- Biển số
- OF-22573
- Ngày cấp bằng
- 17/10/08
- Số km
- 216
- Động cơ
- 496,870 Mã lực
Cấu tạo xe tăng : :6:
1.Khái quát :
Xe tăng xuất hiện lần đầu tiên trên chiến trường là vào ngày 15/9/1916,vào năm thứ 3 của cuộc thế chiến I, phe sử dụng là Anh ( 49 chiếc) , trong trận ra mắt này chỉ cần vài giờ ( từ sang sớm đến 10h sang) quân Anh đã chiếm lĩnh trận địa phòng ngự có chiều sâu 5km của quân Đức dọc sông Sein (Xen) trên đất Pháp…….
……Đến thế chiến II, trên chiến trường châu Âu càc nước tham chiến đều muốn đè bẹp đối phương bằng tank , trận đấu tank nổi tiếng thời đó là trận Kurk…..Hồi Gulf War I, Iraq dùng khoảng 5.600 tank.
2. Vài vấn đề liên quan tới bánh xích và dây xích:
-Vì sao tank có hai vòng bánh xích sắt vừa to và rộng, vì sao tank chạy được trên mặt đất sình lầy, cơ cấu xích:
-Tank nặng vài chục tấn , thấy cồng kềnh vậy nhưng lại chạy rất nhanh, các tank hiện đại có speed tối đa tới 70km/h, tốc độ trung bình khi chạy trên đị hình nền đất cứng nông thôn cũng khoảng 30-55km/h. Sức cơ dộng của tank là nhờ vào động cơ diesel tăng áp hay turbine khí , các cơ cấu treo và truyền động. Bộ bánh xích tank gồm:
-Bánh chủ động (Main wheel)
-Bánh chịu tải (Road wheel)
-Bánh chuyển hướng (Drive wheel)
-Bánh đỡ xích(Track return roller)
-Tác dụng của hệ thống bánh xích là làm bệ đỡ cho tank, đẩy tank chạy. Vòng xích( dây xích) là phần tiếp xúc trực tiếp với mặt đất. Thông thường nó có bề ngang xê xích trong khoảng 500mm, bề ngang của dây xích to làm cho áp lực trung bình của tank lên mặt đất giảm..Thông thường tổng diện tích tiếp xúc của dây xích với mặt đất là 3-4m2 ( rông hơn nhiều so với so với bánh xe hơi (ô-tô). Áp lực của bánh xích tank lên mặt đất không lớn, ( tank T80U, nặng khoảng 46 tấn nhụng áp lực bánh xích chỉ có 0.925kg/cm2, tank M1A1 63 tấn có áp lực bánh xích 13.8pound/inch vuông tức khoảng 2.44kg/cm2), áp lực này thấp hơn áp lực lên mặt đất của xe tải hạng trung do vậy mà tank co thể chạy nhanh trên vùng đất sình lầy, còn xe tải tuy nhẹ hơn tank nhiều nhưng do diện tích tiếp đất của bánh là nhỏ nên áp lực trở nên lớn nên thường hay bị mắc lầy. Về mặt lý thuyết thì thiết bị vận hành bánh xích của tank là vượt mọi loại đường, nhưng trong thực tế thì kiểu ruộng sình như ruộng lúa nước thì ….thua
- Nằm trong vòng dây xích có các bánh sắt kích thước khác nhau, chúng có vị trí và chức năng khác nhau.
Bánh chủ động (Main Wheel): Thông qua sự ăn khớp ( sprocket) giữa bánh răng và dây xích để truyền động lực từ động cơ sang dây xích làm cho xe tăng chuyển động, bánh này nằm ở vị trí sau chót đuôi xe.
Bánh chuyển hướng( Drive wheel): Đây là một bánh răng bị động nằm vị trí đầu tiên tính từ phía trước , có tác dụng xác định phương hướng của xích, nó còn có tác dụng chỉnh cho dây xích căng hay chùng
Bánh đỡ xích (track return roller): Nằm ở vị trí cao nhất tính từ duới mặt đất trở lên, nó có tác dụng nâng đỡ phần trên vòng dây xích, giảm bớt sự lắc động của xích( T-72 có 3 ku này), nhưng không phải ku tank nào cũng có bánh đỡ, tank hạng nặng không có nó .
Bánh chịu tải ( road wheel): Thằng ku này cực nhất gánh gần như toàn bộ trọng luợng tank và đồng thời làm cho tank di động theo vòng dây xích. Mỗi một bên tank có có ít nhất 5 ku này(T-54/55), thông thường là 6(T-72/80/90), thậm chí 7 ( ku M1A1). Bánh chịu tải được bố trí nhiều nhằm mục đích gỉam sức nặng phải gánh trên mỗi chiếc , áp lực lên mặt đất được dàn đều.
Tóm lại mỗi ku bánh xe to nhỏ khác nhau đều có tác dụng riêng và vô cùng quan trọng đối vói sự cơ động của tank.
Mắc xích đơn/ đôi,có/ không có bọc cao su : ( single/double- pin tracks, with/without rubber bushed):
-Loại tank xưa nhất mà tôi được biết có mắc xích đôi là loại tank hạng nhẹ M5 Stuart của Mỹ, còn loại bánh chịu tải có bọc cao su luôn thì hình như là M-41 là chiếc đầu tiên cũng của Mỹ (ai biếi rõ hơn xin bổ sung). Bánh chịu tải bọc cao su thì nhằm mục đích cho nó trơn tru chay êm , ít phát ra tiếng ồn do ma sát với xích khi di chuyển.
