- Biển số
- OF-138332
- Ngày cấp bằng
- 13/4/12
- Số km
- 2,331
- Động cơ
- 390,417 Mã lực
HQ-9 của Trung Quốc đẩy Thổ Nhĩ Kỳ vào thế khó
theo Đất Việt | 28/09/2013 10:16 Chia sẻ:
Ngày 26/9, Thổ Nhĩ Kỳ đã quyết định mua tên lửa phòng không FD-2000 do TQ sản xuất. Quyết định này khiến Thổ Nhĩ Kỳ đứng trước hàng loạt thách thức.
Tổ hợp tên lửa phòng không HQ-9 được phát triển dựa trên cơ sở tổ hợp tên lửa S-300V phát triển dưới thời Liên Xô và Nga cũng mang phiên bản nâng cấp S-300VM Antey-2500 tham gia gói thầu T-Loramids.
Ngoài FD-2000 của Trung Quốc, tham gia dự thầu T-Loramids còn có liên doanh Lockheed Martin/ Raytheon với tổ hợp tên lửa Patriot phiên bản PAC-2 và PAC-3, Rosobonexport với S-300 PMU-2 Favorit, S-300 VM Antey-2500 và Tổ hợp Eurosam với tổ hợp SAMP/T sử dụng đạn tên lửa Aster-30. Theo gói thầu này, Thổ Nhĩ Kỳ dự định mua 12 tổ hợp tên lửa phòng không mới với giá trị hợp đồng ước tính khoảng 4 tỷ USD.
Sau khi xem xét các ứng viên dự gói thầu T-Loramids, Ủy ban Công nghiệp quốc phòng Thổ Nhĩ Kỳ quyết định mua sản phẩm của Trung Quốc do đáp ứng mọi yêu cầu Quân đội Thổ Nhĩ Kỳ đề ra và có giá thành rẻ nhất.
Thứ nhất, Thổ Nhĩ Kỳ rất khó (nếu không có sự đồng ý của NATO thì sẽ là không thể) tích hợp các tổ hợp HQ-9 vào một hệ thống phòng không thống nhất.
Vấn đề là ở chỗ, nếu muốn tích hợp HQ-9 vào hệ thống này, Thổ Nhĩ Kỳ phải yêu cầu nhà cung cấp Trung Quốc thay đổi một loạt các tham số kỹ thuật của nó để có thể tương thích với các trang thiết bị theo tiêu chuẩn NATO.
Nếu thế thì trước tiên Thổ Nhĩ Kỳ phải đề nghị NATO cung cấp các số liệu kỹ thuật về hoạt động của các thiết bị và cung cấp cho nhà sản xuất, điều này cũng đồng nghĩa với việc rò rỉ thông tin một cách tự nguyện cho Trung Quốc.
Về vấn đề này, trước đó phía NATO đã có ý kiến là việc tích hợp các tổ hợp của Nga hoặc của Trung Quốc vào hệ thống phòng không của NATO sẽ cho phép 2 nước này tiếp cận được các dữ liệu quan trọng, trong khi NATO lại không thể tiếp cận được các thông tin tương tự của Nga và Trung Quốc.
Như thế có nghĩa là khả năng NATO cung cấp các số liệu kỹ thuật cần thiết để tích hợp HQ-9 vào hệ thống phòng không chung là không thể xảy ra.
Một khó khăn kỹ thuật nữa mà Thổ Nhĩ Kỳ phải giải quyết khi mua HQ-9, đó là nước này phải thay mã số của hệ thống nhận biết “địch-ta”. Theo số liệu của Flightglobal MiliCAS, Không quân Thổ Nhỹ Kỳ có 227 máy bay tiêm kích F-16C/D Fighting Falcon, 152 F/RF-4E Phantom II và F/NF-5A/B Freedom Fighter do Mỹ sản xuất.
Thiết bị nhận biết “địch-ta” của các máy bay này được quy chuẩn theo hệ thống nhận biết chuẩn của NATO và không thể tương thích với HQ-9. NATO chắc chắn không thể đồng ý để lộ các thông tin về hệ thống mã số và trao đổi thông tin và nếu thế thì nhà sản xuất (Trung Quốc) cũng không thể hiệu chỉnh được HQ-9. Có thể sử dụng một giải pháp là trang bị cho các máy bay tiêm kích máy đáp vô tuyến tương thích với tổ hợp HQ-9, nhưng nó rất khó thực hiện vì các lý do kỹ thuật.
theo Đất Việt | 28/09/2013 10:16 Chia sẻ:
Ngày 26/9, Thổ Nhĩ Kỳ đã quyết định mua tên lửa phòng không FD-2000 do TQ sản xuất. Quyết định này khiến Thổ Nhĩ Kỳ đứng trước hàng loạt thách thức.
