FAQs - Câu hỏi thường gặp và trả lời về sử dụng, bảo dưỡng (danh sách lưu ở trang 1)

Trạng thái
Thớt đang đóng

Hindu

Xe tải
Biển số
OF-75567
Ngày cấp bằng
16/10/10
Số km
380
Động cơ
425,800 Mã lực
Những vấn đề cần quan tâm khi thay dầu nhờn, súc rửa động cơ



Khi đem xe đến ga ra thay dầu nhờn, có thể chúng ta sẽ nhận được lời khuyên nên súc rửa động cơ bằng "Flushing oil" để mọi chi tiết động cơ được làm sạch, máy sẽ chạy êm hơn, mạnh mẽ hơn và bền hơn. Việc làm này có cần thiết hay không?

Về vấn đề này, các giảng viên đại học cơ khí và các kỹ sư thiết kế động cơ của các hãng ô tô đã có lời khuyên: tuyệt đối không nên, nếu bạn thường xuyên thay dầu nhờn đúng định kỳ. Việc này chỉ gây tốn kém, thậm chí súc rửa không đúng cách chẳng hạn như thời gian chạy không tải quá lâu có thể gây hại cho xe.

Các chuyên gia cơ khí giải thích trong dầu nhờn hiện nay nhà sản xuất đã bổ sung những chất phụ gia. Trong đó có loại phụ gia có khả năng đánh bật những muội than bám vào các chi tiết động cơ. Dầu nhờn lưu thông trong khoang máy buộc phải đi qua lọc nhớt, tại đây những hạt than lớn hơn 20 micron mét có thể làm mòn chi tiết máy sẽ được giữ lại. Những hạt carbon rất nhỏ không bị lọc nhớt giữ lại sẽ bị loại bỏ khi ta thay dầu nhờn mới. Do vậy nếu thay nhớt đúng định kỳ chúng ta chỉ cần thay bộ phận lọc nhớt là đủ.

Chỉ nên súc động cơ bằng "Flushing oil" trong những trường hợp sau:

+ Mua một chiếc xe đã qua sử dụng và chủ cũ đã chạy được trên 100.000 km và chúng ta không biết chủ cũ có thay dầu nhờn đúng định kỳ không.

+ Xe chạy vào vùng ngập nước, nước lọt vào động cơ. Khi nước lọt vào động cơ, dầu nhờn sẽ bị nhũ tương hóa, mất khả năng bôi trơn rất hại cho động cơ. Lúc này nhớt sẽ có màu trắng sữa (nếu nhớt còn mới) hặc màu cà phê sữa (nếu nhớt đã cũ), chúng ta phải thay dầu nhờn ngay, không được cố chạy dù chỉ vài trăm mét. Nếu cẩn thận có thể súc rửa máy bằng "Flushing oil" để yên tâm rằng đã loại bỏ hết nước trong động cơ.

+ Xe trùm mền trong thời gian lâu, phần dầu nhờn bị nhũ hóa và muội than có thể lắng đọng tạo thành bùn đen bám vào các chi tiết động cơ. Trước khi đưa xe vào sử dụng trở lại, chúng ta cần súc rửa động cơ bằng "Flushing oil". Nhưng đó là đối với những xe sử dụng dầu nhờn không chất phụ gia. Nếu sử dụng dầu nhờn cao cấp, chất phụ gia "phân tán" có trong dầu nhờn sẽ ngăn cản quá trình tạo cặn và do đó dù xe trùm mền khá lâu cũng không phải cần súc rửa động cơ. Tốt nhất là trước khi đi công tác hay không sử dụng xe trong 3-5 tháng, chúng ta nên thay dầu nhờn mới và chạy cho xe nóng máy. Chất phụ gia chống oxy hóa trong dầu nhờn cũng ngăn ngừa các chi tiết động cơ khỏi rỉ sét.

Ở một số dịch vụ rửa xe, thay nhớt có bán phụ gia được quảng cáo là tăng độ nhờn và kéo dài tuổi thọ của dầu nhờn. Các chuyên gia cho biết, các chất phụ gia của các hãng dầu nhờn danh tiếng đã có đủ chất phụ gia.Tăng thêm bất cứ loại phụ gia nào cũng chỉ tốn tiền và đôi khi có thể làm dầu nhờn mau hỏng.

Khi cần súc rửa động cơ, chúng ta phải dùng "Flushing oil" chuyên dụng, tuyệt đối không được dùng dầu hỏa (dầu hôi) hay dầu diesel để súc rửa động cơ. Loại dầu này có thể phá hỏng những phốt cao su của động cơ.

Dầu nhờn mau bị đen là dầu nhờn xấu?

Một số người dùng dầu nhờn không chất phụ gia rẻ tiền, khi đổi sang sử dụng dầu nhờn cao cấp có chất phụ gia đã hoảng hốt khi thấy màu của dầu nhờn nhanh chóng chuyển từ màu hổ phách sang màu đen, cho rằng dầu nhờn cao cấp không tốt bằng dầu nhờn rẻ tiền. Điều này là hoàn toàn sai lầm, dầu nhờn cao cấp màu đen do phụ gia làm sạch muội than bám vào vách xy lanh và pít tông nên mau đen hơn dầu nhờn không phụ gia. Chúng ta có thể yên tâm sử dụng nếu chưa đến kỳ hạn phải thay, không có hại gì.

Khi nào cần thay dầu nhờn?

Cách đây vài thập kỷ các nhà sản xuất ô tô khuyên nên thay dầu nhờn khi xe đi được khoảng 4.000 -5.000 km. Ngày nay đối với xe đời mới và thế hệ dầu nhờn mới, các nhà sản xuất ô tô khuyên nên thay dầu nhờn khi đã đi được khoảng 12.000 đến 16.000 km. Cần lưu ý, các nhà sản xuất dầu nhờn thường khuyên khách hàng thay dầu nhờn sớm hơn khiến nhiều khách hàng phân vân không biết nghe ai. Về vấn đề này, Consumer Reports, tạp chí nổi tiếng của người tiêu dùng Mỹ khẳng định nên nghe theo nhà sản xuất ô tô, không nghe theo người cần bán dầu nhờn. Consumer Reports khuyên chỉ nên thay dầu nhờn khi đi được 5.000 km trong điều kiện cực kỳ khắc nghiệt như ngừng, chạy liên tục, phải kéo rơmoóc nặng, lên xuống dốc cao, hoặc trong điều kiện rất nhiều bụi bặm.