-Mắc xích đơn(single -pin track): Ta nói nôm na là cái mắc xích đó nó chỉ có liên kết dọc với các mắc khác tạo thành vòng xích, cấu tạo mắc xích là một miềng thép (spacer) mắc liên tiếp nhau theo bởi hai trục sắt, các trục sắt của hai mắc xích liên tiếp nhau được cố định với nhau bằng chốt tán
-Mắc xích đôi(Double-pin track): Ngoài việc liên kết dọc, mỗi mắc xích còn mắc vào một mắc xích khác y hệt nó theo chiều ngang, mục đích của mắc xích đôi là tăng diện tích tiếp xúc của vòng xích lên mặt đất, giảm áp lực đè lên mặt đất nên tank có khả năng cơ động cao..Xem hình minh hoạ:
Để ý kỹ trong tấm ảnh thứ ba thì cái cuối cùng trong ảnh là xích đơn
Tất nhiên là các bánh xe/răng trang bị kèm theo cũng phải là bánh xe/răng đôi:
Kết cấu mắc xích như trên được thấy hầu hết trên các model tank của các nước, khi các mắc xính được gắn các miếng su lên bề mặt ( cái này khó lắm nhe vì không hề dùng đinh ốc hay con tán gì hết, chả biết dùng cái gì gắn vào, ai biết đóng góp thêm ) nó tăng khả năng đi trn a hình tuyết và sình lầy
Có một điều lạ là trên model tank T-64, T-72 của Nga, người ta dùng kiểu mắc xích có bề ngang rộng để cấu thành kiểu xích đôi như tôi nói, nên khi nhìn trực diện vào ta vẫn có cảm giác nó như xích đơn, ưu điểm là tiết kiệm vật liệu
- Thứ nhất khi nói về các số luợng bánh xe/răng tôi nói trong bài trứoc là chỉ nói một bên xích của tank mà thôi, ví dụ khi nói T-72 có ba bánh đỡ xích -track return roller tức là mộị bên xích có ba bánh như thế.
-Thứ hai là khi nói không phải tank nào cũng có loại bánh này-cái này đúng, nhưng khi nói tank hạng nặng mói có thì e là chưa chính xác, bằng chứng là ku M41A3 trong thế chiến hai nặng chỉ có 26 tấn cũng có cái bánh đỡ xích này.
Xem hình:
Sau khi lục lọi tìm tòi, tôi tạm kết luận là tank có gắn bánh đỡ xích hay không hoàn toàn phụ thuộc vào nhà sản xuất ( mục đích của bánh đỡ xích để làm gì xin vui lòng xem lại bài cũ), khi không có bánh đỡ xích thì vị trí ( so với mặt đất) của bánh dẫn hướng và bánh chủ động tương đối thấp hơn tí chút khi tank có gắn bánh đỡ xích.Phần lớn tank hiện đại ngày nay đều có loại bánh này.Bây giờ nói thêm vì sao tank có khả năng vượt được hào sâu và leo dốc hơn hẳn xe hơi(ô tô ):
- Tank có khả năng leo dốc 30-45 độ đi được trên mặt đường nghiêng 25-30 độ, vượt tường cao 0.8m-1.2m. Điều này không phải xe ô-tô việt dã nào cũng làm được.
-Như tôi đã nói trong phần trên, diện tích tiếp xúc đất của xích tank là khá lớn, vệt xích để lại trên mặt đất là do trọng lượng nặng nề của nó gây ra, do vậy mà giữa xích và mặt đất có lực ma sát lớn, khó trơn trượt.Ngoài ra. tank có bộ máy công suât lớn ( trên M1A1 là 1500hp) nên khả năng leo dốc hơn hẳn ô tô.
Hẳn mọi người còn nhớ tới bánh răng/xe dẫn hướng tôi nói ở phần đầu, bánh răng này có tâm ở vị trí khá cao so với mặt đất, do vậy mà gặp chướng ngại vật có độ cao không vượt quá góc cao của bánh răng này, tank đều có thể vượt qua dễ dàng.
-Khả năng vượt hào sâucủa tank có liên quan có liên quan tới độ dài thân xe và vị trí trọng tâm của xe , ta thấy rằng thân xe tank khá dài và độ dài của xích gần bằng với độ dài thân xe, trọng tâm xe cách khá xa hai đầu mút dây xích nơi có hai bánh chịu tải đè lên, do vậy chỉ cần chiều rộng của đường hào nhỏ hơn khoảng cách này thì tank vượt qua được., khi tank vượt hào, phần trước tank ban đầu sẽ treo lơ lửng trên hào, khi trọng tâm xe tiếp cận mép hào phí sau thì phí trước xe tank chạm mép hào phí trước, nên tank chạy tới cho đến khi đuôi xe rời mép hào sau.Nếu trọng tâm xe lúc này đã đi qua mép hào sau, tank vượt hào dễ dàng, ngược lại tank sẽ tụt xuống hào. Như vậy khả năng vượt hào của tank là có giới hạn nhất định. Trong thực tế thì với hào rộng bằng 40%-60% độ dài thân xe thì tank vyựơt qua được, tank hiện đại vượt được hào có độ sâu từ 2.5m-3.15m.Nếu độ rộng của hào vượt quá khoảng cách từ bánh chịu tải thứ nhất phía trước cho đến trọngg tâm xe thì phần bánh xích phí trước sẽ tụt xuống hào.</strong>Vì vậy để ngăn chặn sự tiến công của tank trên chiến trường, ta có thể đào hào rộng cỡ 6m (tối thiểu), sâu khỏang 3.5m trở lên.
