộ Thủy lợi, chủ trì thiết kế. Cũng như tuyến Hướng Tây, đoạn đầu tuyến trên mặt cắt dọc là đoạn dốc dựng đứng. Theo phương pháp thiết kế bằng tam giác thủy lực thì phải dùng ba trạm bơm nối tiếp đặt cách nhau trên sườn dốc. Ngọc đem các thông số của tuyến vừa khảo sát, tính bằng công thức toán học thì chỉ cần hai trạm bơm. Ngọc hỏi bác Bảo:
- Thưa bác, Nếu hai phương pháp thiết kế cho đáp số khác nhau thì ta làm thế nào?
Thanh nhanh nhảu:
- Làm sao khác nhau được, ông xem lại cách tính toán đi.
Bác Bảo xem lại trang giấy trên tay Ngọc. Đó là mấy bài toán số học thông thường trong sách về đường ống giã chiến của Liên Xô. Với những thiết bị giã chiến như thế này thì việc thiết kế được giản hóa tối đa để thích nghi với điều kiện khẩn trương trong chiến đấu. Bác Bảo nheo mắt nghĩ giây lát rồi nói:
- Có khác nhau thật. Nhưng cháu xem lại cách thiết kế bằng tam giác thủy lực của bác, có đúng là hai trạm bơm không thể bơm xăng qua đèo 700?
- Đúng, đúng, làm sao bơm qua đèo 700 được- Thanh tranh lời.
- Cháu cũng thấy thế. Nhưng làm sao lại tồn tại hai cách tính số trạm bơm cho đáp số khác nhau trong cùng một tài liệu?- Ngọc vẫn thắc mắc.
Bác Bảo cười hiền:
- Cháu thắc mắc là đúng. Bài toán số học dùng cho một tuyến dài, không có sự đột biến về địa hình. Trong trường hợp đó, tính bằng phương pháp nào cũng giống nhau thôi. Còn vượt Trường Sơn lại là câu chuyện khác. Địa hình phức tạp quá, ta phải luôn sẵn sàng nghĩ tới những điều sách vở chưa nói tới.
- Vâng. Cháu hiểu rồi.
Ngọc không ngờ lời khuyên giản dị ấy đã giúp anh vượt qua rất nhiều khó khăn cho chặng đường sau này.

Việc thi công được tiến hành rất khẩn trương. Những chiếc xe tải chở các bồn chứa hai mươi lăm mét khối lặc lè theo những con đường làm tạm dựa vào các lòng suối để đưa bể vào kho Q 200. Những chiếc xe chở ống kềnh càng tập kết ống và phụ kiện đến chân đèo 700 để từ đó bộ đội vác lên tuyến. Một chiếc máy ủi C100 ủi theo sườn dốc một con đường hẹp để đưa máy bơm vào vị trí thiết kế. Con đường trông quá chênh vênh. Khi chiếc máy ủi kéo máy bơm vào vị trí, mọi người đều nghẹt thở. Đường vừa hẹp, vừa dốc, có lúc chiếc máy bơm như muốn trượt khỏi đường, dệ xuống sườn dốc. Những lúc như vây, chiếc máy ủi lại rồ hết ga nhích lên từng tấc. Nó như một người đang cố sức đưa tay cứu một người sắp rơi xuống vực. Chỉ bốn trăm mét đường dốc, mà chiếc máy ủi phải mất một ngày cật lực mới đưa được hai máy bơm vào vị trí trên cao. Đó thực sự là một kỳ tích. Khi hoàn thành nhiệm vụ, người lái máy bước ra khỏi xe, mồ hôi nhễ nhại, trên khuôn mặt vẫn chưa dãn hết những nếp nhăn căng thẳng. Anh nói rằng không hiểu khi cần đưa những chiếc máy này ra khỏi vị trí sẽ làm thế nào, vì đưa máy xuống khó hơn kéo máy lên rất nhiều. Trưởng Ban kỹ thuật Lê Khôi bắt tay anh rất chặt: “ Cảm ơn anh. Thế này là tốt lắm rồi. Có thể nó sẽ nằm đó đến hết chiến tranh”

Tiểu đoàn công binh 73 được giao nhiệm vụ dùng sức người chuyển ống, phụ kiện và bể cao su vào vị trí. Giữa mùa mưa ở tây Trường Sơn, những con đường dốc trơn như đổ mỡ. Hàng ngàn bước chân của những người lính vác ống, chuyển bể cao su nối nhau bấm xuống, khiến cho con đường bùn lầy ngập ngụa. Họ phải bước từng bước rất thận trọng, Một vai vác ống, tay kia bám chặt vào những cây ven đường. Đã có người tuột tay, ngã lăn theo triền dốc, và chiếc ống thép lao theo đâm ngang sườn. Những đoạn quá dốc, ống được buộc vào dây, thả dần xuống. Những trận mưa rừng không chỉ làm sạt đường vác ống, đẩy những khối đá lở trên triền dốc lăn xuống đè bẹp tuyến ống đã lắp, nó còn mang đến những cơn lũ bất chợt, xới tung, giật đứt những đoạn ống đã được chôn xuống lòng khe.
Sau hơn hai tháng vật lộn với địa hình và thời tiết khắc nghiệt, tuyến Q200-Q3 dài hai mươi cây số đã dần hình thành. Đó cũng là lúc bác Bảo cùng toàn bộ số kỹ sư, cán bộ kỹ thuật của cơ quan dân sự được lệnh rút khỏi công trường 181.
- Bây giờ thì chỉ còn mấy anh em kỹ thuật mình xử lý mọi tình huống. Mấy đứa phải cố lên nhé- Trưởng Tiểu ban Kỹ thuật Lê Khôi nói với mấy kỹ sư trẻ sau khi tiễn những cán bộ kỹ thuật dân sự.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Công trường 181 được bổ sung quân số. Một số cô gái thông tin, quân y mới về, làm cho công trường bộ vui hẳn lên. Các cô gái nhanh chóng chơi thân với Tiểu ban kỹ thuật. Mấy chàng kỹ sư trẻ tối tối thường bập bùng ghi ta, hát những bài hát thời chiến tranh vệ quốc của Liên Xô. Các cô gái sang Tiểu ban Kỹ thuật nói chuyện có khi khuya mới về. Nhiều ngày như thế mà chẳng thấy mối tình nào giữa các kỹ sư trẻ với mấy cô gái trong cơ quan. Điều ấy làm mấy anh lính, nhất là mấy người đã cứng tuổi, đã có vợ ngạc nhiên. Một hôm, Quang đang ngồi bên bờ suối, ôm ghi ta đánh theo nhạc một bài hát mới đăng trên báo, thì có ai đó gọi từ sau lưng. Quay lại, hóa ra là ông Thuân, chiến sỹ thông tin. Anh chàng cao to lực lưỡng này trạc ba mươi, nghe nói đã có vợ. Thuân vỗ vai Quang:
- Tập hát hả? Các bố kỹ sư cứ mơ mộng lắm chuyện, tán gái mất công mất sức như các ông chẳng hiệu quả gì cả.
Câu chuyện xem ra thú vị đây. Quang hỏi:
- Vậy làm sao cho hiệu quả?
- Thì khi em ngồi, cậu đến đặt tay lên vai như tớ đang đặt tay lên vai cậu đây này.
- Rồi sao nữa?
- Nếu không thấy em phản ứng gì thì cậu chuyển từ vai lên đùi nàng.
- Rồi sao nữa?
- Nếu em vẫn không phản đối thì cậu mạnh dạn đưa tay vào những chỗ dễ mang lại cảm xúc, nếu thấy em vẫn đồng tình thì rủ em vào rừng.
- Thế lỡ em cho cái tát thì sao?
- Hớ hớ. Thì phủi *** đứng dậy
Quang tủm tỉm:
- Phủi *** đứng dậy mà trên má hằn năm ngón tay thì em đây hãi lắm.
- Các cậu tiểu tư sản bỏ mẹ. Tán gái phải có bản lĩnh. Nhớ chưa!
Thuân đứng dậy, bỏ lại tiếng cười hềnh hệch. Quang lắc đầu, lại chúi vào tập hát.

Tuyến ống hình thành cũng là lúc xuất hiện các hiện tượng trinh sát, đánh phá của máy bay địch. Thỉnh thoảng có vài quả bom tọa độ vu vơ thả vào các khe suối. Một ngày nắng đẹp, tổ kỹ thuật đi kiểm tra tuyến mới lắp. Dũng đi đầu bỗng phát hiện một quả bom lạ nằm giữa đường. Quả bom này chắc mới ném đêm qua. Cậu ta chạy ngược lại, thở hổn hển: “Các anh ơi, có bom nổ chậm giữa đường”. Ngọc đến nơi xem kỹ. Anh không có kiến thức về bom mìn, nhưng rõ ràng quả bom này hình dạng không giống những quả bom nổ chậm mà anh đã thấy trên tuyến hướng Tây. Quả bom này nằm đây thì nguy hiểm lắm,vì mỗi ngày có hàng trăm lượt bộ đội đi qua. Tháo thì khó, chứ phá thì chắc làm được. “Dũng, mang thỏi bộc phá lại đây”. Ngọc đặt thỏi bộc phá hai lạng đã được tra kíp lên đầu quả bom, châm ngòi dây cháy chậm. Mình không có chuyên môn, tốt nhất để dây thật dài cho an toàn. Cả tổ chạy ra xa, nấp sau một gốc cây chờ đợi. Ầ ầm... Một tiếng nổ long trời, một cột khói đen cuộn lên như cái nấm. “Phá được rồi, thông đường rồi!” Cả tổ reo lên. Xung quanh nơi quả bom nổ, vương đầy những chiếc túi bằng ba ngón tay, bị xé rách. “Mìn lá”. Ngọc nhận ra loại mìn này từng được rải ở một số trục đường ô tô và giao liên trên tuyến hướng tây. Từ quả bom mẹ bung ra hàng ngàn quả bom con. Mỗi mỗi quả bom con là một quả mìn. Nó lẫn trong lá khô. Người dẫm phải nó không chết mà chỉ mất bàn chân. Trong cái túi nhỏ kia là hàng ngàn mảnh thủy tinh li ti to hơn hạt cát. Những hạt cát ấy xuyên sâu vào da thịt khiến cho đùi và cẳng chân người bị nạn tuy còn đấy, nhưng tướp táp bầm đen. Loại bom này không gây chết người, nhưng nó làm ảnh hưởng rất lớn đến sức chiến đấu vì một người dẫm phải bom là phải mất ít nhất hai người khiêng cáng, và hình ảnh người bị nạn gây cho những người còn lại cảm giác khiếp sợ. Vậy là địch đã rải bom lá lên tuyến đường vác ống và thi công của bộ đội. Ngay chiều hôm ấy, công trường 181 và tiểu đoàn 73 đã thông báo đến từng chiến sỹ để mọi người bình tĩnh và nâng cao cảnh giác. Mỗi buổi sáng trước khi thi công, phải cử một tổ trinh sát bom mìn dọc tuyến.



Tiểu đoàn 66 được lệnh giao lại tuyến X42 cho một đơn vị khác của Binh trạm 691, để vào nhận nhiệm vụ tại Đoàn 559. Theo chế độ hiện hành, có nghĩa là tiểu đoàn “đi B”, vì Đoàn 559 hưởng chế độ như những người chiến đấu ở chiến trường B, chiến trường Miền Nam. Tiểu đoàn trưởng ở lại chỉ huy đơn vị mới tiếp tục vận hành. Chính trị viên tiểu đoàn Nguyễn Đình tạm kiêm luôn chức Tiểu đoàn trưởng chỉ huy đơn vị hành quân. Nhiều năm làm trong ngành vận tải chiến lược, ông hiểu rất rõ 559 là một chiến trường cực kỳ gian khổ, ác liệt, đã đi thì khó mà hẹn trước ngày về. Cấp trên cho ông một ngày ghé qua nhà.

Từ chỗ đóng quân của tiểu đoàn về nhà mất hai giờ ô tô. Mỹ đã ngừng ném bom Miền Bắc, đường về đã không còn phải vượt qua các trọng điểm ác liệt, nhưng qua hơn ba năm bom đạn cày xới, mọi con đường đều gập gềnh ổ trâu, ổ gà. Đất nghèo Hà Tĩnh của ông đã chịu đựng biết bao bom đạn. Các làng quê, phần lớn trai tráng đã ra trận, mọi lo toan đặt cả lên vai người phụ nữ. Nhưng không biết có phải Hà Tĩnh vốn là đất văn thơ, đất của những điệu hò Ví dặm, mà chỉ cần ngừng tiếng gầm rít của bom đạn, khung cảnh lại trở nên thanh bình nên thơ kỳ lạ. Những mái tranh thấp thoáng dưới bóng cau, bóng kè. Chiều, những con trâu lững thững về làng, những làn khói bếp bảng lảng tan dần trong tán cây mít, khóm tre. Những đêm sáng trăng vẫn nghe những điệu hò câu hát đâu đó vẳng lên từ xóm làng. Ngôi nhà của Đình ẩn mình cuối xóm. Vẫn mái tranh nghèo như lúc anh ra đi. Giờ sống dưới mái tranh ấy là mẹ già mắt đã lòa, người vợ đảm đang, vai gầy gánh mọi nỗi cực nhọc chăm sóc mẹ chồng, nuôi dạy ba đứa con thơ. Biết Trần Đình chuẩn vị vào chiến trường, mẹ vuốt lên mái tóc, sờ lên mặt Đình. Bà khóc:

- Con cũng đã có nếp nhăn trên mặt rồi. ngày con đi chỉ mới là cậu bé mười tám. Khổ thân con tôi, suốt đời trận mạc. Thôi con cứ yên tâm mà đi đi. Con không vào chiến trường thì cũng mấy khi được ở nhà đâu. May quá, con dâu mẹ nó đảm đang thương yêu mẹ chồng nhất mực.