Cơ chế hình thành chất bẩn trong động cơ?

Để không còn phân vân về vấn đề này, và biết khi nào thì thay nhớt lúc xe chạy được 12.000 km, khi nào để đến 16.000 km, chúng ta cần hiểu rõ cơ chế hình thành chất bẩn trong động cơ.

Hai chất quan trọng khiến động cơ nhiễm bẩn là muội than (carbon) và hơi nước được sản sinh trong quá trình đốt cháy nhiên liệu. Hai chất này hình thành nhiều khi động cơ còn nguội, lúc xe mới khởi động hay phải tăng ga. Lúc đó nhiên liệu không được đốt hết và tạo ra muội than.

Hơi nước (H2O) luôn được tạo ra trong quá trình nhiên liệu bị đốt cháy và hầu hết theo khí xả thải ra ra ngoài. Phần hơi nước theo khí xả lọt vào các te sẽ ngưng tụ lại thành nước nếu động cơ ngưng hoạt động và nguội đi. Những giọt nước này sẽ bay hơi nếu lần sau xe đi được trên 16 km, khi đó động cơ đủ nóng. Nếu lần chạy sau động cơ không đủ nóng, những giọt nước cũ chưa bay đi, lại tích lũy thêm nước mới khiến nhớt mau bị nhũ hóa, mất độ nhờn. Do vậy, trái với nhiều người lầm tưởng cần thay nhớt sớm nếu thường xuyên có những cuộc hành trình dài. Nhớt cần thay sớm nếu ta thường xuyên di chuyển dưới 16 km, luôn phải tắt máy do đèn đỏ hay kẹt xe, luôn phải tăng giảm ga, thỉnh thoảng đi offroad và nhất là ở xứ lạnh, động cơ mau được làm nguội. Chúng ta cần thay dầu nhờn khi xe đi được 12.000 km mà không chờ đến 16.000 km.

Chúng ta có thể vào trang web "CheckYourNumber.org" để tham khảo nên thay dầu nhờn cho xe khi nào. Chỉ cần điền vào biểu mẫu của website 3 dữ liệu: năm sản xuất (select year), hãng sản xuất (select make), kiểu mẫu xe (select model) và enter, thông số hướng dẫn sẽ nhanh chóng xuất hiện hướng dẫn cách thay dầu nhờn cho xe của mình.

Thử kiểm tra trên CheckYourNumber.org , hầu hết xe đời 2013 đều cho kết quả 16.000 km mới cần thay dầu nhờn. Đối với Ford F-150 2013, trang web còn nói rõ 16.000 km là với dầu nhờn gốc khoáng thông thường có thêm ít dầu tổng hợp. Đối với dầu nhờn tổng hợp hoàn toàn (Full Synthetic Engine Oil ) xe có thể đi được 32.000 km mới phải thay dầu nhờn.

Điều cần lưu ý trang web CheckYourNumber.org là của chính quyền bang California. Khi có sự mâu thuẫn giữa bên sản xuất xe và bên bán dầu nhờn, nghe theo lời khuyên của bên thứ 3 là tốt nhất.

Một điểm cần lưu ý nữa là nếu thay dầu nhờn khi động cơ nóng, dầu nhờn linh hoạt cao sẽ được xả nhanh và trọn vẹn hơn, nhưng có thể làm người thay dầu bị bỏng.



Thận trọng khi tự thay dầu nhờn cho xe để tráng bị bỏng

Tốt nhất là thay dầu nhờn khi động cơ còn ấm, sau khi tắt máy khoảng từ 30 đến 60 phút cho dù nhớt cũ chỉ thoát ra được 98%.

(tổng hợp internet theo detroitnews - auto.howstuffworks - theglobeandmail)
 
Chỉnh sửa cuối:

Hindu

Xe tải
Biển số
OF-75567
Ngày cấp bằng
16/10/10
Số km
380
Động cơ
425,800 Mã lực
Các câu hỏi thường gặp

1. Trong một chuyến đi dài, tôi kiểm tra thấy dầu bị hao, nhưng vùng đó không có loại dầu mà tôi đang dùng. Vậy tôi có thể dùng loại dầu khác bổ sung được không?

Trả lời: Khi dầu bị hao, bạn có thể dùng dầu bôi trơn của hãng khác bổ sung để “cấp cứu” cho xe. Tuy nhiên, sau khi bổ sung, bạn không nên khai thác động cơ ở mức tối đa, nghĩa là không thúc ép động cơ làm việc với cường độ cao ở vòng tua cao. Khi tìm được gara tin cậy, hoặc khi về nhà, bạn cần xả sạch dầu cũ và thay thế dầu mới.

Bạn cũng cần tiến hành kiểm tra kỹ xem nguyên nhân hao dầu là do đâu để có cách xử lý triệt để, tránh những hậu quả nặng hơn cho động cơ.

2. Tôi được nhà sản xuất khuyến cáo là cứ 2 lần thay dầu thì 1 lần thay lọc dầu, nhưng anh bạn tôi sử dụng xe hãng khác lại được khuyên là cứ thay dầu thì thay luôn lọc dầu. Vậy như thế nào là đúng?

Lọc dầu là chi tiết có tầm quan trọng đặc biệt. Nếu bị hỏng, dầu không được lọc sạch, các mạt kim loại sẽ đi vào các vị trí cần bôi trơn, gây ra mài mòn và gây ồn. Trường hợp nặng là lọc dầu sẽ bị vỡ/bục nếu quá bẩn hoặc bị tắc, động cơ được bôi trơn bằng dầu bẩn với tất cả những mạt kim loại và cặn bên trong.