Hình tank T80 đang vươt chướng ngại vật:
Tìm hiểu kỹ thì thật ra miếng đệm cao su đó được đúc trong khuôn rời, và có "thể tíchlớn hơn một cách hợp lý"[/u] so với thể tích của " cái khung" định hình gắn miếng cao su trên xích tank, <strong>xem hình để ý hai cái gờ định hình nhô cao
-Sau đó người ta dùng một thiết bị có cơ cấu thủy lực để gắn miếng cao su lưu hoá ấy vào, nên nhớ cao su có tính đàn hồi, do vậy khi đã lọt vào cái khung, miếng đệm cao su ấy sẽ bung ra do nó có thể tích lớn hơn một chút như đã nói và tự động ôm cứng ngắt trong khung định hình đó, công nghệ này gọi là QUICK FIT, nó cho phép người ta có thể thay thế các miến đệm cao su trong vòng vài phút khi cần thiết ( cũng bằng thiết bị thuỷ lực đó). Đó là cách hiện đại ngày nay.
-Khi xưa thì miếng đệm cao su được gắn vào xích bằg bù lon:
-Nhân tiện nói luôn về ICE CLEAT, cái này dùng để tăng độ bám khi xe tank chạy trênn địa hình băng tuyết, nó là một miếng thép được cố định vào xích bằng bù lon dùng chung cái khuôn của miếng đệm cao su.
-Miếng cao su lắp phía ngoài cùng, khi xe di chuyển trong địa hình băng tuyết thì người ta tháo nó ra theo cách tôi đã nói ở trên.
Hình cấu tạo hai mặt của ICE CLEAT:
Hệ thống truyền động:
-Theo thống kê trong Thế chiến 2, trong số các tanks bị phá hủy hoặc mất khả năng tác chiến thì các vị trí bị trúng đạn trên xe như sau:
+ Thân xe 55% trong đó phía trước xe 25%, hai bên sườn (hông) xe 17%, phần dưới hai sườn-xích xe 11%, phía sau 2%, <strong>trúng đạn ở tháp pháo chiếm 45%,trong đó tỷ lệ phía trước của tháp pháo (turret) bị trúng đạn cao nhất.
-Do đó sau thế chiến 2, các quốc gia đều nghiên cứu về tình trạng trúng đạn trên các vị trí của tank nhằm mục đích thiết kế tối ưu độ dày vỏ giáp cho từng vị trí của tank, hình dáng bên ngoài, cấu tạo giáp kiểu mới để nâng cao khả năng chống đạn .
-Theo số liệu trên thì dễ nhận thấy rằng mặt trước tank dễ bị “ăn đạn” nhất nên nó có cấu tạo giáp dày nhất. Đơn cử như tank T-54A có giáp phía trước dày 100mm trong khi hai bên sường chỉ dày 80mm, phía sau thì còn mỏng hơn nữa chỉ từ 30mm-45mm mà thôi.Tấm vỏ giáp ở phía trước có góc nghiêng 60 độ so với phương thẳng đứng, phía dưới của mặt giáp trước có góc nghiêng 55 độ.Thết kế này nhằm làm đạn pháo chống tank sẽ bị “trượt qua” khi tiếp xúc . Đồng thời vỏ giáp nghiêng còn có giá trị tương đối làm tăng độ dày nhằm chống lại đạn xuyên. Thí dụ tấm vỏ giáp dày 100mm và nghiêng 60 độ có giá trị tự bảo vệ như vỏ thép dày 200mm đặt thẳng đứng.Do đó, góc nghiêng càng lớn thì khả năng chống đạn càng cao( ví dụ minh họa T-72 có vỏ giáp hợp kim phía trước dày 204mm, nghiêng 68 độ). Về phần tháp pháo trên các lớp tank hiện đại ngày nay thường được đúc nguyên khối và có độ cao thấp.