Đêm ấy, không biết bao lần nước mắt chị thấm ướt áo anh. Hơn hai mươi năm trời làm vợ, đã có với nhau ba mặt con mà dồn lại, dễ gì được một năm. Lần này anh đi vào nơi bom đạn dày đặc thế, lỡ có mệnh hệ gì. Anh an ủi vợ rằng: dù ác liệt thì chắc cũng chỉ hơn nó đánh quê mình chút đỉnh thôi. Vả lại, nhà mình dù sao cũng đã có ba mặt con. Đã có người nối dõi. Đơn vị có nhiều người độc đinh trong nhà, mới lấy vợ, chưa có con vẫn hăng hái lên đường. Em ở nhà cố gắng chăm mẹ, nuôi dạy các con. Hết chiến tranh, anh lại trở về với em thôi. Sống chết có số mà em.

Sáng hôm sau, Đình tranh thủ dọi lại mái nhà, buộc lại cái chái bếp cho chắc chắn, gánh đầy hai chum nước, rồi từ biệt mẹ và vợ con, lên đường.

Sau ba ngày hành quân, Tiểu đoàn 66 đến chân phía bắc đèo 700. Đặng văn Thế dẫn Trần Đình đến một khu đất bằng dưới tán những cổ thụ:
- Các anh tạm đóng quân ở đây trước khi tập kết bộ đội vào vị trí.
Đình nói với Tiểu đoàn phó:
- Anh là người đã từng đi B, có kinh nghiệm vượt Trường Sơn, anh chỉ huy việc tổ chức cho bộ đội trú quân, tôi lên Binh trạm 90 nhận nhiệm vụ.
Tiểu đoàn phócười hiền:
- Anh yên tâm đi, việc này tôi có nghề rồi.
Nói xong, anh triệu tập các cán bộ từ cấp trung đội đến:
- Các đồng chí. Hôm nay chúng ta nghỉ lại đây, vài hôm nữa sẽ vượt đỉnh Trường Sơn. Ở khu vực này, đỉnh đèo 700 là nơi giáp ranh giữa hai vùng khí hâu trái ngược nhau. Mùa này đông nắng, tây mưa. Tôi hướng dẫn các đồng chí một vài điều tối thiểu của người lính Trường Sơn, để các đồng chí về phổ biến cho bộ đội.
Một bài tập huấn cấp tốc được phổ biến đến tận chiến sỹ. Nào là cách mắc võng sao cho nhanh, càng nằm, giây càng thít chặt, và khi cần, chỉ một cái giật là tháo xong.Nào là mắc tăng thế nào cho căng và yên tâm mưa không hắt ướt võng. Rồi vì sao phải dùng bếp Hoàng Cầm, cách làm bếp Hoàng Cầm ra sao; Ngủ đêm trong rừng mùa mưa phải làm sao để tránh bị nước cuốn khi lũ về đột ngột…Đình rất hài lòng vì sự từng trải của người Tiểu đoàn phó dạn dày trận mạc này. Ở chiến trường, kinh nghiệm là một yếu tố rất quan trọng để hạn chế thương vong.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Đón Trần Đình và Đặng Văn thế ở Binh trạm bộ Binh trạm 90, không chỉ có Binh trạm trưởng Quang Trung, mà có cả Cục trưởng Phan Tử Quang. Sự xuất hiện của Cục trưởng làm cho Trần Đình rất cảm động. Trước khi anh nhận lệnh vào 559, Chính ủy Cục từ Hà Nội vào tận Hà Tĩnh động viên, bây giờ Cục trưởng lại lặn lội vào tận đây để bàn giao Tiểu đoàn cho Binh trạm 90. Gặp Đình, Cục trưởng bắt tay rất chặt và hỏi:
- Từ hậu phương hòa bình vào tuyến lửa ác liệt, tinh thần bộ đội thế nào?
- Báo cáo anh, không ít người bâng khuâng, lo lắng. Tiểu đoàn đã tổ chức một đợt học tập ngắn, động viên lòng tự hào của anh em: Chúng ta là tiểu đoàn đường ống đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam, đã kiên cường bám trụ trên vùng tam giác lửa. Sắp tới, sẽ làm đường ống và vận hành ở khu vực sát với các chiến trường Miền Nam, đó là một vinh dự, cũng là niềm tự hào mới. Bây giờ thì một trăm phần trăm quân số đã vào đến công trường 181, sẵn sàng vào vị trí.
Cục trưởng cười rất tươi, quay sang Quang Trung:
- Đây là con át chủ bài của Ngành Xăng dầu quân đội đấy. Giao tiểu đoàn này cho các anh, tôi đảm bảo rằng dù khó khăn thế nào, họ cũng hoàn thành nhiệm vụ.

Cuộc gặp mặt thật thân tình. Với Trần Đình, cả Cục trưởng và Đặng văn Thế đều là bậc đàn anh dày dạn kinh nghiệm, và luôn chăm lo cho cấp dưới. Riêng Quang Trung là người ông gặp lần đầu. Nhìn dáng cao to, nhưng khuôn mặt hiền hậu, giọng nói nhẹ nhàng, Trần Đình cảm thấy con người này thật dễ gần gũi. Trong buổi sáng, Cục Xăng dầu Tổng cục Hậu cần ký văn bản bàn giao tiểu đoàn 66 cho Binh trạm 90. Trần Đình thay mặt tiểu đoàn chính thức nhận nhiệm vụ quản lý , vận hành tuyến Q200-Q3 và thi công phát triển tiếp tuyến đến bản Cọ. Công trường 181 vừa là đơn vị thiết kế, hướng dẫn thi công cho tiểu đoàn, vừa có thể được coi như cấp trên về kỹ thuật của tiểu đoàn cho đến khi tuyến Q200- Bản Cọ đi vào ổn định.


Đỉnh bấm chân xuống lớp đá để kéo mấy phuy xăng ra khỏi khúc nước quẩn dọc bờ sông Sê Bang Hiêng, đưa chúng vào dòng chảy. Dọc sông, không mấy chỗ không có hố bom. Lớp bùn nhão trộn lẫn với đá và mảnh bom sắc nhọn nhiều khi đâm thủng qua đế giầy vải làm chân anh bật máu. Những chỗ nước quẩn như thế này có khi làm cho những bao hàng thả trôi dồn lại thành một cái bè lớn. Máy bay địch phát hiện, ném bom hoặc bắn dọc sông, đã làm chìm khá nhiều bao, hầu hết là gạo. Phải bằng mọi cách kéo các phuy xăng ra những chỗ nguy hiểm này. Nếu để chúng trôi gần những bao gạo kia, khi bị bắn cháy, thì không chỉ những phuy xăng này, mà tất cả các bao gạo trôi gần chúng bị vạ lây. Đỉnh bặm môi kéo, còn Hiến bì bõm đẩy từ phía sau. Những người lính kéo hàng thả trôi sông chịu bao nhiêu vất vả: Suốt ngày dầm mình trong nước sông, vật lộn với những cơn lũ bất chợt để bảo vệ hàng. Lúc thì mưa quất rát mặt. Lúc trời tạnh thì lũ OV-10 không ngừng vo ve rình mò, phát hiện ra điều gì khác thường là chúng gọi máy bay cường kích đến dội đủ thứ bom đạn. Máu của họ nhuộm đỏ những bao hàng, họ chìm xuống đáy sông cùng những bao hàng. Kéo những phuy xăng từ cửa suối Ra Vơ xuôi sông Sê Bang Hiêng đến bến S5 giao cho kho của Binh trạm 90 là việc nặng nhọc và nguy hiểm, bởi vậy, đại đội chọn những người khỏe và dũng cảm nhất. Đỉnh và Hiến thuộc số đó. Hai chàng trai Hà Nội to cao vào bộ đội cùng một ngày. Trước khi nhập ngũ, họ cùng làm trong một công ty xây dựng, vào bộ đội họ trở nên thân thiết, luôn bên nhau những lúc gian khổ ác liệt. Đỉnh là người bộc trực, quyết đoán. Trái lại, Hiến luôn điềm tĩnh, chu đáo. Hôm đầu tiên nhận các phuy xăng của mấy câu từ kho Q3 giao, Đỉnh phát hiện các nắp phuy đóng quá lỏng lẻo, khi vật phuy nằm ngang, xăng rỉ ra suối, Đỉnh bực lắm:
- Các ông đóng phuy kiểu gì lạ vậy? Thế này thì đến S5 liệu xăng còn nửa phuy không?
- Thôi, các ông thông cảm cho chúng tôi đi. Trung đội tra nạp phuy của bọn tôi có mấy thằng nhát như thỏ đế. Khi đóng phuy cứ mắt trước mắt sau, làm cho xong chuyện để thoát ly khỏi kho, chui vào hầm.
- Thế đấy. Các ông có hiểu rằng xăng cứ chảy ra thế này thì chỉ một phát đạn lửa của mấy thằng AD-6 là bọn tôi cũng tiêu luôn không?
Hiến kéo áo Đỉnh để bạn bớt nóng, rồi nói với cậu lính ở Q3:
- Ông về nói với mấy ông chỉ huy ý thằng Đỉnh vừa nói nhé- Rồi quay sang Đỉnh- Tốt nhất từ mai mình cứ thủ sẵn một cái cờ lê đóng nắp phuy cho yên tâm.

Giờ thì Đỉnh và Hiến đã quen từng khúc quanh, mô đá, bụi cây dọc bờ sông. Thỉnh hoảng hai đứa lại khiêng về cho đại đội một bao gạo vừa bị bắn thủng, chìm ở mép nước. Mùa mưa đã hay sốt rét lại bị đói, thì những bao gạo bị ngâm nước này qua tay mấy cậu anh nuôi tháo vát là có thể thành bún, bánh cuốn ngon lành, chí ít thì cũng xay ra quấy thành bột, hoặc nấu cháo.. Hôm nay, trên đường về, Đỉnh phát hiện một bao gạo đang lập lờ nửa chìm, nửa nổi. Hai đứa lôi lên, phát hiện ra mới chỉ nửa bao bị ướt. Hai chàng quyết định mang đến tặng trung đội nữ- Chúng nó liễu yếu đào tơ mà cứ bị đói thế này thì tội lắm.