Với các loại dầu thông thường, nhà sản xuất thường khuyến cáo thay dầu sau khoảng 4.000 – 5.000km, và cứ 2 lần thay dầu sẽ thay 1 lần lọc dầu. Tuy nhiên, với một số loại dầu đặc biệt cao cấp, như Mobil 1, thì sau khoảng 8.000 – 10.000km mới phải thay dầu. Dù dùng loại dầu nào thì cả hai đều gặp nhau ở một điểm là thay lọc dầu sau mỗi 8.000 – 10.000km, có gì khác đâu.

3. Tôi sử dụng một chiếc xe Nhật cũ, ra đời từ trước năm 1998, nhưng vẫn muốn sử dụng dầu cao cấp nhất. Tôi muốn hỏi là có phải cứ thay loại dầu cao cấp hơn, đắt tiền hơn thì động cơ sẽ làm việc tốt hơn và cải thiện tính năng vận hành?

Thay dầu cao cấp, xét ở một số khía cạnh, chưa chắc đã làm cho động cơ đời cũ làm việc tốt hơn so với dầu thông thường hay nói cách khác là không cải thiện tính năng của động cơ. Lý do là các loại động cơ cũ có thể không đòi hỏi dầu bôi trơn có độ nhớt như các loại động cơ đời mới với các chi tiết chính xác và tinh vi hơn nhiều. Hãy sử dụng loại dầu phù hợp với đời xe của bạn để tiết kiệm chi phí.

4. Mỗi lần khởi động lại xe sau khi qua đêm, động cơ cần nổ ga-răng-ti trong bao nhiêu lâu thì dầu bôi trơn lưu thông toàn bộ?

Sau mỗi lần đỗ xe qua đêm, hoặc có thể là vài ngày hay vài tuần, dầu bôi trơn bên trong động cơ sẽ chảy xuống bình chứa (các-te) và chỉ còn bám lại một lớp rất mỏng ở bề mặt các đường dẫn và chi tiết máy. Nếu ngay sau khi khởi động mà động cơ đã phải làm việc với áp lực lớn ở số vòng tua máy cao thì sẽ gây ra tiếng ồn và làm các chi tiết bị mài mòn rất nhanh, nhiều lần như vậy sẽ khiến động cơ ồn ngay cả khi dầu đã được lưu thông đầy đủ.

Để đảm bảo cho dầu bôi trơn được bơm lưu thông bên trong hệ thống ống dẫn và các chi tiết thì động cơ cần nổ ga-răng-ti trong khoảng 10 – 15 giây, tùy theo điều kiện thời tiết và chủng loại động cơ.

(Theo Autocar Vietnam)
 

Hindu

Xe tải
Biển số
OF-75567
Ngày cấp bằng
16/10/10
Số km
380
Động cơ
425,800 Mã lực
Chuẩn bị cho những ngày nghỉ lễ dài, mời các Cụ có kế hoạch đi chơi xa tham khảo:

Cách chuẩn bị xe trước những chuyến đi xa

Chỉ một hỏng hóc nhỏ cũng làm cho chuyến đi mất thú vị, như cần gạt nước không hoạt động, ắc-quy không đủ điện. Vì vậy cần bỏ ra chút công sức và thời gian để kiểm tra, giúp phần nào yên tâm khi lên đường.
Trên xe có một số bộ phận có thể kiểm tra bằng mắt, còn những hệ thống khác như phanh, hệ thống treo lại cần tới gara chuyên nghiệp. Nên nhớ, an toàn là quan trọng nhất.


Kiểm tra xe trước chuyến đi.

Dầu máy

Nên đỗ xe trên nền đất bằng phẳng, cho máy chạy nóng rồi tắt máy. Đợi vài phút cho dầu chảy xuống hết cácte dầu. Que thăm dầu có ghi "engine oil". Rút que thăm ra lau bằng vải sạch, sau đó cắm ngập que thăm vào bình rồi rút ra, kiểm tra mức dầu trên que. Nếu dầu có màu đen sẫm thì đã đến lúc thay dầu. Nếu có màu vàng, nhưng mức dầu còn quá ít, chỉ cần đổ thêm dầu cùng loại vào. Cách khác, kiểm tra theo kinh nghiệm: quệt dầu lên tay, miết giữa hai ngón tay xem dầu có mạt không.

Dầu hộp số tự động

Kiểm tra dầu hộp số chủ yếu ở trạng thái nóng. Tùy từng loại xe mà cách kiểm tra dầu hộp số cũng khác nhau. Ban đầu dầu hộp số tự động có màu đỏ. Sau thời gian sử dụng dưới nhiệt độ cao và tải trọng lớn, dầu bị ôxy hóa, chất lượng kém đi chuyển dần sang màu nâu.
Nếu có màu hồng, chứng tỏ dầu bị loãng, có thể do nước trong bộ tản nhiệt rò ra. Khi đó phải kiểm tra két nước. Nếu dầu có màu nâu là do nhiễm bẩn, nên thay dầu. Nếu dầu ở dưới mức "hot" thì cần bổ sung thêm, nhưng không được đổ đầy quá mức quy định, sẽ làm cho ly hợp và đai phanh bị trượt, gây cháy.

Nước làm mát

Mức nước làm mát có thể nhìn được từ bên ngoài và phải luôn nằm ở giữa mức thấp nhất và cao nhất. Không nên mở nắp két nước khi đang nóng. Nếu mức nước còn ít thì có thể bị rò rỉ, kiểm tra kỹ nếu có phải đi sửa ngay.

Ắc-quy

Thông thường một ắc-quy mới có thể sử dụng từ 2 đến 5 năm. Không có cách nào để biết trước khi nào ắc-quy sẽ hết điện. Hiện tượng có thể là tốc độ của máy chậm đi so với trước. Nếu đã dùng được từ 4 đến 5 năm thì nên thay mới. Nên kiểm tra xem ắc-quy có bị rò rỉ hoặc các vết nứt hay có dầu hiệu của sự ăn mòn không, nếu có nên thay mới. Kiểm tra các đầu điện cực, nếu bị ăn mòn thì ắc-quy rất dễ bị hỏng, nhất là khi đang đi trên đường.