Nga đã đưa vào trang bị thế hệ xe tăng T-90 cải tiến mới nhất. Về cơ bản tăng T-90 được thiết kế trên cơ sở xe tăng T-72B. Đầu xe dốc, nhỏ, phía trên vị trí của lái xe có lỗ quan sát bằng hệ thống kính quang học góc nhìn rộng. Tháp của xe thấp, rộng, phía phải của tháp là vị trí của trưởng xe. Kíp xe 3 người; gồm trưởng xe, lái xe và pháo thủ. Để chống nóng, nòng pháo 125mm được thiết kế theo kiểu tản nhiệt. Hai bên tháp pháo có chứa các bình khí hỗn hợp tạo khói mù. Hệ thống phát nhiễu tích cực của xe tăng T-90 có chức năng gây nhiễu hệ thống điều khiển bắn, dẫn đến làm lệch hướng đường đạn bắn ra từ xe tăng của địch. Ngoài ra, tăng T-90 còn được trang bị hệ thống cảnh báo và điều khiển bắn, máy đo xa la-de, vì thế có thể tiêu diệt được nhiều xe tăng và máy bay trực thăng của địch ở cự ly cho phép kể cả vào ban đêm. Tăng T-90 nặng 48 tấn, dài 9,6m, cao 2,6m, rộng 2,2m, vận tốc tối đa 70km/h và có thể chạy xa được 550-650km. Tăng T-90 có thể vượt qua được các hồ nước sâu 1,6m, rộng 3m và các ụ gồ ghề cao 0,8m. Xe được trang bị 1 pháo 125mm với cơ số đạn 40 quả, tầm bắn xa 4.000m, 1 súng phòng không 12,7mm với 300 viên và 1 súng máy 7,62mm với cơ số 2.000 viên
Xe tăng T-95 có trọng lượng 50 tấn, chiều dài và rộng cơ bản như xe tăng T-72 và T-80, trang bị pháo nòng trơn 135 mm. Xe sử dụng động cơ tua-bin khí CTD-1250, công suất lớn, bảo đảm cơ động ổn định với tốc độ cao trên mọi địa hình khác nhau. Xe được thiết kế, bố trí các bộ phận theo kiểu ngăn cách các khoang. Pháo chính bố trí trên tháp pháo không người điều chỉnh có diện tích, kích thước nhỏ. Hệ thống điều khiển hoả lực tự động hoá kiểu mới được sản xuất theo mô hình của các loại xe tăng hiện đại nhất của các nước hiện nay. Kíp lái 5 người, tất cả đều làm việc trong khoang chiến đấu nằm giữa khoang nạp đạn và tháp pháo. Việc bố trí như vậy sẽ giảm độ cao của xe, nâng cao năng lực phòng thủ, bảo đảm an toàn cho các thành viên trong kíp lái.
T-95 lắp thiết bị gây nhiễu quang điện CT-1 để đối phó với các loại tên lửa chống tăng của đối phương, giải quyết được vấn đề mâu thuẫn giữa năng lực phòng thủ và năng lực cơ động. Thiết bị gây nhiễu không chỉ nâng cao tính năng tàng hinh của xe mà còn có thể thực hiện gây nhiễu các loại đạn pháo và các loại đầu đạn tên lửa có hệ thống dẫn đường của đối phương. T-95 còn trang bị hệ thống phòng thủ chủ động Ka shtan-1 có khả năng ngăn chặn các loại tên lửa chống tăng bay với tốc độ 700 mét/giây ở mọi góc độ. T-95 còn trang bị hệ thống kiểm soát hoả lực loại mới hiện đại. Các thông tin về mục tiêu sẽ được thu thập qua hệ thống thu sóng quang học, hệ thống màn hình, hệ thống tia hồng ngoại, các thiết bị khác và các thiết bị này sẽ liên kết hoạt động với hệ thống phòng thủ chủ động toàn bộ Ka shtan-1. Thời gian từ khi phát hiện mục tiêu đến khi tấn công mục tiêu của T-95 rất ngắn nhưng độ chính xác rất cao
Xe tăng MK4 của I-xra-en được nghiên cứu chế tạo trên cơ sở xe tăng MK1, MK2, MK3 của Mỹ, nhưng nó có tỷ lệ nội địa hoá rất lớn, chỉ có động cơ là do Mỹ sản xuất.
Xe tăng cao 2,66m, kích thước của tháp pháo nhỏ, khoảng cách từ khoang ngồi đến tháp pháo là 90cm. Vỏ xe được thiết kế là loại giáp kép và giáp nhiều tầng, có khả năng phòng thủ rất tốt cả ở mặt trước, mặt sau và hai bên xe, khả năng chống mìn rất tốt.
So với các loại xe tăng truyền thống thì MK4 được trang bị hệ thống vũ khí hỗn hợp kiểu mới gồm một pháo nòng trơn 120 mm sử dụng đạn xuyên giáp, phá giáp; một súng máy 7,62 mm, 2 pháo cao xạ, một giàn pháo phản lực 60 mm. Hệ thống kiểm soát hoả lực gồm một kính ngắm bằn tia la-de, một thiết bị đo xa la-de, hệ thống máy tính, kiểm soát hoả lực, thiết bị cảm biến, thiết bị điều khiển ổn định hướng và thiết bị bám đuôi mục tiêu tự động, có thể tự động định vị chính xác mục tiêu (đây là thiết bị tương ứng như thiết bị trên xe tăng chủ chiến T90 của Nhật).