Khi hai chàng lặc lè khiêng gạo đến bếp trung đội gái, các cô ùa ra:
- Các anh có gì cho bọn em đấy?
- Gạo. Hình như mới ướt nửa bao thôi. Các em giỡ ra, phơi đi chắc còn ăn tốt. Chỗ ướt thì chế biến các món ăn khác cho đỡ đói.
- Cảm ơn các anh quá, các anh đến lại có cả gạo, tức là chị em chúng em vừa có quà vật chất lẫn tinh thần đấy- Một cô gái có vẻ như chị cả của mấy cô chạy lại đỡ bao gạo xuống. Khi tháo cái quang bằng dây rừng khỏi bao, vô tình tay Đỉnh nắm phải tay cô gái. Đỉnh cảm thấy như có dòng điện chạy suốt sống lưng và tim anh đập tình thịch. Đỉnh ngước mắt lên, chạm ngay vào ánh mắt cô gái đang nhìn mình. Trời ơi. Đôi mắt nâu, ướt và sâu thăm thẳm. Gặp ánh mắt của Đỉnh, khuôn mặt tái xanh của cô gái bỗng ửng đỏ. Tay Đỉnh trở nên long ngóng:
- Em tên gì.
- Em tên Lan. Anh không biết em, chứ cả trung đội bọn em, ai chẳng biết hai anh.
- Sao bọn anh lại nổi tiếng thế?
Cô gái liếc xéo:
- Trai Hà Nội, đẹp trai, lại dũng cảm, ai chẳng ngưỡng mộ.
- Có trừ em không?
- Em không biết- Cô quay sang gọi- Mấy đứa cùng các anh khiêng ngay bao gạo vào bếp giúp chị.
Nói xong, Lan chạy vào lán dựa vào vách thở rốc. Sao mình lại thế này? Bình tĩnh lại đi Lan ơi. Cô nhìn qua khe liếp. Anh ấy kia. Dáng người cao lớn. Bộ quân phục ướt sũng và lấm bùn đất. Người sao kiêu hãnh thế. Sao bọn em vào đây mấy tháng rồi mà hôm nay anh mới đến.- Cô rút chiếc gương trong ba lô, soi lại mình. Chao ôi. Xanh xao quá. Tóc sao cứ rối như rễ tre thế này. Còn đâu cái thời mỗi bước đi đều có ánh mắt nhìn trộm của các gã trai làng. Nhanh lên kẻo anh ấy về mất. Cô chải vội lại mái tóc, rồi chạy ra:
- Các anh vào lán uống nước đã. Để đấy các em nó làm cho.
Lan bưng xoong nước chè rừng, rót vào bát mời khách. Đỉnh đưa hai tay đón bát nước. Như vô tình, hai bàn tay anh ôm lấy hai bàn tay cô gái. Bát nước trong tay hai người bỗng nhiên sóng sánh. Hiến tủm tỉm cười:
- Bát nước nhẹ thế mà hình như tay hai người không đỡ nổi.
Lan đỏ mặt, khẽ rút tay ra. Các cô gái từ ngoài ùa vào góp chuyện. Họ nhận ra ngay khuôn mặt ửng đỏ và vẻ lúng túng của Lan:
- Chị Lan ơi, chị bị cảm rồi. Các anh giúp chữa cho chị ấy với - Nói xong, cả bọn cấu nhau cười rinh rích.
Mấy cô gái tiễn hai người ra tận tuyến ống. Đỉnh bước nhanh lên trước vài bước, Lan biết ý bước theo:
- Từ nay thỉnh thoảng anh qua thăm em được không?- Đỉnh nói nhỏ chỉ đủ cho Lan nghe thấy.
- Em mong mà.
Mấy cô gái đứng vẫy tay chào cho đến khi bóng hai chàng trai khuất sau khúc quanh của con đường.


Thế là đã hơn hai tuần vận hành an toàn. Xe stec đổ xăng vào các bể sắt ở Q200, rồi bơm vượt đèo 700 đến kho Q3. Công trường bộ 181 cần chuyển sâu về phiá trong. Ngọc được cử đi tiền trạm ở Sở chỉ huy tiền phương. Sở chỉ huy đặt trên một sườn đồi khá bằng phẳng dưới những tán cây cổ thụ um tùm. Mấy cái nhà âu có hầm chữ A đã dược đào sẵn.. từ đây có thể chỉ huy việc thi công, vận hành tuyến ống từ Q200 đến Bản Cọ. Đi cùng Ngọc có Pính, một chàng trai trung cáp kỹ thuật người Nùng Lạng Sơn mộc mạc, vui tính và ham học. Cậu ta lúc nào cũng mang theo cuốn sách toán lớp chín. Mấy ngày chờ cơ quan Công trường bộ đến, Pính đề nghị Ngọc dạy toán lượng giác. Ngọc đồng ý ngay: “ Minh dạy toán cho cậu, còn cậu dạy mình hát Sli nhé. Pính vui vẻ nhận lời. Thế là từ hôm đó, ngọc dạy cho Pính các công thức “sin cộng sin bằng hai sin cos, sin trừ sin bằng hai cos sin…”. Còn Pính dạy cho Ngọc mấy câu sli bằng cả tiếng Nùng và tiếng Kinh:
Lá bông nhiều khía hơn lá sau
Không hiểu Sli mình hay sli đâu
Nếu phải Sli mình , mình mới đáp
Nếu là Sli người, chẳng hơi đâu...

Làn điệu khá khó hát, nhưng Ngọc thích lắm. Hồi trường sơ tán ở Lạng Sơn, có đêm anh nghe trai gái Nùng hát Sli bên sông Kỳ Cùng. Điệu hát cất lên giữa rừng, bên dòng sông lấp lánh ánh trăng, nghe nó là lạ, mà có cái gì đó như huyền bí. Ngọc rất muốn học những àn điệu đó, nhưng rồi những mùa thi, những đợt thực tập cứ cuốn thời gian trôi đi, ngoảnh đi ngoảnh lại đã hết thời sinh viên.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Theo kế hoạch, ngày 6 tháng 9, bộ máy Sở chỉ huy công trường 181 sẽ vào vị trí mới. Tối mồng năm, nhóm đầu tiên gồm một số sỹ quan tác chiến và thông tin vào trước. Ngọc rất lạ, ai trông cũng buồn rầu, khác hẳn với không khí hào hứng hôm xăng vào kho Q3. Một người ghé vào tai Ngọc nói nhỏ: “Ngọc ơi. Bác Hồ từ trần rồi”.

Ngọc choáng váng. Chưa bao giờ anh nghĩ đến việc này. Hồi nhỏ, anh theo cha lên chiến khu Việt Bắc. Lũ trẻ con em cán bộ trong cơ quan Trung ương thỉnh thoảng rủ nhau lên nhà sàn của Bác Hồ. Có lần, ngọc được Bác cho ngồi lòng. Bác chỉ cho Ngọc xem phong cảnh. Theo tay Bác chỉ, Ngọc nhìn thấy dòng suối, nương ngô xanh biếc với màn sương chiều bảng lảng. Trong ấn tượng trẻ thơ, Ngọc không sao quên được cảnh nên thơ đó. Thường cứ đêm Trung thu hay ngày một tháng sáu, Bác lại vui chơi cùng bọn trẻ trong cơ quan. Lớn lên, anh không còn được gặp Bác nữa. Anh thầm hứa: Cháu sẽ được gặp Bác với tư thế anh hùng, chiến sỹ thi đua. Vậy là từ nay, cơ hội ấy không còn nữa. Cuộc Tổng tiến công Mậu Thân đã đánh vào tận hang ổ Mỹ Ngụy, nhưng rồi ta lại bị đánh bật ra, bao nhiêu cơ sở nội thành bị vỡ. Hàng ngàn chiến sỹ hoạt động bí mật hy sinh. Bao nhiêu địa bàn của ta bị địch tái chiếm. Cuộc chiến tranh chống Mỹ đang gay go ác liệt thế này, Bác ơi, Bác ra đi vào lúc này, cuộc chiến sẽ đi về đâu? Càng nghĩ, nỗi lo trong Ngọc càng lớn lên. Trong giấc ngủ chập chờn, Ngọc thấy hình ảnh một đoàn người, hình như có cả cha, cả mình, chân tay xiềng xích đang lết từng bước trên đường dài bất tận. Trong đầu nặng trĩu, Ngọc chìm dần vào giấc ngủ.

Ngọc choàng tỉnh bởi những tiếng rền như tiếng sấm. Từng loạt bom nối nhau nổ. Ngọc lăn vào hầm chữ A vẫn thấy đất chao đảo. Hình như có một gã khổng lồ chân chữ bát đang chạy, mỗi bước chân của hắn đạp vaò vách núi, khiến vách núi rung lên và phát ra những tiếng nổ long trời. Bom B52. Từ khi vượt đèo Mụ Giạ, Ngọc đã nhiều lần được nghe tiếng rền của bom B52, nhưng đây là lần đầu tiên anh nằm giữa vệt bom. Tiếng nổ, tiếng cây đổ rào rào, khói bom khét lẹt xộc vào hầm. Ngọc thấy hai tai đau nhức. Bên cạnh anh, Pính cũng ho sặc sụa. Sau chín loạt bom, tưởng đã yên, nào ngờ thêm chín loạt nữa mới hết trận bom. Dứt tiếng bom, một không khí yên lặng đáng sợ bao trùm. Ở đâu đó xa lắm, ngọc nghe tiếng súng báo thương vong. Tiếng người sỹ quan tác chiến:
- Có ai việc gì không?
Từ các căn hầm, tiếng đáp: “chúng tôi an toàn” vọng ra. Rồi mọi người lục tục ra khỏi hầm. Sở chỉ huy công trường tan hoang, cây cối đổ ngổn ngang. Ba quả bom rơi vào khu cơ quan mà không quả bom nào trúng hầm, thật may mắn.
Theo phương án tác chiến đã vạch trước, mọi người xuôi theo suối Ra Vơ đến vị trí dự phòng. Suối Ra Vơ hôm qua cây cối tươi xanh là vậy, hôm nay đã hoang tàn xơ xác. Đất từ hố bom trong lòng suối bật lên, từ hố bom trên sườn núi sạt xuống. Cây đổ chắn ngang lòng suối. Nước suối đục ngầu, đoàn người đi chốc chốc lại ngập tủm xuống hố bom. Lúc thì chui, lúc thì trèo qua các cây đổ. Quần áo, ba lô, tư trang của ai cũng sũng nước, bê bết bùn. Vất vả vậy, lại căng thẳng vì không biết liệu B52 có đánh trở lại không, nên mọi người nhanh chóng thấm mệt.

Đi chừng một giờ đông hồ, họ ghé vào một đơn vị bạn nghỉ chân. Đó là một đại đội của Tiểu đoàn 73 vác ống. Qúa nửa đại đội ra tuyến vác ống. Gần hai mươi người thương vong trong trận bom sáng nay. Những người sống hầu hết ra tuyến cáng thương binh vào Đội điều trị và mai táng tử sỹ. Số ở nhà đang nấu cơm. Giữa mùa mưa, củi ẩm, bếp Hoàng Cầm lại làm vội nên khói bốc lên khá dày. Chiếc Tàu càng lượn vài vòng rồi bắn xuống mấy quả đạn cối. Không thấy trận oanh tạc tiếp theo của máy bay cường kích. Nhưng một mảnh đạn cối đã găm vào lưng Chính trị viên đại đội. Bốn chiến sỹ lập tức cáng anh đến đội điều trị. Nhóm của Ngọc đi cùng, tiện thể giúp thêm khi họ cần. Chính trị viên đại đội chắc đau đớn lắm. Anh nghiến răng, lăn lộn trên võng. Đi được một đoạn, anh nói rất to bằng giọng Miền Nam khàn đục: “Các đồng chí ơi. Tôi không thể qua khỏi được đâu. Các đồng chí đừng nản chí nhé. Bác mất rồi, nhưng còn ****, còn quân đội, hãy dũng cảm chiến đấu, chúng ta nhất định thắng. Nhớ nhé, đừng nản chí...”. Mặc cho mấy chiến sỹ khuyên can, anh vẫn gào lên. Tiếng gào như nhắn gửi, nhưng tiếng gào hình như cũng làm anh vợi cơn đau. Rồi tiếng gào ấy yếu dần cho đến khi tắt hẳn. Người chính trị viên đại đội đã trút hơi thở cuối cùng. Mộ anh được đặt trong nghĩa trang của Đội điều trị, bên dòng suối Ra Vơ đang ngầu đục chảy.