Dưới nắp ca-pô

Kiểm tra các dây đai dẫn động, nếu có rạn nứt nên thay thế. Kiểm tra dầu phanh, dầu trợ lực tay lái, đổ thêm nước vào bình nước rửa kính. Nếu không nhớ lọc gió thay khi nào thì nên thay luôn, vì lọc gió bẩn sẽ gây tốn xăng và tiêu hao nhiều năng lượng. Cũng nên kiểm tra các đường ống gấp khúc và xoắn.

Lốp xe và phanh

Kiểm tra áp suất, độ mòn của lốp. Nên bơm lốp theo đúng tiêu chuẩn của nhà sản xuất và độ mòn của lốp cũng không vượt quá mức tiêu chuẩn quy định. Nên kiểm tra áp suất của cả lốp dự phòng, kiểm tra cả bộ kích xem còn hoạt động tốt không. Nếu có nắp khóa bánh xe, nên nhớ là phải luôn có chìa và cờ-lê để tháo. Nên đưa xe đến các trung tâm lốp xe có uy tín để kiểm tra phanh và láng, cân bằng đĩa phanh.


Láng và cân bằng đĩa phanh.

Hệ thống treo và tay lái

Khi đi xa, xe phụ thuộc rất nhiều vào hệ thống treo và tay lái. Để kiểm tra các bộ phận này một cách chính xác, nên đưa xe ra gara. Tuy nhiên, nếu có hỏng hóc gì thì vẫn có thể biết được qua dấu hiệu như xe bị rung, có tiếng động lạ, tiếng gõ lạch cạch khi đi qua chỗ xóc...
Nếu giảm xóc bị thiếu dầu, đi xe có cảm giác như đang cưỡi ngựa. Nên kiểm tra các thanh giảm xóc ở gần bánh xe xem có vết dầu rỉ ra không. Nếu đi trên đường cao tốc xe bị lạng từ bên này sang bên kia là do xe bị lệch thước lái, nên đưa xe đến gara để chỉnh lại.
Các bộ phận cần thiết khác cũng cần kiểm tra như còi xe, cần gạt nước, tất cả các đèn. Nếu cần gạt nước không lau sạch được kính thì cũng nên thay. Nếu là loại zin theo xe thì chỉ cần thay lớp cao su mới. Cần kiểm tra thêm máy lạnh, máy sưởi và gương chiếu hậu.
Ngoài ra, cần trang bị thêm dây câu điện, bộ kích điện ắc-quy, dầu máy, nước làm mát, đèn pin và bộ dụng cụ thông dụng. Cũng cần lưu giữ số điện thoại của đội cứu hộ, hay số điện thoại cần thiết khác của nơi đến.

Chúc các Cụ có những chuyến đi xa an toàn và vui vẻ.
 

Hindu

Xe tải
Biển số
OF-75567
Ngày cấp bằng
16/10/10
Số km
380
Động cơ
425,800 Mã lực
Sau một thời gian dài lăn bánh cùng vợ 2, đến thời kỳ cần phải thay lốp, mời các cụ tham khảo bài viết Những điều cần biết về lốp ô tô được tổng hợp từ Caronline


Tại sao khi đi trên đường trơn, ướt tính năng điều khiển xe lại giảm đi? Tại sao lốp xe lại chóng mòn và bị mòn không đều giữa các lốp? Tại sao khi bơm lốp phải đảm bảo áp suất bơm đúng yêu cầu? v...v... và v...v..... Mời các cụ tham khảo:


Lốp xe là bộ phận duy nhất của xe tiếp xúc với mặt đường, qua đó nó truyền lực dẫn động từ động cơ và lực phanh từ bàn đạp phanh tới mặt đường, điều khiển và chi phối toàn bộ quá trình di chuyển, tăng tốc, giảm tốc, đỗ xe hay quay vòng. Ngoài ra nó còn đỡ toàn bộ trọng lượng của xe và làm giảm chấn động do các mấp mô từ mặt đường gây ra nhờ chứa không khí có áp suất cao bên trong. Nếu áp suất không khí trong lốp không chính xác có thể gây ra hiện tượng như mòn lốp và giảm tính năng dẫn động.



Trên thị trường hiện nay có nhiều loại lốp nhưng nhìn chung có thể chia thành các loại như lốp có săm hoặc không có săm (săm được thay bằng một lớp cao su đặc biệt lót trong để làm kín); lốp bố tròn hay lốp bố chéo (so với lốp bố chéo, lốp bố tròn ít biến dạng bề mặt ngoài hơn do vậy mà tính năng bám và quay vòng tốt hơn nhưng do độ cứng vững của nó cao nên khả năng giảm các chấn động từ mặt đường kém hơn lốp bố chéo).


Cấu tạo lốp.

Các loại lốp trên đều có cùng cấu tạo gồm : hoa lốp, lớp đai (lớp lót tăng cứng), lớp bố (bố tròn hoặc bố chéo), lớp lót trong và dây mép lốp.

Ngoài các lốp đang được sử dụng, trên ô tô thường mang lốp dự phòng. Loại lốp này thường có trọng lượng nhỏ hơn để có thể mang đi dễ dàng và thay thế khi lốp chính bị thủng hoặc dùng trong các trường hợp khẩn cấp. Ngoài ra còn có loại lốp dẹt, bên trong ngoài lớp lót trong còn được giá cố thêm bằng một vách tăng cường để xe có thể chạy được một quãng đường kể cả khi bị thủng.


Lốp có nhiều kích cỡ, hình dạng khác nhau tuỳ thuộc vào từng loại xe và đặc tính sử dụng của nó. Các kính cỡ, tính năng và hình dạng thường được ghi ngay trên mặt bên của lốp.

Chẳng hạn trên mặt bên của một chiếc lốp có ghi là 195/60 R 15 86H điều này có nghĩa là loại lốp theo tiêu chuẩn quốc tế; chiều rộng lốp là 195mm; tỷ lệ chiều cao/chiều rộng là 60%; loại lốp bố tròn (R); đường kính vành lốp là 15 inch; khả năng chịu tải (chỉ số chịu tải 86 tương đương với 530 kg); tốc độ lớn nhất cho phép H (tương đương khoảng 210 km/h).