Xe tăng MK4 sử đụng động cơ đi-ê-đen 1500 mã lực, tính năng cơ động cao. Vũ khí trên xe sử dụng nhiều loại đạn khác nhau được chứa tiếng các khoang nhỏ. Các hòm chứa đạn được làm bằng nhiên liệu phức hợp, có thể cách nhiệt, chống việc tự phát nổ. Với các thiết bị bảo vệ được trang bị, xe tăng MK4 được coi là xe tăng an toàn nhất cho các thành viên trong kíp chiến đấu
Trước khi nói về cấu tạo vỏ giáp cần tìm hiểu khả năng xuyên giápcủa đạn chống tank , điểu này phụ thuộc nhiều thứ :
+ Góc chạm nổ khi đạn tiếp xúc mặt giáp (Angle of impact),
+ Góc trượt gây bởi độ nghiêng của giáp
+ Vận tốc tại từng thời điểm sau khi bắn(Remainning
velocity)
+ Mật độ đậm đặc của khối thuốc nổ, hình dáng khối thuốc
nổ trong đầu đạn khi tiếp xúc ( hehe, xem thêm bài teo
post bên mổ xẻ tên lửa có điều khiển , phần đầu nổ đó )
- Đừng tưởng bở kiểu vận tốc đạn càng cao thì khả năng xuyên giáp càng lớn, thực tế cho thấy khi vận tốc đạn là trong khoảng 3km/giây sẽ gây thiệt hại nhanh hơn là vận tốc đạn 7km/giây.,đó là do đạn có vận tốc thấp thì đạn không bị phá thành nhiều mãnh vụn như đạn có vận tốc cao, do vậy mà khả năng xuyên gíap của nó là sâu hơn đạn có vận tốc lớn( sau này thì người ta dùng APDS để khắcc phục nhược điểm này, tức là đạn vẫn có vận tốc cao nhưng do dùng kim loại nặng nên không bị phá tan thành mảnh vụn, vẫn xuyên tốt khi chạm mục tiêu. Biểu đồ mối liên quan giũa đường kính đạn và vận tốc khi đạn tiếp xúc giáp trong đó đường kính đạn thể hiện theo truc dọc, còn vận tốc đạn theo trục ngang :
-Bây giờ ta nghiên cứu khả năng xuyên giáp của đạn để hiểu lý do tại sao giáp phải có độ nghiêng là bao nhiêu độ nhằm tối ưu khả năng chống lại nhiều loại đạn chống tank.
-Về hình dáng viên đạn có hai loại diển hình: đầu tù (blunt) và đầu nhọn (shape), về lý thuyết thì đầu đạn tù ít khả năng xuyên phá hơn, nhưng trong thực tế thì ngược lại , đầu đạn tù có khả năng xuyên cao đối với các mặt giáp nghiêng , nôm na là vì đầu đạn tù sẽ đổi dường đạn khi tiếp xúc với bề măt giáp .
Hình mô tả hướng xuyên giáp của đầu đạn tùDo khi tiếp xúc đường đạn bị đổi hướng do đó ta thấy độ dày thực tế vỏ giáp mà đầu đạn cần phải xuyên là gần bằng độ dày thực của giáp.
Hình mô tả hướng xuyên giáp của đầu đạn nhọn:
Dễ thấy độ dày thực tế mà đầu đạn cần xuyên qua là cao hơn độ dày cấu tạo vỏ giáp
Chóp của đầu đạn tù bọc một một loại kim loại “mềm” có độ ma sát cao.Khi tiếp xúc giáp do có độ ma sát cao nên nó gây cản trở hướng lực ban đầu làm đổi hướng viên đạn , khi ấy trục của viên đạn sẽ tao với mặt phẳng giáp một góc 90 độ. Nga gọi cái hiệu ứng này là “chuẩn hoá” ,đạn nhọn phá giáp thẳng đứng (vertical armor) khá hơn đạn tù .
Bây giờ tìm hiểu chiều dày thực tế mà đạn chống tank cần phải xuyên qua nhé qua thí du cụ thể là đạn ( chống tank) nhọn của Nga
Nói về giáp nhiều lớp thực ra mổi lớp giáp đều có 1 nhiệm vụ riêng và đặc tính riêng cũng như thành phần cấu tạo riêng . Thậm chí có thể cùng thành phần cấu tạo là 1 loại thép nhưng được chia làm 2 lớp chứ không làm thành 1 khối duy nhất .
Lý do của việc chia giáp thành nhiều lớp có nhiều lý do :
Chống đạn HEAT : đạn HEAT có 2 kiểu :
Shaped charge : kiểu thiết kế này khiến luồn xuyên sau khi đi qua lớp giáp thứ nhất thì khoảng không nhỏ ở giửa 2 lớp có áp suất và mật độ thấp nối giửa 2 lớp là 1 mạng lớp các khe nên luồn xuyên sẻ bị phân tán ra đến lớp thứ 2 luồn xuyên không còn đủ tập trung và đủ mạnh.
Đạn mảnh phá : đạn này có đặc điểm là khi bắn trúng nó sẻ dính vào vỏ giáp ,dùng vỏ giáp như là vỏ của quả đạn và nổ xé vỏ giáp bắn các mảnh giáp vào trong ,khi là 1 khối giáp thì sẻ bị xé tan nhưng khi chia ra thì xé lớp ngoài các lớp trong sẻ hứng lấy các mảnh giáp vụn.
Chống Sabot : đạn sabot sau này có thiết kế cho hiệu ứng hiệu chỉnh giúp góc xuyên của đạn gần 90 độ hơn , nếu là 1 khối duy nhất thì hiển nhiên là nó xuyên qua luôn nhưng nếu là nhiều lớp thì sau khi qua lớp thứ nhất thì hiệu ứng hiệu chỉnh sẻ giảm đi .
Về các lớp giáp
Chống NBC: nuclear bio chemist .