Bức ảnh Hồ chủ tịch với dải băng tang chéo trên góc trái được treo trang nghiêm giữa phòng họp. Bên dưới là một dải băng đen chữ trắng: Vô cùng thương tiếc Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Một vòng hoa nhỏ kết bằng những bông hoa rừng. Một mảnh trầm đang nghi ngút khói. Từ khi bác mất đến giờ, hôm nay Ngọc mới được vái lạy trước bàn thờ. Nhân viên trong đội điều trị mấy hôm trước chưa hết bàng hoàng vì tin Bác mất, đã phải đón nhận từng đợt thương binh sau những trận B52 đánh vào đường ống. Trông ai mắt cũng trũng sâu. Có cô y tá cứ quỳ xuống, ôm lấy bàn hờ Bác mà khóc nấc. Nỗi đau cả tinh thần và thể xác hiện hữu mọi chỗ trong đội điều trị này.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Khi Ngọc và nhóm Tiền phương đến địa điểm dự phòng thì mặt trời đang khuất dần sau đỉnh núi. Mọi người tranh thủ mở đồ đạc ra phơi, mong tranh thủ được những tia nắng cuối cùng trong ngày. Tất cả đều ướt. Cái hăng gô đựng đường, sữa bột, thuốc lá tiêu chuẩn ngày Quốc khánh và cả mấy viên thuốc sốt rét dự phòng, giờ đã trộn với nhau. ngâm trong nước thành một thứ sền sệt, như một hăng gô cháo có sợi thốc lá lẫn với các bao, giấy gói. Thật may cho Ngọc. Những lá thư nhà và cuốn sổ lưu bút của thày giáo, bạn bè được gói kỹ trong túi ni lông hầu như không ướt. Dưới tia nắng cuối cùng trong ngày, Ngọc đọc lại dòng lưu bút của thày Đỗ Thiên, người thày giáo dạy anh từ hồi cấp một ở trường Quế Lâm. Hồi đó, anh là cậu bé nhỏ nhất lớp, Khi nào liên hoan văn nghệ, thày Chủ nhiệm Đỗ Thiên thường giao cho đóng con thỏ, con gà con. Tuy vậy, vì nhỏ nên hay bị mấy bạn lớn bắt nạt. Vào một buổi tối, khi cả lớp đã ngủ, có ai đó vỗ vào vai Ngọc. Thày Thiên. Thày khẽ nói vào tai Ngọc: “Em dậy nói chuyện với thày một lát”. Hai thày trò đi dưới ánh đèn se lạnh đầu đông. Lúc đó, Ngọc mới biết hôm ấy là sinh nhật thày, thày tặng cậu học trò nhỏ một tấm bưu thiếp thơm phức với một bông hoa màu tím nhẹ nhàng. Thày nói: “ Em tuy nhỏ nhất lớp, nhưng thày thấy em là một học sinh nhiều triển vọng. Em hãy tự tin và vững vàng thì chẳng ai bắt nạt được em...” Cuối năm ấy, thày trò chia tay nhau ở ga Nam Ninh. Từ ngày đó, Ngọc luôn mang theo bên mình dòng lưu bút cảm động của thày: “Thỏ con ơi, thỏ con có biết thày nhớ nó lắm không. Nước mắt của thày nó đang chảy vào quả hồng trong lồng ngực của thày đấy. Thỏ ơi, mai ngày Thỏ sẽ vào rừng tự kiếm ăn. Mình cứ quyết tâm và luôn đoàn kết với các bạn thì sẽ vượt qua mọi khó khăn thôi. Thày tin ở sự trưởng thành và tiến bộ của em”. Nếu trong đời, có một ai đó là người đầu tiên cho bạn sự tự tin và vững vàng trong cuộc sống , thì với Ngọc, đó là thày Đỗ Thiên. Ngọc nhìn dòng suối đang cuồn cuộn chảy, nhớ đến dòng chữ dưới chân dung Bác “Toàn dân đoàn kết xung quanh ****, toàn **** đoàn kết xung quanh Ban chấp hành Trung ương...”. Rồi bên anh lại văng vẳng tiếng nói đau đớn của người Chính trị viên đại đội: “Đừng nản chí nhé, Bác mất rồi, nhưng còn ****, còn quân đội, chúng ta nhất định thắng...”. Ngọc ngoái sang nhìn mấy người bạn đang dũ đồ đạc. Có người dang giặt bộ quần áo bết bùn đất sau một ngày vất vả. Không hiểu họ có biết anh chàng kỹ sư đã có phút chao lòng khi nghe tin Bác mất không. Họ có thấy sự ngượng ngùng trên khuôn mặt hắn vì ân hận và xấu hổ không, Bây giờ thì Ngọc mới thấm thía điều cha anh thường nói: “Bản lĩnh của con người được thể hiện ở những phút hiểm nghèo nhất”


Đội hình của Công trường bộ 181 xuất phát lúc sương chưa tan. Đường hành quân đi theo trục tuyến ống. Họ vượt qua đèo 700, rồi 400. Đến suối Ra Vơ thì đi theo đường mòn dựa vào lòng suối. Con đường mòn lúc đi bờ trái, lúc sang bờ phải, có lúc lại lội ngay giữa lòng suối. Hôm nay trời nắng đẹp, cuộc hành quân xem ra thuận lợi.
Vài tháng nay, Quang lăn lộn trên tuyến chỉ đạo thi công nên thuộc đường. Bởi vậy, anh được giao nhiệm vụ đứng ở ngã ba chỉ đường cho mọi người, và sẽ là người chốt hậu. Đường dốc. Quân của công trường già trẻ, nam nữ có cả. Lính kỹ thuật, lính hậu cần đồ đạc lỉnh kỉnh, nên đội hình không thành một mạch. Quang phải ngồi ở ngã ba chờ từng tốp đi qua. Yên tĩnh quá. Trời xanh ngắt điểm mấy đám mây được nhuộm hồng bởi ánh bình minh vừa ló rạng. Lá rừng xanh, giữa mùa mưa càng xanh ngút ngát. Vài hố bom, rốc két rải rác đây đó. Đây là dấu vết của những trận oanh tạc gần đây. Thường vượt qua đèo 700 là bắt đầu nghe tiếng gầm rít của máy bay phản lực, tiếng bom, tiếng đạn, hoặc chí ít là tiếng vo ve chết chóc của những chiếc tàu càng. Sao sáng nay yên tĩnh thế. Sự yên tĩnh thái quá như thế này trên Trường Sơn thường báo hiệu điều chẳng lành. Quang quan sát địa hình. Đây là lòng con suối cạn, toàn đá cuội. Nếu có bom, những hòn đá cuội to bằng quả cam, quả bưởi kia mà tung lên trời, rồi rơi xuống đầu thì phiền toái lắm. Nghĩ vậy, Quang đi dịch lên phía trước, nơi ấy có chỗ ngồi, và có những tảng đá lớn để ẩn nấp.
Quang chưa kịp đặt ba lô xuống, thì bỗng nhiên đất trời chao đảo. Những tiếng nổ đinh tai nhức óc chát chúa bốn bề. Bom rồi. Quang nhoài người vào phía dưới một tảng đá lớn. Không gian tối mù mịt, sặc sụa khói bom. Những tiếng nổ nối nhau rền vang như sấm, rồi im hẳn. Quanh định đứng dậy thì nghe tiếng thét của trưởng ban tác chiến công trường: “B52 đấy, nó còn đến, mọi người ở yên tại chỗ, tìm chỗ trú ẩn”. Bây giờ thì có thể bình tĩnh tìm chỗ ẩn náu tốt hơn. Đầu có mũ cối, lưng có ba lô, còn chân thì đành thò ra ngoài, phó thác cho may rủi. Quả nhiên, lát sau bom lại thi nhau nổ, nhưng có vẻ dịch xa về phía hạ lưu vì đất đá hầu như văng từ phía đó tới.

Sau vài phút yên tĩnh, mọi người đứng dậy. Trời đất. Cả đội hình hành quân của công trường lọt vào giữa vệt bom B52. Thung lũng Ra Vơ bây giờ đã lồi lõm, xơ xác. Bom rơi trúng tuyến ống, bom rơi vào đường mòn, vào lòng suối. Cái ngã ba suối đầy đá cuội, nơi Quang đứng bây giờ là một hố bom sâu hoắm. Dù không mê tín, nhưng Quang cũng cảm thấy có một cái gì thần bí, như có ai mách bảo để mình tránh khỏi chỗ ấy. Tảng đá nơi Quang nấp chỉ cách hố bom vài chục mét, mà Quang không bị sức ép. Tiếng trưởng ban tác chiến ra lệnh: Hết bom rồi mọi người khẩn trương xem có ai thương vong không.

Quang cùng mấy người đi về phía hạ lưu suối. Có lẽ những người đi đầu đội hình cách anh không xa. Được mấy bước chân, Quang thấy cậu Thắng, một chiến sỹ thông tin đẹp trai, hát hay và vui nhộn đang ngồi dựa vào một tảng đá, lưng đeo ba lô, vai vắt bao gạo, vai kia quàng máy điện thoại, chân buông thõng xuống khe nước đang chảy róc rách. Thắng ngồi trong tư thế ngay ngắn, mắt nhắm nghiền. Chắc cậu ta bị ngất vì sức ép. Mọi người xúm vào hô hấp nhân tạo, hà hơi cho Thắng. Mãi và vẫn không thấy Thắng tỉnh lại, cảm thấy người Thắng lạnh khác thường, cô Bình y tá ngờ ngợ, chợt cô phát hiện trên đầu Thắng có một vùng tóc ươn ướt. Bới ra mới phát hiện một mảnh bom găm vào đầu. Chắc cậu ta chết ngay tại chỗ.

- Anh Lê Khôi đâu?- Trưởng ban tác chiến lo lắng hỏi.

- Tôi thấy anh ấy chạy ngược về phía công trường ngay sau loạt bom đầu. Anh ấy đi trong tốp cuối.

- Thế mà cũng gọi là sỹ quan học Liên Xô, Trung Quốc về đấy.- Ai đó mai mỉa.
- Đừng nói vội vàng thế. Mà có thể thật thì cũng đừng ngạc nhiên. Lần đầu gặp bom B52 mà. Kiểm tra xem, hay là anh ấy bị làm sao rồi.

Trưởng ban tác chiến là một người lính trận mạc thực thụ. Xem ra trận bom này đối với anh là một sự kiện hết sức bình thường. Anh bình tĩnh điều hành việc cứu chữa thương binh và chôn cất tử sỹ:

- Quang, cậu thuộc đường hơn mọi người, hãy cùng cô Bình y tá đi lên phía trước xem còn ai không. Người đi đầu chắc chỉ cách đây vài ba trăm mét thội. Những người còn lại chuyển thương binh về sở chỉ huy công trường. Đây mới là trận B52 đầu tiên, sẽ còn những trận khác nữa.

Quang cùng cô y tá để ba lô lại ngã ba suối, đi tiếp về phía hạ lưu. Lính tiểu đoàn 73 cũng đang cứu chữa thương binh và khắc phục hậu quả. Hai đại đội đang vác ống bị rơi vào vùng dày đặc nhất của bom nên thương vong chắc cũng nhiều. Những thi thể chiến sỹ nằm giữa đường mòn, vắt trên những thân cây, tảng đá. Người họ bầm dập, bê bết bùn đất. Những người lính tiểu đoàn 73 đang rất khẩn trương gom xác tử sỹ để chôn cất.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Đi một quãng phải vượt qua một con suối, suối chỉ rộng mươi mét nhưng nước sâu. Mọi lần đến đây Quang thường cởi quần áo lội qua, giữa suối có chỗ sâu ngập đầu. Bình ngần ngại: “Anh ơi em không biết bơi, làm thế nào bây giờ?” Lúc này Quang mới để ý, cô ấy chỉ thấp hơn mình một chút nhưng béo tròn. Bộ quần áo đen cô mặc trên người dường như căng ra ở mọi chỗ. Mình mảnh mai thế này mà cõng cô bơi thì chắc chìm nghỉm mất. Quang nhặt một cành cây đưa cho Bình:

- Cậu nắm lấy một đầu, tớ sẽ dắt cậu qua suối. Chỗ nào ngập đầu thì cố nhịn thở nhé.

Bình đồng ý. Quang đưa túi thuốc sang đặt ở bờ bên kia, rồi quay lại đón Bình. May quá, đoạn ngập đầu chỉ vài ba mét. Quang đi trước cầm một đầu gậy. Bình cầm đầu kia lội theo sau. Cô đi khá quả quyết. Nước ngập dần đến thắt lưng, đến ngực, đến cổ, rồi Bình hít một hơi thật dài khi nước khi ngụp đầu xuống nước. Trên mặt nước chỉ còn mái tóc dài bồng bềnh. Khi cả khuôn mặt tròn của cô gái nhô lên khỏi mặt nước, Quang mới thở phào nhẹ nhõm. Nói dại lỡ cô ấy làm sao thì mình biết xoay sở thế nào đây.

- Cậu khá lắm- Quang động viên.
Bình nhoẻn cười:

- Có anh đây em còn lo gì nữa.

Họ cùng nhau đi tiếp cho đến khi Quang ước lượng người đi đầu không thể đến đây trước khi bom đánh, thì hai người quay lại.

Khi họ về đến ngã ba suối cạn, đơn vị đã rút đi cả, chỉ còn một chiếc đòn khiêng, buộc võng cáng thương binh và hai cậu lính trẻ ngồi chờ. Nằm trên cáng là Hoàng Trần chủ nhiện chính trị công trường. Ông nằm lim dim mắt. Phần hông quấn kín băng, máu thấm đỏ ở sườn bên phải.

- Thủ trưởng nặng quá hai chúng em phải chờ anh về trợ giúp mới đưa thủ trưởng đi được. Một anh lính giải thích.

- Rõ rồi. Chúng ta lên đường thôi.
Họ khoác ba lô đi ngược về phía đỉnh đèo 700. Ba người luân phiên nhau khiêng ông Hoàng Trần. Ông Trần to béo, nằm trên cáng, không ngớt kêu đau. Những lúc cái võng quệt xuống đường, ông kêu càng to. Đến một chỗ, cái cây bị bom đánh, đổ chắn ngang đường, mấy anh em hô nhau nâng cái đòn khiêng lên trên đầu, nhưng vì cái cây to quá nên cái võng vẫn bị quệt khá mạnh vào thân cây. Ông Trần quát lên:

- Các cậu đi kiểu gì vậy, phải đi cho cẩn thận chứ. Đi thế thì thà giết tôi đi còn hơn.

- Thủ trưởng thông cảm, cái cây to quá nên khó tránh được.

- Khó? Khó thì phải tìm cách khắc phục chứ. Cậu là dân kỹ thuật mà cứ thấy khó bó tay thì còn làm ăn gì!