Các loại lốp được gắn vào xe cùng với vành xe. Vành là một bộ phận hình trụ tròn để lốp được gắn trên nó. Vành xe được làm bằng thép dập, thường chắc và khoẻ hơn nhưng nặng nề và không có tính thẩm mỹ cao như loại vành làm bằng nhôm đúc. Cùng với lốp nó hỗ trợ 3 chức năng cơ bản sau của xe : lái xe, quay vòng và dừng xe. Cũng như lốp, vành xe cũng được tiêu chuẩn hoá để dễ dàng trong việc lắp ráp, sửa chữa và thay thế. Các thông số kích cỡ vành được ghi trên mép vành xe như: chiều rộng vành, hình dạng gờ của vành, độ lệch, đường kính vành, tâm vành bánh xe, đường kính vành bánh xe, và mặt lắp may-ơ.


Ví dụ trên vành xe bằng nhôm đúc có ghi kích thước như sau: 14 x 5 1/2 JJ 45 nghĩa là đường kính vành 14 inch; chiều rộng vành 5,5 inch (5 1/2); độ lệch bánh xe 45 mm, hình dạng mặt bích vành JJ (hoặc J tuỳ theo hình dạng mặt bích vành bánh xe, gờ vai của JJ cao hơn J một chút, nó giúp cho lốp ít có khả năng bị tuột ra).

Các kiểu hoa lốp.

Hoa lốp được chế tạo theo nhiều kiểu khác nhau để vừa giúp cho việc thoát nước dễ dàng vừa ứng phó lại với các yếu tố phụ thuộc điều kiện khác nhau của mặt đường và của từng loại xe đang sử dụng.


Kiểu gân dọc: thường gồm nhiều rãnh hình chữ “Chi ” chạy dọc theo chu vi của lốp, kiểu này thích hợp nhất với mặt đường trải nhựa, tốc độ cao và thường dùng nhiều ở các loai xe du lịch, xe buýt hoặc xe tải nhẹ. Loại này thường có đặc tính làm giảm tối đa sức cản lăn của lốp, sức cản trượt ngang của lốp và rất có lợi cho tính năng điều khiển xe. Ngoài ra loại này còn giảm được tiếng ồn nhưng khả năng kéo kém hơn so với lốp kiểu vấu.
Kiểu vấu: các rãnh lốp thường chạy ra mép lốp theo hướng gần như vuông góc. Loại này tạo được lực kéo lớn, sức cản lăn hơi cao, sức cản trượt ngang thấp hơn, độ ồn lớn, các vấu lốp có thể mòn không đều, phù hợp với đường gồ ghề hoặc đường không trải nhựa, tốc độ chậm và thường dùng cho các loại máy xây dựng, xe tải hạng nặng.
Kiểu gân dọc và kiểu vấu kết hợp: kiểu này kết hợp được các tính năng của cả hai kiểu trên, giảm được độ trượt ngang, nâng cao tính năng dẫn động và phanh, chạy được cả trên đường trải nhựa hoặc đường gồ ghề.
Kiểu khối: Các hoa lốp được chia thành các khối độc lập, sử dụng ở hầu hết các lốp chạy trên đường có tuyết và các lốp sợi bố tròn. Thường dùng cho xe du lịch vì nó tạo ra tính năng dẫn động và phanh cao, giảm độ trượt dài và trượt quay trên đường có nhiều bùn và tuyết phủ nhưng loại lốp này thường mòn nhanh hơn kiểu gân dọc và vấu đặc biệt khi chạy trên bề mặt cứng.
Ngoài ra còn một kiểu hoa lốp nữa đó là kiểu lốp một chiều. Các lốp này có hoa lốp được định hướng về chiều quay. Các rãnh ngang được bố trí theo một chiều quay nhất định mục đích là để tăng tính năng thoát nước và như vậy khi đi trên đường ướt, nó tăng tính năng điều khiển xe. Tuy nhiêu nếu lắp sai chiều quay của lốp tính năng của nó sẽ bị kém đi.

Tiếng ồn hoa lốp.

Khi xe di chuyển trên đường thì không khí bị nén giữa các rãnh hoa lốp là nguyên nhân gây ra tiếng ồn. Ðó là vì các rãnh hoa lốp tiếp xúc với mặt đường có không khí bị cuốn vào và bị nén giữa các rãnh và mặt đường. Khi các hoa lốp rời khỏi mặt đường, không khí bị nén bật ra khỏi các rãnh gây ra tiếng ồn.

Tiếng ồn hoa lốp tăng lên, nếu hoa lốp có dạng dễ cuốn nhiều không khí vào các rãnh hơn. Chẳng hạn như kiểu hoa lốp dạng khối hoặc vấu có thể phát sinh nhiều tiếng ồn hơn kiểu gân dọc. Tần suất của tiếng ồn sẽ tăng lên khi tốc độ của xe tăng lên.

Ðộ đồng đều của lốp.

Ðộ đồng đều của lốp là sự đồng đều về trọng lượng, kích thước và độ cứng vững. Tuy nhiên, vì sự đồng đều về trọng lượng thường được gọi là “sự cân bằng của bánh xe”, và sự đồng đều về kích thước (hoặc nói khác đi, sự thiếu đồng đều) thường được gọi là “độ đảo”, nên độ đồng đều thường chỉ để nói “độ đồng đều về sự cứng vững”. Trong quá trình chuyển động, lốp thường chịu các dao động và rất khó phân biệt. Các dao động này gây ra sự biến thiên theo chu kỳ cho các lực mà nó chịu tác động từ mặt đường như biến thiên theo hướng kính (RFV), biến thiên lực ngang (LFV) và biến thiên lực kéo (TFV).


Ðể loại bỏ các rung động này cần phải cân bằng các cụm bánh xe một cách chính xác. Việc cân bằng bánh xe liên quan đến cân bằng cả cụm bánh xe và vành xe có lắp lốp. Khi tiến hành cân bằng bánh xe, người ta thường tiến hành cả cân bằng tĩnh (cân bằng khi bánh xe đứng yên) và cân bằng động (cân bằng khi bánh xe quay).