Lớp này gồm composite là chính pha thêm 1 số chất gì nửa thì là bí mật. Mục tiêu là chống lại bức xạ notro . Còn bio và chemist thì đối phó bằng hệ thống lọc khí và các cao su bịt kín lại các khe hở của xe tăng .Khi hệ thống báo động thấy nồng độ không khí có nguy hiểm lập tức khí nén được bơm vào và các túi cao su sẻ bịt kín khoang lái .Hệ thống này cũng được áp dụng cho việc xe tank chạy ngầm dưới đáy sông . Về khoảng này phải gắn thêm 2 cái ống thông gió ,1 cho lính lái và 1 cho động cơ ,ống này chỉ dài thêm khoảng 3-4m và đó là độ sâu tối đa tank đi ngầm được
Theo phân tích của các nhà quân sự, bước vào đầu thế kỷ 21, xe tăng thế hệ thứ ba vẫn chiếm vị trí chủ yếu trên chiến trường. Nhưng đến năm 2015, xe tăng thế hệ thứ ba sẽ mất dần ưu thế và trở nên lạc hậu, nhường chỗ cho những xe tăng mới, hiện đại và có những tính năng ưu việt hơn. Điều này dựa trên cơ sở hàng loạt các nước có nền công nghiệp quân sự phát triển đã tìết lộ những dự án chế tạo xe tăng mới. Trước hết là Mỹ, sau năm 2010 sẽ đưa vào trang bị loại xe tăng truyền động bằng điện, kíp xe 2 người do hãng General phát triển. Đặc điểm của xe tăng trong dự án của hãng General là hình dáng nhỏ, gọn, thấp, trọng lượng chiến đấu toàn bộ không lớn hơn 40 tấn. Xe tăng ứng dụng kỹ thuật phòng hộ chủ động và kỹ thuật điện-nhiệt hoá hoặc kỹ thuật điện-từ. Nhật Bản cũng đã bắt đầu triển khai phát triển xe tăng thế hệ thứ tư bằng việc nâng cấp xe tăng kiểu K90 với hệ thống tự động bắt bám mục tiêu tiên tiến. Tăng K90 còn trang bị pháo 140 mm, thiết bị truyền động điện và hệ thống phòng hộ chủ động. Tuy nhlên, mẫu xe tăng K90 mới của Nhật Bản còn chưa được hoàn chỉnh mà cần phải có bước nghiên cứu phát triển tiếp theo.
Đặc điểm nổi bật của xe tăng chiến đấu thế hệ thứ tư là giảm trọng lượng chiến đấu xuống dưới 40 tấn. Hiện nay, xe tăng chiến đấu thế hệ thứ ba có trọng lượng chiến đấu thường là từ 50 đến 60 tấn. Việc giảm trọng lượng xe tăng bằng cách sử dụng vật liệu mới bền, nhẹ, thiết kế hầu như không có tháp
pháo, khả năng cơ động cao, không cần nhiều người điều khiển. Vũ khí trên xe tăng thế hệ thứ tư cũng dựa trên những khái niệm và nguyên lý hoạt động mới như pháo điện-từ, pháo điện-nhiệt và điện-nhiệt-hoá. Xe tăng sử dụng hệ thống truyền động điện, hệ thống điều khiển hoả lực tiên tiến, đặc biệt là hệ thống bắt, bám mục tiêu cho phép phát hiện mục tiêu từ cự ly xa và bắn tiêu diệt mục tiêu chính xác. Với hệ thống vũ khí mới, uy lực chiến đấu của xe tăng nâng lên rất cao, giúp xe tăng không chỉ tiêu diệt mục tiêu cố định mà còn tiêu diệt hiệu quả mục tiêu di động, thậm chí cả máy bay lên thắng với tốc độ cao. Các hệ thống điện tử trang bị trên xe tăng chiến đấu thế hệ thứ tư được liên kết chặt chẽ với nhau theo hướng tích hợp và tổng hợp hoá, ứng dụng kỹ thuật số trong quá trình hiệu chỉnh, tính toán đường đạn và điều khiển bắn.
Phòng hộ tổng hợp và chủ động là yêu cầu chủ yếu đặt ra cho xe tăng thế hệ thứ tư. Nâng cao khả năng sống còn của xe tăng trên chiến trường trước các loại vũ khí công nghệ cao, tiến công chính xác mà đốỉ phương sử dụng được các nhà thiết kế chế tạo xe tăng chú ý. Vì thế kỹ thuật phòng hộ cho xe tăng phát triển rất mạnh và toàn diện. Công nghệ tàng hình ứng dụng cho xe tăng không còn là vấn đề xa lạ. Dự án chế tạo các loại xe tăng mới của Mỹ, các nước NATO, Nga...đều đặt yêu cầu là tạo được khả năng tập kích bất ngờ, khó bị đối phương phát hiện. Những giải pháp để ''''tàng hình'''' cho xe tăng là giảm bức xạ hồng ngoại, nhất là ở các bộ phận động cơ, khí thải, nòng pháo phát nhiệt khi bắn. Xe tăng mới sẽ lắp đặt các loại động cơ kiểu cách nhiệt, các bộ phận khác của xe được thiết kế không có nhiều góc cạnh, thiết kế về hình dáng và các bộ phận tiếp xúc nhau hợp lý nhằm làm giảm đến mức tối thiểu bức xạ nhiệt. Ngoài ra, để xe tăng ''''''tàng hình'''', các nhà thiết kế xe tăng còn tìm các biện pháp làm giảm tiếng ồn, sơn phủ nguỵ trang lên xe và sử dụng màn khói để che giấu xe tăng.