Quang không nói gì nữa. Anh cảm thấy cái đòn khiêng trên vai nặng lên gấp bội. Ông ta là cán bộ kháng chiến chống Pháp mà sao chịu đựng kém thế. Nhưng thôi. Khi đau đớn có thể thông cảm được. Điều không thể thông cảm được là sự xúc phạm vô lối. Mình mà bị thương, nhất định sẽ phải cứng rắn hơn ông Trần này. Quang tự nhủ.

Đến một nơi có hai chạc cây có thể đặt đòn khiêng, cả nhóm dừng lại nghỉ. Từ đây, nhì xuống, có thể thấy toàn cảnh bãi bom B 52 kéo dài đến khúc quanh của suối Ra vơ. Mọi người đều như kiệt sức. Quang quay sang Bình.

- Trong túi cậu có polivitamin không, Phát cho mỗi người mấy viên nhai cho lại sức.

- Có, nhưng em xuất thuốc phải có lệnh của bác sỹ.

- Cứ phát cho mọi người đi. Tớ chịu trách nhiệm. Cậu không thấy thủ trưởng Trần mệt thế nào à?

Khi đã viện đến thủ trưởng thì Bình yên tâm hơn.Cô phát cho mỗi người mười viên thuốc. Chưa bao giờ Quang thấy những viên thuốc tròn tròn màu vàng lại ngọt lịm đến vậy. Ông Trần cũng nhận thuốc, lim dim mắt chậm rãi nhai.

- Cậu có thể tiêm cho mỗi người một ống vitamin B1 để tăng lực không? Anh em mệt, không cáng được thủ trưởng đâu.

- Vâng, nhưng không có nước luộc kim tiêm và xi lanh, lọ cồn thì bị vỡ khi bom đánh rồi.
- Quang ngần ngừ giây lát rồi tặc lưỡi:

- Không sao đâu, ở đây khô thoáng, ít vi trùng, cứ lấy bông lau xi lanh và kim tiêm là được .

Bình làm theo, tiêm cho mỗi người một ống B1 rồi tự tiêm cho mình một ống. Ông Trần từ chối: “ Thôi tôi không cần đâu”.

Qua đỉnh đèo 700, họ gửi ông Trần vào một trạm xá của Công binh. Quang và Bình trở về công trường. Lúc này Quang mới có thời giờ ngắm kỹ cô gái: Người bê bết bùn đất, mái tóc bung ra từ khi lội suối, giờ rối bù, quần ống cao ống thấp. Dù xinh đẹp mấy thì bộ dạng này cũng không thể làm các chàng trai để ý được. Rồi Quang nhìn lại mình. Nào có hơn gì đâu. Cũng quần ống cao ống thấp, bê bết bùn đất, mặt mũi nhem nhuốc, có ai nhận ra nước da trắng hồng thư sinh nữa đâu.

- Không được, chúng mình không thể trở lại cơ quan như thế này được, thất thểu chẳng khác gì kẻ thất trận. Ngày thường trông cậu đâu đến nỗi nào, không thể để bọn con trai coi thường được.

Bình đồng ý ngay. Hai người ra suối rửa mặt, gột những chỗ lấm bùn đất trên quần áo. Bình gội đầu, lấy gương lược chải lại tóc. Họ vuốt lại những nếp nhăn qua một ngày vất vả. Họ sánh đôi vui vẻ về cơ quan trong tiếng chào hỏi của mọi người. Riêng Lê Khôi phải đến tối mịt Quang mới gặp. Khôi bắt tay Quang và chào gượng gạo. Quang tránh không nói đến chuyện Khôi vắng mặt lúc mọi người cứu chữa thương binh sáng nay. Anh nhớ tới lời trưởng ban tác chiến: “có thể thật thì cũng đừng ngạc nhiên. lần đầu gặp bom B52 mà”.

Tổ cán bộ tham mưu và kỹ thuật cùng chỉ huy trưởng công trường đi kiểm tra lại tuyến ống. Hơn ba cây số bom chồng lên bom. Tuyến ống coi như bị phá hủy hoàn toàn. Những chiếc ống bị chọc thủng, cắt đứt, bẻ queo, bẹp méo, ống bị giật tung văng vãi trên triền núi, dưới lòng khe. Kho bể cao su ở Q3 cũng bị đánh nặng nề. Hầu hết hầm chứa bể cao su bị sập, một số đã cháy. Đại đội quản lý kho có ba người hy sinh khi đang làm nhiệm vụ, một số bị thương.
Trên tấm bản đồ tuyến ống mới hôm nào còn đi giữa rừng đại ngàn, hôm nay đã chi chít những khoanh hình bầu dục với gạch chéo màu xanh thể hiện vùng bị đánh phá. Bom không chỉ phá hủy đoạn tuyến dọc suối Ra vơ mà còn đánh dọc theo bờ bắc sông Sê Bang Hiêng, nơi tuyến dự kiến sẽ đi qua để đến bản Cọ.

- Không thể đâm đầu vào khu vực này được nữa. Tuyến lộ rồi, chúng nó chà đi xát lại suốt ngày, đường mòn đi còn khó, nói gì đến đường ống dẫn dầu.- Đặng Văn Thế cầm bút chì đỏ vẽ một tuyến dịch lên yên ngựa phía trên cao, vượt sang phía nam, rồi lựa theo địa hình đi sát chân núi- Ta sẽ tránh theo tuyến này. Ngày mai lên đường ngay. Câu Sinh chỉ huy tổ khảo sát, Thanh và Ngọc phụ trách kỹ thuật, nhớ cho y tá và vài chiến sỹ đi cùng để hỗ trợ.

Sinh là một trung úy người miền nam. Dáng cao gầy, lính chiến thực thụ. Trên địa bàn ác liệt này, những chuyến khảo sát không thể để mấy cậu kỹ sư mới ra trường chỉ huy được. Họ chưa qua chiến đấu, thêm nữa họ lại chưa có danh phận gì, chỉ là kỹ sư ăn lương tập sự, chưa được phong quân hàm. Tổ khảo sát có bảy người, ngoài Sơn, Thanh, Ngọc, còn cậu Thiều y tá và ba lính trẻ. Trong ba cậu lính trẻ, Lập là một cậu bé thật đáng yêu. Mắt đen láy, nước da trắng, dáng người dong dỏng. Những buổi liên hoan văn nghệ cậu ta toàn phải đóng con gái. Hắn vào vai rất dễ thương, xuống sân khấu rồi mà vẫn có người bẹo má.

Đoạn vượt yên ngựa Tuyến tránh phải phát rừng cắt theo phương vị, Nhưng phía nam yên ngựa địa hình bằng phẳng có thể đi theo đường mòn qua các bản cũ. Rồi tuyến đi gần con đường ô tô mới mở. Mùa mưa gần như không có xe chạy, một số cây con đã bật chồi hai bên đường.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Một chiều, Sinh cho dừng lại bên một dòng suối nhỏ. Ở đây cây còn xanh. Chắc là nơi ở cũ của một đơn vị đảm bảo giao thông vì có một số nhà âu liền hầm chữ A. Ở Trường Sơn mà có một chỗ nghỉ như thế này thì lý tưởng quá. Nhà âu đã có khung bằng tre phía trên, chỉ việc lợp tăng lên là không còn lo mưa. Căn nhà âu có một cái sạp đủ cho ba bốn người nằm. Nếu có động thì từ sạp nằm có thể lăn vào hầm chữ A ngay cạnh đó. Sinh, Thanh, Ngọc và Lập ngủ một nhà , cậu y tá và hai lính ngủ bên kia.

Sau bữa cơm chiều trời đã tối hẳn. Ngọc thắp ngọn đèn dầu ai đó đã để sẵn trong một hốc của nhà âu. Đây chắc là hầm chỉ huy đơn vị, vì liền với hốc đèn là một cái bàn nhỏ. Lâu lắm mới có chỗ ngồi học lý tưởng như thế này. Ánh sáng từ hốc chỉ đủ soi mặt bàn làm việc, không thể lọt ra ngoài. Ngọc lấy sách tiếng nga ra học. Những buổi như thế này thì học bài khóa và ngữ pháp. Còn từ mới thì vừa đi đường vừa học. Sau một ngày vất vả, thêm nữa, sau trận B52 hai tai anh thường đau, khó chịu, chỉ học một lúc là thấy mệt. Ngọc tắt đèn ngả lưng. Có tiếng máy bay ì ì đâu đó. Rồi bỗng một tiếng nổ long trời. Một chùm sáng chói lòa ập xuống. Đất đá rào rào, tiếng cây đổ kêu răng rắc. Ngọc choàng dậy, lao vào hầm chữ A. Đâu phải mình anh, cả mấy người đều lao vào, những cái đầu và vai chạm vào nhau nên không ai vào được trong hầm. Trong một tích tắc, ai cũng cảm thấy mình phải lui ra cho người khác vào trước. Nhưng chỉ tích tắc thôi, với bản năng sinh tồn, họ lại lao vào. Lại đụng nhau phải đến lần thứ ba cái sự nhường nhau mới thành công. Chỉ có ba người trong hầm, tiếng Lập thảnh thốt: “ Các anh ơi em bị rồi”. Cả ba lao ra. Trời ơi. toàn bộ thịt bên dưới đùi của Lập đã bị bom cắt bay. Máu và thịt tung tóe khắp sạp. tiếng máy bay đã hoàn toàn im ắng. Đây là loạt bom tọa độ. Cậu Thiều y tá lao sang, phải gần hết số băng mang theo mới băng được đùi cho Lập. Thanh cũng cảm thấy nhói đau. Một mảnh bom nhỏ đã găm vào cánh tay, máu bắt đầu rỉ ra. Sinh bị nhiều vết bầm tím do đá và cành cây văng vào và cảm thấy tức thở. Riêng Ngọc còn nguyên vẹn, chỉ có vài vết bầm tím trên tay trên ngực.

Ngọc bắn ba phát súng chỉ thiên báo hiệu. Mười lăm phút sau có ánh đèn pin ở bên ngoài hầm.
- Có người bị thương phải không?

- Vâng. Ba người. Một người bị nặng. Bệnh xá gần đây không?

- Chúng tôi là công binh đảm bảo giao thông. Bệnh xá phải mất hai giờ. Một người có lẽ là chỉ huy nói.

- Nhìn thấy Lập vẫn nằm thiêm thiếp, máu ướt sũng băng anh nói:

- Phải đưa đi ngay. Tôi sẽ gọi bác sỹ từ bệnh xá đến. Chúng ta sẽ gặp họ giữa đường may ra cứu thương binh mới kịp.

Cả tổ khảo sát thu dọn đồ đạc lên đường. Tội nghiệp Lập quá. Trời bắt đầu mưa, cơn mưa rừng quái ác như quất vào mặt những người cáng thương. Tấm tăng phủ lên đòn khiêng không biết có đủ che cho em khỏi ướt không. Tiếng Lập thều thào: Các anh ơi em lạnh quá.

Ngọc dỗ dành: chịu khó Lập ơi sắp đến trạm xá rồi. Chừng một giờ sau, hai người từ trạm xá gặp đoàn cáng thương. Họ vào trong một lán nhỏ, đêm tối như mực, viên bác sỹ quân y bấm đèn pin, hỏi:

- Máu ra nhiều quá, có ga rô không?

- Tôi có. Cậu Thiều đáp.

Bác sỹ lần lên phía trên đùi Lập.

- Ga rô chưa đủ chặt nên mất máu, xương bị dập nát. Thương binh bao nhiêu tuổi rồi?

- Mười chín

- Em ơi, em thấy trong người thế nào?

Không có tiếng trả lời. Viên bác sỹ vỗ nhẹ vào vai Lập và nói to hơn. Em có đau không? Vẫn không có tiếng trả lời, ông lo lắng kéo mi mắt của Lập lên soi đèn pin xem đi xem lại và thở dài:

- Cậu ấy chết rồi. Chắc do mất máu và choáng. Thôi, để tử sỹ lại đây ngày mai chôn cất. Hai thương binh khác theo tôi về trạm xá ngay kẻo lũ lên sẽ không kịp.

Sinh giao cho Ngọc ở lại lo chôn cất Lập. Mưa càng ngày càng dữ dội, chẳng mấy chốc sau khi họ đi, dòng suối trước lán nhỏ đã réo ầm ầm. Ngọc lấy chăn đắp lên người Lập:”Em còn lạnh không? Chịu khó đến sáng mai nhé”. Chắc trước khi chết nó lạnh và đau đớn lắm. Ngọc nằm xuống cạnh Lập, và chính mình cũng bắt đầu cảm thấy như kiệt sức. Anh chìm vào giấc ngủ.