Ðộ mòn của lốp.

Ðộ mòn của lốp là sự tổn thất hay hư hỏng bề mặt lốp như mòn các hoa lốp và các bề mặt cao su khác do lực ma sát phát sinh khi lốp quay trượt trên đường. Các yếu tố ảnh hưởng đến độ mòn của lốp như áp suất bơm của lốp, tải trọng, tốc độ, phanh, điều kiện đường xá và các yếu tố khác.

Nếu ta bơm lốp quá non hoặc quá căng đều làm cho áp suất lốp không đúng tiêu chuẩn và như vậy lốp sẽ uốn cong quá mức khi nó tiếp xúc với mặt đường dẫn đến mòn nhanh. Áp suất lốp quá cao có nghĩa là lốp càng cứng tuy nhiên nó sẽ không hấp thu được các chấn động từ mặt đường dẫn đến tình trạng xe chạy không êm. Mỗi xe có một áp suất lốp tiêu chuẩn ứng với tải trọng và đặc tính của xe vì vậy khi bơm lốp cần chú ý điều này. Ngược lại áp suất lốp quá thấp sẽ làm lốp bị bẹp, làm tăng diện tích tiếp xúc giữa hoa lốp với mặt đường do vậy tăng sức cản khiến cho tay lái nặng hơn. Mặt khác nếu áp suất giữa các lốp không đều nhau, sức cản giữa các lốp bên trái hay bên phải không đều dẫn đến hiện tượng xe bị lạng sang bên trái hoặc bên phải.


Ảnh hưởng của áp suất lốp


Ảnh hưởng của tải trọng lốp

Tải trọng cao sẽ làm tăng tốc độ mòn của lốp cũng giống như khi giảm áp suất bơm. Lốp cũng mòn nhanh hơn trong lúc xe quay vòng khi chở nặng vì lực ly tâm lớn hơn khi quay vòng tác động vào xe sẽ làm phát sinh lực ma sát lớn hơn giữa lốp và mặt đường.


Ảnh hưởng của tốc độ xe

Các lực dẫn động và phanh, lực ly tâm lúc quay vòng tác động vào lốp tăng theo tỷ lệ bình phương của tốc độ xe. Do đó, việc tăng tốc độ xe sẽ làm tăng các lực này lên gấp bội, và tăng lực ma sát giữa hoa lốp và mặt đường; và do đó làm tăng tốc độ mòn của lốp. Ngoài các yếu tố này, điều kiện của đường cũng có ảnh hưởng mạnh đến độ mòn của lốp: rõ ràng là đường thô nhám làm cho lốp mòn nhanh hơn đường nhẵn.


Ðộ mòn của lốp không ảnh hưởng nhiều đến tính năng phanh khi đi trên đường khô. Tuy nhiên khi đi trên đường ướt và trơn nhiều thì quãng đường phanh sẽ dài hơn đáng kể vì các hoa lốp bị mòn đến giới hạn và không thể xả nước giữa các hoa lốp và mặt đường dẫn đến hiện tượng lướt nổi (khi xe quay trượt trên đường phủ nước, nếu tốc độ của xe quá cao làm cho hoa lốp không có đủ thời gian để đẩy nước khỏi mặt đường kiến nước vẫn bám chắc lốp xe. Lý do của hiện tượng này là khi tốc độ của xe tăng lên, sức cản của nước cũng tăng tương ứng, buộc các lốp “nổi” trên mặt nước. Người ta gọi hiện tượng này là hiện tượng lướt nổi hoặc lướt ván).


Căn cứ để thay lốp khi đã quá mòn gọi là các chuẩn báo mòn lốp.Các chuẩn báo mòn của hoa lốp là các đầu nhô bố trí ở rãnh lốp cao hơn phần còn lại của bề mặt hoa lốp 1,6 mm đến 1,8 mm và được đúc vào hoa lốp ở một số điểm dọc theo chu vi của lốp. Khi hoa lốp mòn theo thời gian, độ sâu của các đầu này giảm đi cho đến khi chúng trở nên ngang bằng với bề mặt của hoa lốp. Các chuẩn báo độ mòn hoa lốp của lốp chỉ rõ giới hạn mòn cho phép của lốp và được xác định bằng thước đo độ sâu, cho thấy khi nào là lúc phải thay lốp.

Thông thường chu kỳ kiểm tra định kỳ lốp thường là sau 10.000 km hay 6 tháng tuỳ theo điều kiện nào đến trước. Thay thế lốp trong khoảng 30.000 đến 40.000Km.

Những hiện tượng mòn không bình thường ở lốp xe.


- Mòn ở hai vai hoặc phần giữa lốp: Nếu áp suất lốp quá thấp, các vai mòn nhanh hơn phần giữa. Sự quá tải cũng gây ra hậu quả như vậy. Nếu áp suất lốp quá cao, phần giữa mòn nhanh hơn các vai.

- Mòn ở phía trong hay phía ngoài: Sự biến dạng hoặc độ rơ quá mức của các bộ phận của hệ thống treo ảnh hưởng đến độ chỉnh của bánh trước (ví dụ góc Camber bị sai) làm cho lốp mòn không bình thường. Nếu một bên hoa lốp của lốp mòn nhanh hơn bên kia, nguyên nhân chính có thể là độ quặp của bánh xe không chính xác.

- Mòn do độ chụm hoặc độ choãi của bánh trước: Nguyên nhân chính của hiện tượng mòn hình lông chim ở hoa lốp của lốp là do việc điều chỉnh sai độ chụm. Ðộ chụm quá mức buộc các lốp trượt ra ngoài và kéo bề mặt tiếp xúc của hoa lốp vào trong trên mặt đường, gây ra mòn do độ chụm. Bề mặt có hình rõ rệt giống lông chim như thể hiện trong hình minh hoạ- có thể xác định bằng cách cho một ngón tay vuốt qua hoa lốp từ trong ra ngoài lốp. Mặt khác, độ doãng quá mức cũng gây ra mòn.