Vỏ giáp cho xe tăng thế hệ thứ tư cũng có sự phát triển đặc biệt. Ngoài giáp phản ứng nổ (EAR), xe tãng còn được mang treo các loại giáp đặc biệt như giáp điện, giáp điện từ, giáp điện nhiệt...Mỹ đang phát triển xe tăng hiện đại FCS chạy điện hoàn toàn nhằm để thay thế xe tăng M1 sẽ đưa vào trang bị năm 2015. Quân đội Anh cũng có chương trình phát triển xe tăng chủ lực thế hệ mới Modifier sử dụng thiết bị truyền động điện, pháo điện từ và lớp giáp điện, dự kiến đưa vào trang bị năm 2020. Giáp điện từ được Liên Xô (trước đây) đã nghiên cứu từ cuối những nãm 1970, hiện nay, Nga tiếp quản chương trình này và đang tiếp tục triển khai nhằm không bị tụt hậu so vớí Mỹ, NATO...Các loại giáp điện qua thí nghiệm đều cho hiệu quả chống lại luồng phụt phá giáp của lượng nổ định hình, làm cho uy lực phá giáp của các loại đạn chống tăng mất hiệu lực. Khi đạn bắn vào xe tăng, dòng điện sẽ tác động làm cho lõi đạn xuyên giáp bị chấn động, không ổn định dẫn dến gãy vỡ hoặc làm cho đạn nổ trước khi tạo khả năng xuyên giáp. Với tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, giáp điện sẽ có thể chế tạo được hàng loạt. Tuy vậy, giá thành chế tạo các loại giáp điện rất cao, chi phí cho bảo dưỡng tốn kém. Xe tăng thế hệ thứ tư trong tương lai sẽ trở thành hiện thực, nhưng nó không thật phù hợp với các nước nghèo
1.Khái quát :
Xe tăng xuất hiện lần đầu tiên trên chiến trường là vào ngày 15/9/1916,vào năm thứ 3 của cuộc thế chiến I, phe sử dụng là Anh ( 49 chiếc) , trong trận ra mắt này chỉ cần vài giờ ( từ sang sớm đến 10h sang) quân Anh đã chiếm lĩnh trận địa phòng ngự có chiều sâu 5km của quân Đức dọc sông Sein (Xen) trên đất Pháp…….
……Đến thế chiến II, trên chiến trường châu Âu càc nước tham chiến đều muốn đè bẹp đối phương bằng tank , trận đấu tank nổi tiếng thời đó là trận Kurk…..Hồi Gulf War I, Iraq dùng khoảng 5.600 tank.
2. Vài vấn đề liên quan tới bánh xích và dây xích:
-Vì sao tank có hai vòng bánh xích sắt vừa to và rộng, vì sao tank chạy được trên mặt đất sình lầy, cơ cấu xích:
-Tank nặng vài chục tấn , thấy cồng kềnh vậy nhưng lại chạy rất nhanh, các tank hiện đại có speed tối đa tới 70km/h, tốc độ trung bình khi chạy trên đị hình nền đất cứng nông thôn cũng khoảng 30-55km/h. Sức cơ dộng của tank là nhờ vào động cơ diesel tăng áp hay turbine khí , các cơ cấu treo và truyền động. Bộ bánh xích tank gồm:
-Bánh chủ động (Main wheel)
-Bánh chịu tải (Road wheel)
-Bánh chuyển hướng (Drive wheel)
-Bánh đỡ xích(Track return roller)
-Tác dụng của hệ thống bánh xích là làm bệ đỡ cho tank, đẩy tank chạy. Vòng xích( dây xích) là phần tiếp xúc trực tiếp với mặt đất. Thông thường nó có bề ngang xê xích trong khoảng 500mm, bề ngang của dây xích to làm cho áp lực trung bình của tank lên mặt đất giảm..Thông thường tổng diện tích tiếp xúc của dây xích với mặt đất là 3-4m2 ( rông hơn nhiều so với so với bánh xe hơi (ô-tô). Áp lực của bánh xích tank lên mặt đất không lớn, ( tank T80U, nặng khoảng 46 tấn nhụng áp lực bánh xích chỉ có 0.925kg/cm2, tank M1A1 63 tấn có áp lực bánh xích 13.8pound/inch vuông tức khoảng 2.44kg/cm2), áp lực này thấp hơn áp lực lên mặt đất của xe tải hạng trung do vậy mà tank co thể chạy nhanh trên vùng đất sình lầy, còn xe tải tuy nhẹ hơn tank nhiều nhưng do diện tích tiếp đất của bánh là nhỏ nên áp lực trở nên lớn nên thường hay bị mắc lầy. Về mặt lý thuyết thì thiết bị vận hành bánh xích của tank là vượt mọi loại đường, nhưng trong thực tế thì kiểu ruộng sình như ruộng lúa nước thì ….thua
- Nằm trong vòng dây xích có các bánh sắt kích thước khác nhau, chúng có vị trí và chức năng khác nhau.
Bánh chủ động (Main Wheel): Thông qua sự ăn khớp ( sprocket) giữa bánh răng và dây xích để truyền động lực từ động cơ sang dây xích làm cho xe tăng chuyển động, bánh này nằm ở vị trí sau chót đuôi xe.