Tiếng rít của máy bay đánh thức Ngọc dậy. Đã hơn tám giờ, mưa đã tạnh, nước đã rút. Lập vẫn nằm như thiêm thiếp ngủ. Ngọc bỏ tấm đắp khỏi người lập, khẽ nâng hai tay cậu bé. Anh cảm thấy đôi tay đó không muốn khép lại. Ngọc khéo mạnh để đặt hai tay của Lập sát người, có như vậy mới đặt Lập được vào áo quan được. Khi anh thả tay ra, đôi tay ấy như có lò xo lập tức bật trở lại vị trí cũ. Một cảm giác sợ hãi thoáng chạy suốt xương sống Ngọc. Đây là lần đầu Ngọc khâm niệm người chết nhưng chỉ một thoáng thôi Ngọc định tâm lại. Lập nằm đó bình thản và dễ thương quá. Anh lấy dây quấn chặt để hai tay và hai chân Lập khép lại, Ngọc vuốt lại tóc và quần áo cho cậu bé.

Ba người lính công binh mang theo cuốc xẻng và mấy tấm ván. Ngọc cùng họ lấy chăn và tăng liệm cho Lập. Thương quá. Em ngây thơ xinh trai thế, hôm qua còn ríu rít mà hôm nay đã không còn được sống trên đời. Rồi những vòng dây võng buộc quanh mình, lúc ra đi em cũng không được thoải mái. Khâm liệm cho Lập, nước mắt Ngọc cứ trào ra.

Mấy anh lính công binh đào một cái huyệt, lót một tấm ván đặt Lập lên đó rồi chèn hai tấm ván hai bên. Đầu và chân chèn hai nắp hòm bọc phá. Rồi đặt tấm ván thiên lên trên. Vậy là Lập được mai táng coi như có áo quan. Ở chiến trường được chôn cất thế là chu đáo lắm. Khi những lớp đất lấp lên tấm ván thiên, Ngọc bỗng cảm thấy nghẹn lòng. Đây là lần đầu anh chôn đồng đội. Nhưng sao lại là một cậu bé trẻ tuổi, hiền như con gái thế này. Nước mắt Ngọc cứ chảy ròng ròng không sao kìm lại được. Một anh lính công binh hỏi:

- Tử sỹ là thế nào với ông?

- Đồng đội.

- Trời ơi. Ở đây ngày nào cũng có người chết. Cứ mỗi lần có đồng đội chết mà khóc như ông thì còn đánh đấm gì nữa.
Ngọc gật gật đồng tình mà vẫn không sao kìm được tiếng nấc.

Mấy ngày sau, Ngọc trở lại thăm mộ Lập, không còn lại dấu vết gì nữa. B52 đã xới tung khu vực này. Nơi Lập nằm cùng một số ngôi mộ khác giờ đã là miệng của những hố bom chồng lên nhau. Cuộc chiến tranh này tàn khốc quá. Nó có thể bắt con người ta chết nhiều lần. Lập ơi, quê nhà em ở làng nào của tỉnh Hà Nam. Mai đây nếu chiến tranh kết thúc thì cha mẹ em có muốn cũng không thể tìm được nắm xương đứa con trai yêu quý của mình. Ngọc bẻ một nhành cây cắm lên miệng hố bom: “Cầu mong linh hồn của em và những người bạn nằm đây được siêu thoát”.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Sau lễ truy điệu Lập, Ngọc lên cơn sốt rét. Vào Trường Sơn, sốt rét là nghĩa vụ. Mùa mưa có khi ba phần tư quân số sốt rét. Sốt rét cộng thêm hai tai đau nhức, Ngọc run lập cập, hoa mắt, nôn mửa, chân không đứng vững. Loại sốt rét này lạ thật, mỗi ngày vài giờ, cơn sốt đến chính xác như một cái đồng hồ. Khi không sốt, Ngọc có thể tranh thủ đọc sách, học tiếng nga, tiếng Lào, thậm chí vào rừng hái rau về cải thiện, nhưng phải về trước giờ lên cơn, nếu không lại phải phiền bạn cõng về hầm. Sinh, Thanh và Thiều cũng đã trở về. Sinh bị sức ép nhẹ, Thanh chỉ bị phần mềm, bác sỹ đã gắp được mảnh bom to bằng hạt đỗ xanh, tay vẫn còn buộc băng trắng xóa. Tuyến họ khảo sát, tiểu đoàn 73 và 66 bắt đầu phát tuyến thì B 52 lại chà xát tan tành. Bom lá rải dầy đặc lên tuyến. Con số thương vong ngày một tăng. Đặng Văn Thế quyết định cử một tổ khảo sát khác đi tìm tuyến mới. Tổ khảo sát này chỉ huy là Tường, một cán bộ công binh, nổi tiếng là chuyên gia phá bom trên đảo cồn cỏ. Sinh cùng đi để nghiên cứu tình hình đánh phá của địch. Kỹ sư Danh phụ trách kỹ thuật, Y tá Thiều, Dũng và ba chiến sỹ. Họ vượt đèo 700 cắt ngang qua suối Ra vơ, nhằm vào một yên ngựa.

Tường là một người đàn ông lực lưỡng, mặt vuông chữ điền, nước da ngăm ngăm, giọng nói trầm và sang sảng thường thấy ở dân miền biển Quảng Bình. Một đêm nghỉ giữa rừng, Danh mắc võng bên cạnh Tường. Hai người nói chuyện rông rài, từ chuyện phiếm đến chuyện mấy o ở Quảng Bình, rối đến chuyện cuộc sống.

- Trước khi về công trường 181 anh ở đâu?

- Ở đảo Cồn Cỏ - Lính công binh bom mìn. Mình chuyên phá và tháo bom nổ chậm. Nhất là ở cảng và các con đường tuần tra trên đảo.

- Rồi sao anh vào đây?

- Xin đi, ở trên đảo tù túng, nghe đài đưa tin chiến sự ở Miền Nam thấy ngứa ngáy chân tay.

- Chí trai! Chí trai! Một là cỏ xanh, hai là đỏ ngực.

- Thôi, đừng nói chuyện đỏ ngực nữa. Trong quân đội đeo đến quân hàm trung úy mà không **** viên thì làm sao tiến bộ được.

Danh ngạc nhiên ngồi nhổm dậy:

[FONT=&quot]- [/FONT][FONT=&quot]Sao? Anh bảo anh không là **** viên? Không **** viên sao lên được trung úy?[/FONT]

[FONT=&quot]- [/FONT][FONT=&quot]Tôi được kết nạp **** tại trận địa trên đảo Cồn Cỏ, do có thành tích và dũng cảm trong chiến đấu, nhưng vài tháng trước bị xóa tên rồi.[/FONT]

[FONT=&quot]- [/FONT][FONT=&quot]Anh bị kỷ luật sao?[/FONT]

[FONT=&quot]- [/FONT][FONT=&quot]Cậu nhìn mặt tôi có giống người hay vi phạm kỷ luật không? Ông tôi chết trong cuộc khởi nghĩa Yên Bái, bác tôi thoát ly hoạt động bí mật, nghe nói chết ở Côn Đảo. Bố mẹ tôi có 5 người con. Đất Quảng Bình nhà tôi bạc màu, quanh năm đói. Một hôm, thương các con cả tuần không được hạt cơm nào, bố tôi liều vào kho lúa của xã xúc trộm một rá thóc. Không may bị dân quân bắt được, nhốt vào đình làng. Khi máy bay Pháp đến ném bom, ông sợ quá phá cửa chạy ra ngoài đồng. Đúng lúc ấy, máy bay vòng lại ném bom tiếp. Lần này bom rơi trúng đình làng. Đấy là nơi đặt trụ sở của Ủy ban Kháng chiến xã. Biết cha tôi chạy ra ngoài đồng, mấy ông dân quân đuổi theo. Họ hô nhau : « chính nó chỉ điểm chỉ cho máy bay đó”. Thương cho cha tôi quá. Người nông dân nghèo khổ, sống chân chất, nên ý thức rằng xúc lúa của xã là tội to lắm. Thấy dân quân rùng rùng đuổi theo, ông chạy. Họ bắn, ông trúng đạn, không bao giờ còn về với chúng tôi nữa. Mẹ tôi ôm xác chồng khóc nấc:” Mình ơi!Thật thà như mình thì biết chi mà người ta nói mình là chỉ điểm hả trời”. Tôi không bao giờ tin cha tôi là chỉ điểm, nên chỉ khai lý lịch là cha tôi chết. Mấy tháng trước có ông ở Ban Chính trị về thẩm tra lý lịch của một cậu cùng xã để kết nạp ****, tiện hỏi thăm về gia đình tôi. Người làm việc với ông cán bộ, không ai khác, chính là thằng bạn tôi ngày xưa. Hắn yêu vợ tôi nhưng không lấy được nên mang hận. Hắn nói với ông cán bộ chính trị: “Lý lịch nhà ông Tường phức tạp lắm, ông nội là Quốc Dân ****, ông bác bỏ làng đi từ lúc còn trẻ, chết một cách không rõ ràng, còn cha thì bị dân quân bắn chết vì chỉ điểm cho máy bay Pháp ném bom ủy ban xã ». Cậu xem nhận xét lý lịch như thế thi coi như đào huyệt chôn cái sinh mạng chính trị của tôi còn gì?[/FONT] [FONT=&quot]Ông cán bộ chính trị về báo cáo nguyên xi cho ông Hoàng Trần. Không cần biết nếp tẻ thế nào, không cần biết tôi đã anh dũng chiến đấu ở cồn cỏ ra sao, ông đập bàn: “Chết thật, chết thật! Cậu ta có lý lịch nghiêm trọng thế mà lại dấu ****. Không thể để người như vậy trong **** được”. Ông gọi tôi lên chất vấn như hỏi cung. Tôi giải thích, nhưng chẳng kết quả gì. Một tháng sau tôi bị xóa tên trong ****. Tôi buồn lắm định đâm đầu vào vách đá mà chết quách cho xong. Nhưng rồi lại nghĩ đến thằng con trai. Nó lớn lên, có khi lại mang một cái tiếng, Cha chết trong chiến tranh chống Mỹ. Cái chết không rõ ràng. Thế là tôi trấn tĩnh lại. Tôi vẫn tin vào sự sáng suốt của ****. Tôi nghĩ : bằng hành động chiến đấu, tôi sẽ chứng minh được sự trung thực của mình. Mặc dù vậy, tôi vẫn tự hỏi: Tại sao người ta không đánh giá tôi qua sự chiến đấu dũng cảm quên mình ở cồn cỏ ? Tại sao lại loại bỏ một người sẵn sàng hy sinh tính mạng phục vụ tổ quốc chỉ vì trong lý lịch của tôi có những người mà tôi chưa bao giờ biết họ”.[/FONT]
[FONT=&quot] Danh không ngờ Tường lại gặp chuyện éo le đến vậy. [/FONT][FONT=&quot]Anh an ủi:[/FONT]
[FONT=&quot]- [/FONT][FONT=&quot]Tôi thực sự chia sẻ với anh. Tôi tin sẽ có ngày người ta hiểu anh thôi.[/FONT]
[FONT=&quot] Chính câu chuyện của Tường làm cho Danh cảm thấy mình được tin cậy. Đêm ấy họ tâm sự với nhau đến tận khuya. [/FONT]

[FONT=&quot]Khi trở về theo lối cũ, đang đi, Tường bỗng dừng lại, dang tay ngăn mọi người. [/FONT]
[FONT=&quot]- [/FONT][FONT=&quot]Phía trước có một quả bom chưa nổ, mọi người lùi lại![/FONT]
[FONT=&quot] Đó là một quả bom lớn, trên đầu nó gắn một cái đồng hồ rất lạ. Có thể bỏ qua quả bom, tránh sang một lối đi khác. Tuy nhiên máu nghề nghiệp trong Tường trỗi dậy. [/FONT]
[FONT=&quot]- Phải tháo ngòi quả bom này, nếu không khi quân mình qua đây sẽ nguy hiểm- Tường quả quyết.[/FONT]
[FONT=&quot] Danh cản:[/FONT]
[FONT=&quot]- Thôi bỏ qua đi anh, phải về để bàn giao tuyến. Anh tháo, lỡ xảy ra chuyện gì thì sao?[/FONT]
[FONT=&quot]- Không sao đâu. Mình có kinh nghiệm rồi mà. Các cậu lùi lại đi.[/FONT]
[FONT=&quot] Sinh nói: [/FONT]
[FONT=&quot]- Anh là chuyên gia bom mìn, tôi đi cùng anh, biết đâu học thêm được một việc.[/FONT]
[FONT=&quot] Danh ái ngại:[/FONT]
[FONT=&quot] - Theo tôi, ta cứ về, lấy quả bộc phá đặt vào, cho nổ là an toàn nhất.[/FONT]
[FONT=&quot] - Không sao đâu mà, các cậu lui lại đi, cách xa ít nhất năm mươi mét.[/FONT]
[FONT=&quot] Danh, Thiều, Dũng và mấy người lính trẻ lui lại, cẩn thận nấp sau những gốc cây lớn. Vài phút im lặng trôi qua. Rồi bỗng “Ầm…”Một tiếng nổ long trời, khói bụi mù mịt cây đổ rào rào. Tấm ni nông Tường khoác bay lên. Có chuyện rồi, mọi người lao lên. Sinh bị bom hất ra xa đập vào cây, toàn thân dập nát, còn Tường dẫy dụa trong vũng máu, hai chân đã bị cắt cụt đến đùi. Danh nâng đầu Tường lên.[/FONT]
[FONT=&quot]- [/FONT][FONT=&quot]Anh Sinh và anh em có sao không?-Tường thều thào[/FONT]