- Mòn mũi gót: Mòn mũi gót là mòn một phần, thường xuất hiện ở các lốp có kiểu hoa lốp vấu và khối. Các lốp có kiểu hoa lốp dạng gân khi mòn tạo thành các dạng giống như hình sóng. Mòn mũi gót thường dễ xảy ra hơn khi bánh xe quay và không chịu lực dẫn động hoặc phanh. Do đó, kiểu mòn này thường xảy ra nhiều nhất ở các bánh không dẫn động hoặc không chịu lực dẫn động.

- Sự mòn vết: Nếu các ổ bi bánh xe, các khớp cầu, các đầu thanh nối… có độ rơ quá mức, hoặc nếu trục bị cong, lốp sẽ bị đảo ở các điểm cụ thể khi nó quay ở tốc độ cao gây ra lực ma sát mạnh và độ trượt, cả hai tác động này đều dẫn đến sự mòn vết. Một trống phanh bị biến dạng hoặc mòn không đều cũng dẫn đến sự mòn vết trên một khu vực tương đối rộng theo chiều chu vi.

Ðảo lốp.

Thông thường tải trọng đặt lên các lốp trước và sau khác nhau, nên mức mòn cũng khác nhau vì vậy ta phải tiến hành luân chuyển lốp để chúng được mòn đều. Việc luân chuyển lốp theo nguyên tắc được mô tả như trong sơ đồ.


Tuy nhiên việc luân chuyển lốp phụ thuộc vào từng loại xe và khu vực. Hãy xem xét kỹ trước khi luân chuyển.

Theo Caronline
 
Chỉnh sửa cuối:

Hindu

Xe tải
Biển số
OF-75567
Ngày cấp bằng
16/10/10
Số km
380
Động cơ
425,800 Mã lực
Khi nào cần phải thay lốp

1.Khi lốp bạn bị mòn

Biểu tượng logo nổi trên hông của lốp xe cho biết vị trí các chỉ số độ mòn mặt lốp tại mỗi rãnh chính của mặt lốp.
Cảnh báo mòn lốp là các gờ nổi nhỏ tại đáy của các rãnh của gai lốp.


Nếu bề mặt cao su nằm trong phạm vi này, lốp gần như đã đạt được giới hạn an toàn là 1,6 mm, hoặc thậm chí có thể thấp hơn! Sử dụng lốp mòn có tăng khả năng làm hỏng lốp và trong điều kiện đường ướt có thể làm cho lốp bất ngờ mất khả năng bám đường. Ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, hoàn toàn bất hợp pháp khi lái xe có độ dày lốp nhỏ hơn 1,6 mm.

2. Nếu lốp của bạn bị hư hỏng

Lốp của bạn sẽ bị hư hỏng nghiêm trọng nếu nó va phải bất kỳ vật cứng nào trên đường chẳng hạn như lề đường, ổ gà hay đinh. Trong những trường hợp đó, bạn vẫn có thể sửa, nhưng chỉ đại lý bán lẻ lốp được ủy quyền hoặc chuyên viên kỹ thuật về lốp xe mới có thể cho bạn biết xem liệu có thể sửa lốp xe đó không hay là phải thay mới.


Lưu ý:

Cần người có chuyên môn khi tiến hành kiểm tra lốp vì có thể có những hỏng hóc bên trong lốp mà quan sát bằng mắt chúng ta không thể thấy được sau khi lốp đã được lắp.
Tuy nhiên, nếu xảy ra một trong các trường hợp sau thì chúng ta hoàn toàn không thể sửa chữa lốp:

1. Thủng hông lốp
2. Nhìn thấy được tanh lốp hoặc tanh lốp bị biến dạng
3. Cao su hoặc sợi bố bị tách rời
4. Cao su hoặc sợi bố bị nhăn
5. Hỏng do các chất hydrocácbon hoặc chất ăn mòn.
6. Cao su phía trong bị sước hoặc có đường vằn do chạy xe khi lốp non hơi.

3. Nếu lốp của bạn bị lão hóa

Tuổi thọ sử dụng của lốp thay đổi bất thường và rất khó có thể dự đoán được. Vì lý do này, Michelin khuyến cáo cho tất cả lái xe nên lưu ý đến biểu hiện bên ngoài của lốp, đến sự giảm áp suất lốp hoặc bất kỳ sự cố bất thường nào (như rung, tiếng ồn, lực kéo ngang). Điều này có thể cho biết cần thay lốp.

Hơn nữa, ngoài kiểm tra thường xuyên và điều chỉnh áp suất lốp, Michelin cũng khuyến cáo rằng tất cả các lốp (bao gồm cả lốp dự phòng, lốp trên xe moóc, xe cắm trại) đều phải được một chuyên gia về lốp kiểm tra thường xuyên, là người có thể đánh giá xem liệu có thể tiếp tục sử dụng chúng hay không. Sau 5 năm hoặc quá 5 năm sử dụng, phải tiến hành kiểm tra ít nhất 1 lần/năm. Trong trường hợp cần thiết, hãy theo khuyến nghị của nhà sản xuất khi thay thế lốp theo xe.


Lưu ý rằng, nếu sau 10 năm kể từ ngày sản xuất mà vẫn chưa thay lốp, Michelin khuyến nghị nên thay lốp mới thậm chí nếu chúng vẫn có thể sử dụng và chưa mòn đến chỉ số mài mòn.

 
Chỉnh sửa cuối:

MatizSE

Xe đạp
Biển số
OF-20879
Ngày cấp bằng
7/9/08
Số km
18
Động cơ
498,980 Mã lực
Nơi ở
Tuyên Quang
em mới mua kia karen 2014 bản số sàn. Sao em thấy tay lái của nó nặng vậy các cụ? nhất là lúc mới xuất phát nặng như không có chợ lực vậy? cụ nào giúp em với ạ
 

nothinghd

Xe điện
Biển số
OF-52568
Ngày cấp bằng
10/12/09
Số km
4,097
Động cơ
493,084 Mã lực
em mới mua kia karen 2014 bản số sàn. Sao em thấy tay lái của nó nặng vậy các cụ? nhất là lúc mới xuất phát nặng như không có chợ lực vậy? cụ nào giúp em với ạ
Trợ lực dầu, nên cụ cảm thấy hơi nặng, đi rồi sẽ quen.