Tổ hợp tên lửa phòng không HQ-9 được phát triển dựa trên cơ sở tổ hợp tên lửa S-300V phát triển dưới thời Liên Xô và Nga cũng mang phiên bản nâng cấp S-300VM Antey-2500 tham gia gói thầu T-Loramids.
Ngoài FD-2000 của Trung Quốc, tham gia dự thầu T-Loramids còn có liên doanh Lockheed Martin/ Raytheon với tổ hợp tên lửa Patriot phiên bản PAC-2 và PAC-3, Rosobonexport với S-300 PMU-2 Favorit, S-300 VM Antey-2500 và Tổ hợp Eurosam với tổ hợp SAMP/T sử dụng đạn tên lửa Aster-30. Theo gói thầu này, Thổ Nhĩ Kỳ dự định mua 12 tổ hợp tên lửa phòng không mới với giá trị hợp đồng ước tính khoảng 4 tỷ USD.
Sau khi xem xét các ứng viên dự gói thầu T-Loramids, Ủy ban Công nghiệp quốc phòng Thổ Nhĩ Kỳ quyết định mua sản phẩm của Trung Quốc do đáp ứng mọi yêu cầu Quân đội Thổ Nhĩ Kỳ đề ra và có giá thành rẻ nhất.
Thứ nhất, Thổ Nhĩ Kỳ rất khó (nếu không có sự đồng ý của NATO thì sẽ là không thể) tích hợp các tổ hợp HQ-9 vào một hệ thống phòng không thống nhất.
Vấn đề là ở chỗ, nếu muốn tích hợp HQ-9 vào hệ thống này, Thổ Nhĩ Kỳ phải yêu cầu nhà cung cấp Trung Quốc thay đổi một loạt các tham số kỹ thuật của nó để có thể tương thích với các trang thiết bị theo tiêu chuẩn NATO.
Nếu thế thì trước tiên Thổ Nhĩ Kỳ phải đề nghị NATO cung cấp các số liệu kỹ thuật về hoạt động của các thiết bị và cung cấp cho nhà sản xuất, điều này cũng đồng nghĩa với việc rò rỉ thông tin một cách tự nguyện cho Trung Quốc.
Về vấn đề này, trước đó phía NATO đã có ý kiến là việc tích hợp các tổ hợp của Nga hoặc của Trung Quốc vào hệ thống phòng không của NATO sẽ cho phép 2 nước này tiếp cận được các dữ liệu quan trọng, trong khi NATO lại không thể tiếp cận được các thông tin tương tự của Nga và Trung Quốc.
Như thế có nghĩa là khả năng NATO cung cấp các số liệu kỹ thuật cần thiết để tích hợp HQ-9 vào hệ thống phòng không chung là không thể xảy ra.
Một khó khăn kỹ thuật nữa mà Thổ Nhĩ Kỳ phải giải quyết khi mua HQ-9, đó là nước này phải thay mã số của hệ thống nhận biết “địch-ta”. Theo số liệu của Flightglobal MiliCAS, Không quân Thổ Nhỹ Kỳ có 227 máy bay tiêm kích F-16C/D Fighting Falcon, 152 F/RF-4E Phantom II và F/NF-5A/B Freedom Fighter do Mỹ sản xuất.
Thiết bị nhận biết “địch-ta” của các máy bay này được quy chuẩn theo hệ thống nhận biết chuẩn của NATO và không thể tương thích với HQ-9. NATO chắc chắn không thể đồng ý để lộ các thông tin về hệ thống mã số và trao đổi thông tin và nếu thế thì nhà sản xuất (Trung Quốc) cũng không thể hiệu chỉnh được HQ-9. Có thể sử dụng một giải pháp là trang bị cho các máy bay tiêm kích máy đáp vô tuyến tương thích với tổ hợp HQ-9, nhưng nó rất khó thực hiện vì các lý do kỹ thuật.