[FONT=&quot]- [/FONT][FONT=&quot]Không sao anh ạ. Anh yên tâm đi. [/FONT]
[FONT=&quot]Thiều và Dũng ga rô cho Tường. Họ khẩn trương cáng hai anh về trạm phẫu thuật. Sinh bị thương quá nặng hình như đã tắt thở, Tường nằm thiêm thiếp trên võng, nước da nhợt nhạt. Đến giữa đường, Danh nghe tiếng tiếng Tường thều thào.[/FONT]
[FONT=&quot]- [/FONT][FONT=&quot]Danh ơi![/FONT]
[FONT=&quot]- [/FONT][FONT=&quot]Dạ có tôi đây anh.[/FONT]
[FONT=&quot]- [/FONT][FONT=&quot]Tôi không qua khỏi đâu, gửi giúp tấm huân chương của tôi về cho thằng con trai, bảo nó phải dũng cảm như bố.[/FONT]
[FONT=&quot]- [/FONT][FONT=&quot]Vâng chúng tôi sẽ gửi tận về nhà anh cho cháu.[/FONT]
[FONT=&quot]- [/FONT][FONT=&quot]Còn nữa, nói **** ủy khôi phục lại đảng tịch cho tôi, tôi bị gạch tên vô lý lắm.[/FONT]

[FONT=&quot] Nói xong câu đó, Tường thiếp đi và không bao giờ còn tỉnh lại. Danh cùng nhân viên đội phẫu thuật mai táng cho Tường và Sinh[/FONT]
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
[FONT=&quot]Mọi người đi rồi Danh tần ngần đứng trước mộ của hai trung úy. Một người từ khi tập kết chưa một lần về lại quê hương. Một người ra đi mà lòng nặng trĩu vì những bất cập trong việc đánh giá con người thông qua lý lich. Bên tai Danh cứ văng vẳng những lời tâm sự của Tường: “Tại sao người ta không đánh giá tôi qua sự chiến đấu dũng cảm quên mình ở cồn cỏ? tại sao người ta lại loại bỏ ra khỏi đội ngũ một người sẵn sàng hy sinh tính mạng phục vụ tổ quốc, [/FONT][FONT=&quot]chỉ vì trong lý lịch của tôi có những người mà tôi chưa bao giờ biết họ”. [/FONT]

[FONT=&quot] Thôi Tường ơi. Anh hãy yên nghỉ. Tôi sẽ làm mọi việc có thể để linh hồn anh được siêu thoát.[/FONT]


[FONT=&quot] Tiểu đoàn 66 và tiểu đoàn 73 lập tức khẩn trương phát tuyến mới theo hướng mà tổ khảo sát của Tường vạch ra. Bom B52, bom sát thương vẫn chà đi xát lại. Số thương vong tăng lên từng ngày. Thêm vào đó, bệnh sốt rét rừng đã làm giảm quân số chiến đấu rõ rệt. Có ngày chỉ một phần ba số người đủ sức ra tuyến. Sau một ngày, tiểu đoàn 66 đã phát được một tuyến mới vượt qua yên ngựa. Tuyến mới phát như một cái ống lớn chạy dưới tán cây rừng rậm rạp, gai góc. Đặng Văn Thế hài lòng, ông tự nhủ:”Chỉ cần vượt qua được yên ngựa này an toàn là có thể thành công. Tuy nhiên, ngay đêm hôm ấy, những trận B52 lại nối nhau cày lên đoạn tuyến vừa phát.[/FONT]

[FONT=&quot] Thế tần ngần trước tấm bản đồ. Địch đánh thế này thì làm sao đây. Hay là “địch cứ đánh ta cứ đi”. Không thể được. Với đường ống dẫn dầu thì chí ít là phải bí mật được tuyến lúc thi công. Lộ tuyến từ khi thi công thì xương máu đổ ra không sao đo đếm được. Ông triệu tập ban kỹ thuật và trưởng ban tác chiến lên. Ban tác chiến có 3 người, đã hy sinh 2. Bây giờ thì phải mạnh dạn giao cho mấy kỹ sư trẻ chủ trì khảo sát. Ngọc đã cắt cơn sốt rét nên có thể đi được. Cậu ta là người xông xáo, lại có kinh nghiệm từ tuyến Hướng Tây.[/FONT]

[FONT=&quot] Trên tấm bản đồ tác chiến, những khoang hình bầu dục ký hiệu khu vực B52 đánh phá cứ ngày một dày lên và dịch dần sang phía tây.[/FONT]

[FONT=&quot]- [/FONT][FONT=&quot]Chúng ta chỉ còn khu vực này. Thế chỉ lên yên ngựa của dãy núi dẫn lên cao điểm 900. Yên ngựa này đã cao hơn điểm vượt ban đầu gần 100m, có vấn đền gì về kỹ thuật không? [/FONT]
[FONT=&quot]- [/FONT][FONT=&quot]Báo cáo máy bơm B3 vẫn bơm vượt qua được độ cao này.-Lê Khôi trả lời.[/FONT]
[FONT=&quot]- [/FONT][FONT=&quot]Để đảm bảo an toàn cho tuyến, tôi đề nghị tăng cường tuần tra mặt đất xem có dấu hiệu của thám báo địch không. Trưởng ban tác chiến nói.[/FONT]
[FONT=&quot]- [/FONT][FONT=&quot]Tôi đồng ý, cần chỉ thị ngay cho tiểu đoàn 66 và tiểu đoàn 73 cử các tổ trinh sát lùng sục tất cả các lối mòn, nhất là các phân thủy, các cao điểm quanh khu vực này. Tôi giao cho đồng chí Ngọc phụ trách tổ khảo sát. Đồng chí Ngọc mới sốt rét dậy đi được không?[/FONT]
[FONT=&quot]- [/FONT][FONT=&quot]Tôi đi được, chúng tôi có thể lên đường ngay ngày mai. [/FONT]

[FONT=&quot]Điều bất ngờ đầu tiên với tổ khảo sát của Ngọc là: chính cái yên ngựa mà Đặng Văn Thế vạch ra trên bản đồ, đã bị B 52 đánh phá tan hoang. Một đoạn dài hàng trăm mét dọc theo phân thủy chằng chịt hố bom, chỉ còn lại những gốc cây bị bom chặt ngang tơ tướp đen đúa trơ trụi trên lớp bột đất đá bị quật từ hố bom lên. Sườn núi dốc tới 60 độ. Để vượt qua bãi bom này chỉ có cách bám chuyền từ gốc cây này sang gốc cây khác. Chỉ cần tuột tay là lăn xuống đáy vực. Ở dưới ấy, dòng suối đục ngầu trông như một sợi chỉ. Ngọc đi đầu. Anh em nối theo sau. Ra đến giữa bãi bom, bỗng cái gốc cây anh bám bật lên. Đó thực ra chỉ là một thân cây đã bị bom chặt hai đầu, bắn tung lên trời rồi cắm xuống lớp đất bột, trông như một gốc cây. Thế là Ngọc lăn trước, cái cây lao theo sau. Lớp đất đá bắt đầu di chuyển lôi Ngọc xuống. Anh quờ tay ra xung quanh, chân cố cày xuống đất mong sao có thể bám vào một vật gì đó để không bị lăn nữa. Trong lúc quờ tay tuyệt vọng, Ngọc đã nắm được một sợi dây song bị lớp đất phủ lên, đầu dây song đó vẫn đang quấn chặt vào đâu đó. Thế là Ngọc dừng lại. Dũng hét: “Anh Ngọc cẩn thận cái cây!”. Ngọc ngẩng lên, cái thân gỗ với hai đầu nhọn hoắt, tướp táp đang phăm phăm lao tới. Anh chỉ kịp xoay người lấy ba lô và bao gạo ra đỡ. Cái cây ấy đâm thẳng vào bao gạo, làm gạo văng ra tung tóe. Rồi cây gỗ đổi hướng, lăn xuống tận đáy vực. Ngọc đu theo dây song, lần lên phía trên và thận trọng đi tiếp. Những người theo sau bám vào những gốc cây người đi trước đã bám. Mất gần một giờ mới vượt qua bãi bom.[/FONT]
Xế chiều, cả tổ mệt lử, nhưng đang đi trên phân thủy nên không có nước nấu cơm. Thật may mắn, họ phát hiện được một vỏ thùng lương khô cũ đựng đầy nước mưa, ngặt nỗi thùng bằng sắt tây nên đã rỉ hoen. Một lớp váng vàng ở phía trên. Hớt lớp váng ấy là đến lớp nước cũng đã ngả màu vàng và đáy là một lớp cặn màu nâu của ôxit sắt kết tủa. Họ thận trọng múc từng bát nước vàng ấy để không ngầu cặn từ đáy. Được cả thảy ba bi đông. Họ đun sôi số nước đó, gạt bọt và váng. Nước đủ nấu cơm, và một bi đông để chia nhau uống. Giữa mùa mưa mà phải chia nhau từng ngụm nước thật là bất đắc dĩ.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Với mong muốn đảm bảo tuyến thoát ly khu vực địch đánh phá, tổ khảo sát hướng tuyến vào những khu rừng già. Họ theo những con đường mòn, men theo nương rẫy của đồng bào Lào. Một buổi sáng, khi đang đi trên một lối mòn, mọi người phát hiện cậu Dũng không còn đi cùng họ. Ngọc biết Dũng là người nhanh nhẹn và đã qua lớp sơ cấp trắc địa, kỹ năng nhận biết địa hình rất khá nên không thể lạc được. Rất có thể cậu ta đã gặp chuyện gì chẳng lành. Ngọc nói:

- Mọi người chờ ở đây. Anh Thiều y tá và một người nữa theo tôi trở lại tìm Dũng,
Ba người chỉ mang theo vũ khí và túi thuốc. Họ đi được hơn một trăm mét tới khúc ngoặt của đường mòn, bỗng nghe thấy tiếng gầm gừ của thú dữ. Gay rồi chắc Dũng đi sau một mình nên bị thú dữ vồ rồi. Tiếng giã thú như đang cắn xé con mồi. Ngọc lùi lại. Khẩu súng ngắn mang theo xem ra khó đối phó với con thú này. Anh vẫy thiều lên: đưa tôi khẩu K53.

Ngọc nhẹ nhàng bước lên nấp sau gốc cây quan sát. Một con gấu, không thấy có dấu vết con mồi nào. Hình như nó đang cao hứng về một điều gì đó, hay Dũng đang nằm đâu đó trong bui cây mà mình không phát hiện được. Ngọc nâng khẩu tiểu liên lên điểm xa, con gấu vùng chạy nấp sau một cái cây lớn. Nó chuyển sang một gốc cây lớn khác. Ngọc đoán lần này nó sẽ chuyển sang cây lớn tiếp theo nên hướng nòng súng vào giữa hai cây. Quả nhiên con gấu lao ra. Một loạt đạn nổ, con gấu loạng choạng, chạy mấy bước rồi ngã lăn xuống khe suối, chắc nó đã chết. Những người trong tổ khảo sát tưởng đụng địch nên chạy lại hỗ trợ, Ngọc chỉ xác con gấu dưới khe để mọi người đến khiêng. Ba người lục tìm xung quanh mà không thấy dấu vết của Dũng. Họ theo đường mòn đi tiếp. Phía trước là rẫy bắp của dân Lào, có tiếng rúc rích cười của con gái. Nhô ra khỏi cánh rừng. Họ mới nhận ra cậu Dũng đang bị mấy cô gái Lào vây quanh. Dũng đẹp trai má lúm đồng tiền, trong đơn vị cũng hay bị con gái trêu. Nhưng lần này, rõ ràng mấy cô gái Lào không cho cậu ta đi. Dũng tránh hướng nào cũng có cô gái dang hai tay chặn lại. Họ cười như nắc nẻ khi thấy anh bộ đội Việt mặt và hai tai đỏ lừ vì xấu hổ. Không biết tiếng Lào nên chẳng biết nói gì. Ngọc gọi: Dũng ơi nhanh lên anh em đang đợi. Nghe tiếng, mấy cô gái Lào chạy biến vào rẫy bắp, bỏ lại những tiếng cười lanh lảnh.

Cảm ơn các anh. “Không có các anh, tôi không biết làm sao thoát ra được”, Thiều béo vào tai Dũng mắng yêu: “Gớm, được trong vòng vây như vậy, ai mà chẳng mơ ước”. Có điều anh em lo quá, bon mình tưởng cậu bị gấu xé xác rồi. Một phần cũng nhờ cậu mà hôm nay được ăn thịt gấu đấy.