Mà hồi xưa học tiểu học, cô giáo dậy cụ bỏ đi lấy chồng sớm sao mà cụ viết sai chính tả tè le vậy :(
 

olala

Xe tăng
Biển số
OF-12140
Ngày cấp bằng
17/12/07
Số km
1,528
Động cơ
540,512 Mã lực
Bài của cụ [@Libor;5530] bổ ích quá, mà em xem lại thì mất hết ảnh rồi. Em mới cưới Kem máy dầu, cũng có những hiện tượng như trong bài viết, nhưng không xem được ảnh nữa. Cụ Lý xem xét mà up lại hình được thì tốt quá. Em đang quan tâm đến mấy vấn đề như
6. Khi đi trên đường xấu thấy kêu lục cục ở bánh trước... rõ nhất là khi chạy chậm qua lằn ngang đường. Tiếng kêu rất khó chịu. Có thể làm gì để khắc phục?
16. Nghe nói ống dầu phanh có một đoạn chạy trong hốc lốp bên phụ, nếu thợ lắp không đúng ống này rất dễ bị cọ vào ống dây điện của cảm biến ABS gây thủng rất nguy hiểm. Cụ thể là như thế nào? Xem thêm ở đây và ở đây.
==> cài này để em kiểm tra qua xe của em xem có vđ gì không, an toàn là hàng đầu mà.
À, mà các cụ cho em hỏi, xe diezezel thì thường các cụ thay dầu hãng nào, loại nào, em thường toàn mua cả thùng 4 can để thay dần nên muốn hỏi qua kinh nghiệm để mua đúng loại cần thiết.
 

Trongthuc1974

Đi bộ
Biển số
OF-347555
Ngày cấp bằng
21/12/14
Số km
4
Động cơ
269,340 Mã lực
Chào các bác. Em có con 2009 CRDi 2. 0. Gần đây nó bị bệnh là: sáng dậy nó không nổ, hoặc nổ thì ga không lên, e rút vòi hơi turbo ra thì ga lên ầm ầm, sau đó em cắm lại chạy cả ngày bình thường có khi 140km/h. Tối về ngủ, sáng sau lại bị như cũ. Xin các bác chỉ giáo.e mới tham gia, các bác thông cảm nhé.
 
Chỉnh sửa cuối:

laodatma

Xe điện
Biển số
OF-20883
Ngày cấp bằng
7/9/08
Số km
4,000
Động cơ
538,800 Mã lực
Chào các bác. Em có con 2009 CRDi 2. 0. Gần đây nó bị bệnh là: sáng dậy nó không nổ, hoặc nổ thì ga không lên, e rút vòi hơi turbo ra thì ga lên ầm ầm, sau đó em cắm lại chạy cả ngày bình thường có khi 140km/h. Tối về ngủ, sáng sau lại bị như cũ. Xin các bác chỉ giáo.e mới tham gia, các bác thông cảm nhé.
Món này thì mời cụ Ca_ce vào tư véo là chuẩn luôn
 

hoacvxd

Xe tăng
Biển số
OF-136497
Ngày cấp bằng
30/3/12
Số km
1,465
Động cơ
383,450 Mã lực
Nghe lỏm được dầu Dung Quất khó nổ hơn dầu Sing. Liệu cụ có mua phải dầu Dung không?
 

laodatma

Xe điện
Biển số
OF-20883
Ngày cấp bằng
7/9/08
Số km
4,000
Động cơ
538,800 Mã lực
Các bác chỉ cụ thể e với
Các cao thủ giúp e đi
[1:27:04 CH] thanhson: hỏng cảm biến gió anh nhé
[1:27:37 CH] Nguyễn Tất Đạt: chi phí sửa chữa hết tầm bao nhiêu?
[1:27:51 CH] Nguyễn Tất Đạt: thay đồ, tiền công?
[1:28:27 CH] Nguyễn Tất Đạt: cảm biến chỉ có thay chứ sửa gì được nhỉ
[1:30:05 CH] thanhson: BÁC NÓI BÁC ẤY QUA CHỖ EM DI
[1:30:18 CH] thanhson: EM KHÁM TỔNG QUÁT CHO
Mời cụ qua các xưởng KLB (Kia Long Biên) or KGP (Kia Giải Phóng) tùy theo địa bàn hoạt động để xử lý nhé! :D
 

Trongthuc1974

Đi bộ
Biển số
OF-347555
Ngày cấp bằng
21/12/14
Số km
4
Động cơ
269,340 Mã lực
E ở hà tĩnh các bác ơi. Dầu e đổ cụ petrolimex thôi.
 

kiamorning2007

Xe tăng
Biển số
OF-104222
Ngày cấp bằng
26/6/11
Số km
1,601
Động cơ
412,229 Mã lực
Chào các bác. Em có con 2009 CRDi 2. 0. Gần đây nó bị bệnh là: sáng dậy nó không nổ, hoặc nổ thì ga không lên, e rút vòi hơi turbo ra thì ga lên ầm ầm, sau đó em cắm lại chạy cả ngày bình thường có khi 140km/h. Tối về ngủ, sáng sau lại bị như cũ. Xin các bác chỉ giáo.e mới tham gia, các bác thông cảm nhé.
V2 cụ cùng đời với em, em cũng hóng quả này phát xem dư lào
 

hoacvxd

Xe tăng
Biển số
OF-136497
Ngày cấp bằng
30/3/12
Số km
1,465
Động cơ
383,450 Mã lực
cụ nói bé thôi, lão Ma được thưởng to vì em Dung này đấy
Nhân viên của cụ cũng kháo với em là ngày trước máy phát của các trạm cũng bị hiện tượng khó nổ, sau này thì petro đã nhập Sing về rồi không bị nữa.
Cụ ấy ở Hà Tĩnh liệu có rơi vào vùng giao thoa không nhỉ.
Tốt nhất là vào hãng ktra như ý kiến cụ Ma đã tư vấn.
 
Trạng thái
Thớt đang đóng
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top