Thịt gấu ngon thật, cả ngày đường vất vả, được ăn thịt thú rừng tươi mọi người như tỉnh lại. Nghe nói mật gấu tốt lắm, thế là họ lấy bông thấm mật gấu rồi chia cho mỗi người một nhúm. Của quý thì chia nhau vậy, nhưng chẳng biết dùng nó làm gì.

Đêm ấy trời mưa rất to nước suối sôi réo ầm ầm, mưa kéo dài hai ngày liền. Tổ khảo sát ở vào thế một phía là núi đá dựng đứng, ba phía c nước lũ cuồn cuộn, không thể vượt qua suối được. Họ đành ngủ lại. Ngày thứ ba, nước rút, nhưng đã muộn một ngày so với kế hoạch, chỉ còn lại vài nắm gạo. Họ nấu cháo với bốn bàn chân gấu. Cháo nhưng có chất nên vẫn cảm thấy khỏe mạnh, thêm vài miếng lương khô là có thể lên đường.

Trở lại đừơng cũ, cả tổ kinh ngạc về sự thay đổi. Đoạn vượt qua yên ngựa mà họ chọn, giờ đã là chi chít hố bom. Đỉnh đèo nơi họ chia nhau ngụm nước trong thùng lương khô, giờ cũng đã trống hoác vì bom cày xới. Đất bột, đá vụn cộng với ba ngày mưa dai dẳng đã làm cho con đường về bùn lầy nhão nhoét, ngập đến gối. Các hố bom tạo thành những ao nhỏ nối nhau chạy dài hàng cây số. Ngọc ngán ngẩm nhìn quang cảnh ngổn ngang xơ xác. Không thể đưa đường ống vào vùng chết chóc như thế này. Về đến công trường , Ngọc trút bộ quần áo bê bết bùn đất, trải tấm bản đồ lên sạp. Chẳng lẽ lại bó tay. Tại sao mình cứ vạch tuyến chỗ nào là bị đánh chỗ ấy.? Liệu khu vực này có một tổ thám báo địch hoạt động? Hay chỉ thuần túy là sự phán đoán của không quân đich. Bây giờ muốn thoát ra, chỉ có cách chọn chỗ nào thật bất ngờ. Ngọc nhìn dãy núi từ cao điểm 1001 đổ xuống sông Sê Bang Hiêng. Đây rồi: cao điểm 911. Có một đường phân thủy từ ngã ba suối Ra vơ lên tận đấy. Rồi từ cao điểm này, lại lại có một phân thủy dốc xuống bản Na. Đây là con đường cách ly hoàn toàn với khu vực bom B52 đang cày xới. Với đỉnh cao như thế này, người Mỹ sẽ không thể ngờ đường ống có thể leo lên đó. Ngọc đo đạc lại quãng đường, độ cao, tính toán lại. Trạm bơm B3 không thể vượt qua đỉnh 911, nhưng nếu dịch xuống chừng ba bốn mươi mét thì có thể được. Có điều áp lực tuyến ở khu vực suối ra vơ sẽ luôn ở giới hạn chịu đựng. Thôi đành vậy. Ngọc nhớ tới lời bác Bảo: Ở trường sơn, ta phải luôn sẵn sàng nghĩ tới những điều sách vở chưa nói tới.
 

chitom

Xe tăng
Biển số
OF-92529
Ngày cấp bằng
22/4/11
Số km
1,479
Động cơ
415,659 Mã lực
Như vậy là đã gần hai tháng quần nhau với bom đạn, tuyến đường ống vẫn chưa thể vượt qua dãy núi bờ nam suối ra vơ. Tiểu đoàn 66 và tiểu đoàn 73 đã có cán bộ lo lắng: Liệu có bắc được đường ống vào chiến trường không? Khi mà địch đã tập trung mọi hỏa lực ngăn chặn quyết liệt. Thương vong ngày càng tăng. Mưa rừng, đói, sốt rét, những người lính dường như đã kiệt sức.


Đặt máy điện thoại xuống, trung tá Quang Trung, binh trạm trưởng binh trạm 90 đăm chiêu nhìn lên tấm bản đồ tuyến vận tải Trường Sơn. Từ bản Vát đến LB xa quá, lại phải qua biết bao nhiêu trọng điểm. Từ Q200 vào đến bản cọ chỉ ngót 50 cây số, dù khó hơn, nhưng gần hơn rất nhiều. Tư lệnh Đồng Sỹ Nguyên vừa chỉ thị cho ông bằng mọi giá phải đưa xăng theo đường ống vào bản Cọ phục vụ cho mùa khô này. Đã là tháng mười, trời vẫn mưa. Con đường ô tô vượt đỉnh Trường Sơn qua đây có tới ba trọng điểm đánh phá của địch: Đèo 700, đèo 900 và Pha Bang. Với cường độ đánh phá như vậy, xe stec khó có thể qua lọt. Đường ống vẫn là phương thức tiếp liệu tốt nhất. Nhưng xem ra sự quyết tâm của địch chưa thấy đâu là giới hạn. Bom B52, bổ nhào, tọa độ băm nát mọi ngả đường từ suối Ra vơ đến bản cọ. Bom lá rải dày đặc các lối mòn. Ông cầm bút chì thử vạch vài đường, nhưng đều thấy không ổn. Những chỗ theo ông có thể bơm xăng vượt qua đều đã dày đặc bom đạn. Còn những chỗ tạm ổn thì núi cao quá, liệu xăng có bơm được qua không? Mùa khô đang đến gần rồi, không thể chần chừ được. Phải làm mọi việc có thể, kể cả may rủi.


Tiểu đoàn bộ tiểu đoàn 66 đóng bên một khe suối nhỏ, để vào được đó, phải theo một lối mòn qua các bãi bom, rồi lội ngược dòng suối. Tiểu đoàn trưởng đón Quang Trung từ cổng vào cơ quan.

- Sao cơ quan vắng thế này?

- Báo cáo thủ trưởng, tuần vừa rồi cơ quan có 3 đồng chí hy sinh. Hôm nay phần lớn ban chỉ huy xuống các đại đội. Những lúc khó khăn ác liệt thế này, sự có mặt của cán bộ cấp trên là chỗ dựa tinh thần cho họ. Hiện nay một nửa quân số đang sốt rét đến mức không thể ra tuyến được. Tiểu đoàn trưởng dẫn binh trạm trưởng đến căn hầm có người sốt rét đang nằm. Có người ngồi dậy chào thủ trưởng, có người vẫn sốt ly bì. Nước da của họ xanh tái, đã sốt lại thiếu ăn, họ gầy gò, đôi mắt trũng sâu. Quang Trung không biết nói gì hơn ngoài việc động viên họ yên tâm điều trị. Ông quay sang nói với Chủ nhiệm Hậu cần: “Ngày mai cậu tăng cường cho tiểu đoàn một số thịt hộp và gạo để anh em lấy sức. Nhớ đây đang là một điểm nóng cần đặc biệt quan tâm của Binh trạm”.

cuộc họp của Binh trạm trưởng với tiểu đoàn 66 diễn ra nhanh chóng và giản dị. Quang Trung chỉ lên tấm bản đồ:
- Dường như chúng ta đang bế tắc tìm đường cho tuyến ống đến bản Cọ. Hôm nay tôi xuống để bàn với các đồng chí về việc này. Tình hình khó khăn, các đồng chí rõ hơn tôi. Ai có sáng kiến gì không?

- Báo cáo. Mọi con đường ta định đi đều bị bom địch chặn rất quyết liệt. Chúng tôi nghĩ có lẽ cứ mạnh dạn vượt qua.

- Vượt qua? Quang Trung ngạc nhiên hỏi lại. Từ đây vào bản cọ là 30 km hơn 5000 ống chuyển đi trong bùn lầy bị bom và địch liên tục đánh phá. Sẽ có bao nhiêu xương máu đổ xuống cho xuể. Và tuyến lộ rồi thì liệu có vận hành được không? Ai có sáng kiến nào khác?
Sau khi nghiên cứu cao điểm 911, Ngọc đã báo cáo ý định của mình cho Chỉ huy trưởng công trường. Bởi vậy Đặng Văn Thế nói anh đi cùng ông vào Tiểu đoàn 66 làm việc với Binh trạm trưởng.
- Tôi có ý kiến. Ngọc giơ tay phát biểu.
- Tôi đã bàn với kỹ sư Ngọc. đề nghị anh cho cậu ấy trình bày- Đặng Văn Thế hướng về phía Binh trạm trưởng, đỡ lời Ngọc.
Quang Trung khuyến khích:
- Đồng chí trình bày đi.
- Báo cáo. Cho đến thời điểm này thì mọi con đường ta dự định đều bị địch đánh chặn quyết liệt. Theo tôi nghĩ có thể địch căn cứ vào địa hình mà phán đoán, nhưng cũng không loại trừ trong khu vực này có thám báo địch.
- Vậy đồng chí có cách gì?
Ngọc chỉ lên cao điểm 911.
- Đây là cao điểm cao nhất vùng này, tôi cho rằng địch không bao giờ nghĩ đường ống có thể leo lên đến đấy. Như vậy là ta đã tạo ra bất ngờ. Thêm nữa chúng ta bỏ hẳn khu vực bị đánh phá, sẽ tránh được thám báo mặt đất nếu có.
- Cao vậy có bơm qua được không? Binh trạm trưởng băn khoăn.
- Báo cáo. Chúng tôi đã tính kỹ. Trạm bơm B3 đặt ở sườn phía bắc đèo 700 sẽ bơm qua được, có điều áp suất ống ở chân phía bắc cao điểm 911 sẽ luôn ở giới hạn cho phép. Bời vậy đây là một phương án mạo hiểm, tuy nhiên vẫn được , miễn sao ta chọn ống tốt, ngoàm tốt, và tăng cường kiểm tra tuyến ống ở khu vực này. Chúng tôi sẽ cố gắng chọn tuyến đi ở độ cao thấp nhất trong phạm vi có thể.
Tiểu đoàn trưởng đăm chiêu:
- Rồi địch lại đánh thì sao đây. Đã vất vả đối phó với bom, nay lại mạo hiểm về kỹ thuật. Tôi thấy không yên tâm.
- Đúng là phương án mạo hiểm, nhưng vẫn không mạo hiểm bằng việc đưa tuyến ống qua vùng thường xuyên bị địch đánh phá. Nếu đồng chí không nhất trí phương án này thì phải nghĩ ra phương án khác.
Tiểu đoàn trưởng im lặng.
- Không ai có phương án nào khác phải không? Vậy tôi chấp nhận phương án của đồng chí kỹ sư. Có mấy việc yêu cầu các đồng chí làm cho tốt: Một là tăng cường kiểm tra, truy quyét địch mặt đất. Hai là cứ dập dạp trên tuyến ta bị đánh. Làm cho địch trên không tưởng ta vẫn theo tuyến cũ. Ba là chọn những ống, những ngoàm tốt nhất để lắp ở chân cao điểm 911. Tôi mong các đồng chí kỹ sư cố gắng chọn tuyến thấp nhất.

Nghe binh trạm trưởng nói Ngọc vừa mừng vừa thán phục vì binh trạm trưởng có cái nhìn rất toàn diện. Đó như một sự bảo đảm ban đầu cho thắng lợi.

Từ cuộc họp với Binh trạm trưởng về, Ngọc trình bày chi tiết ý định vượt cao điểm 911 trước Ban chỉ huy Công trường 181 và Tiểu ban kỹ thuật. Mọi người đều nhất trí. Tan cuộc họp Thanh nói với Ngọc:
- Ta làm nó đánh, ta lại làm, nó lại đánh. Chỉ là một cái vòng luẩn quẩn thôi ông ơi. Rồi ông xem.
Ngọc ngạc nhiên:
- Chẳng lẽ đầu hàng?- Anh định nói thêm điều gì đó nhưng lại thôi, vì anh biết sau lần bị thương, Thanh vẫn chưa hết sốc.

Ngay sau chiều hôm đó, tổ khảo sát lên đường. Lần này quân của tổ khảo sát hầu hết là người của tiểu đoàn 66. Dẫn đầu là chuẩn úy Nguyễn Nhàn, người vừa tốt nghiệp sỹ quan công binh. Do nhu cầu chiến đấu, khóa học của Nhàn đều lấy học viên là cán bộ tiểu đội, trung đội đào tạo cấp tốc 6 tháng. Gấp như vậy nên Nhàn cũng chưa có kỹ năng tốt trong việc sử dụng bản đồ. Cái tên Nhàn khá hợp với ngoại hình của anh. Nhàn chỉ hơn Ngọc một vài tuổi, trắng trẻo nói năng nhẹ nhàng như con gái. Cùng đi trong tổ khảo sát còn mấy chú lính trong đó có cậu Sang người Nam Định chỉ mới 17 tuổi, mặt non búng ra sữa.
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top