Bánh chuyển hướng( Drive wheel): Đây là một bánh răng bị động nằm vị trí đầu tiên tính từ phía trước , có tác dụng xác định phương hướng của xích, nó còn có tác dụng chỉnh cho dây xích căng hay chùng
Bánh đỡ xích (track return roller): Nằm ở vị trí cao nhất tính từ duới mặt đất trở lên, nó có tác dụng nâng đỡ phần trên vòng dây xích, giảm bớt sự lắc động của xích( T-72 có 3 ku này), nhưng không phải ku tank nào cũng có bánh đỡ, tank hạng nặng không có nó .
Bánh chịu tải ( road wheel): Thằng ku này cực nhất gánh gần như toàn bộ trọng luợng tank và đồng thời làm cho tank di động theo vòng dây xích. Mỗi một bên tank có có ít nhất 5 ku này(T-54/55), thông thường là 6(T-72/80/90), thậm chí 7 ( ku M1A1). Bánh chịu tải được bố trí nhiều nhằm mục đích gỉam sức nặng phải gánh trên mỗi chiếc , áp lực lên mặt đất được dàn đều.
Tóm lại mỗi ku bánh xe to nhỏ khác nhau đều có tác dụng riêng và vô cùng quan trọng đối vói sự cơ động của tank.
Mắc xích đơn/ đôi,có/ không có bọc cao su : ( single/double- pin tracks, with/without rubber bushed):
-Loại tank xưa nhất mà tôi được biết có mắc xích đôi là loại tank hạng nhẹ M5 Stuart của Mỹ, còn loại bánh chịu tải có bọc cao su luôn thì hình như là M-41 là chiếc đầu tiên cũng của Mỹ (ai biếi rõ hơn xin bổ sung). Bánh chịu tải bọc cao su thì nhằm mục đích cho nó trơn tru chay êm , ít phát ra tiếng ồn do ma sát với xích khi di chuyển.
-Mắc xích đơn(single -pin track): Ta nói nôm na là cái mắc xích đó nó chỉ có liên kết dọc với các mắc khác tạo thành vòng xích, cấu tạo mắc xích là một miềng thép (spacer) mắc liên tiếp nhau theo bởi hai trục sắt, các trục sắt của hai mắc xích liên tiếp nhau được cố định với nhau bằng chốt tán
-Mắc xích đôi(Double-pin track): Ngoài việc liên kết dọc, mỗi mắc xích còn mắc vào một mắc xích khác y hệt nó theo chiều ngang, mục đích của mắc xích đôi là tăng diện tích tiếp xúc của vòng xích lên mặt đất, giảm áp lực đè lên mặt đất nên tank có khả năng cơ động cao..Xem hình minh hoạ:
Để ý kỹ trong tấm ảnh thứ ba thì cái cuối cùng trong ảnh là xích đơn
Tất nhiên là các bánh xe/răng trang bị kèm theo cũng phải là bánh xe/răng đôi:
Kết cấu mắc xích như trên được thấy hầu hết trên các model tank của các nước, khi các mắc xính được gắn các miếng su lên bề mặt ( cái này khó lắm nhe vì không hề dùng đinh ốc hay con tán gì hết, chả biết dùng cái gì gắn vào, ai biết đóng góp thêm ) nó tăng khả năng đi trn a hình tuyết và sình lầy
Có một điều lạ là trên model tank T-64, T-72 của Nga, người ta dùng kiểu mắc xích có bề ngang rộng để cấu thành kiểu xích đôi như tôi nói, nên khi nhìn trực diện vào ta vẫn có cảm giác nó như xích đơn, ưu điểm là tiết kiệm vật liệu
- Thứ nhất khi nói về các số luợng bánh xe/răng tôi nói trong bài trứoc là chỉ nói một bên xích của tank mà thôi, ví dụ khi nói T-72 có ba bánh đỡ xích -track return roller tức là mộị bên xích có ba bánh như thế.
-Thứ hai là khi nói không phải tank nào cũng có loại bánh này-cái này đúng, nhưng khi nói tank hạng nặng mói có thì e là chưa chính xác, bằng chứng là ku M41A3 trong thế chiến hai nặng chỉ có 26 tấn cũng có cái bánh đỡ xích này.
Xem hình:
Sau khi lục lọi tìm tòi, tôi tạm kết luận là tank có gắn bánh đỡ xích hay không hoàn toàn phụ thuộc vào nhà sản xuất ( mục đích của bánh đỡ xích để làm gì xin vui lòng xem lại bài cũ), khi không có bánh đỡ xích thì vị trí ( so với mặt đất) của bánh dẫn hướng và bánh chủ động tương đối thấp hơn tí chút khi tank có gắn bánh đỡ xích.Phần lớn tank hiện đại ngày nay đều có loại bánh này.Bây giờ nói thêm vì sao tank có khả năng vượt được hào sâu và leo dốc hơn hẳn xe hơi(ô tô ):
- Tank có khả năng leo dốc 30-45 độ đi được trên mặt đường nghiêng 25-30 độ, vượt tường cao 0.8m-1.2m. Điều này không phải xe ô-tô việt dã nào cũng làm được.
-Như tôi đã nói trong phần trên, diện tích tiếp xúc đất của xích tank là khá lớn, vệt xích để lại trên mặt đất là do trọng lượng nặng nề của nó gây ra, do vậy mà giữa xích và mặt đất có lực ma sát lớn, khó trơn trượt.Ngoài ra. tank có bộ máy công suât lớn ( trên M1A1 là 1500hp) nên khả năng leo dốc hơn hẳn ô tô.
Hẳn mọi người còn nhớ tới bánh răng/xe dẫn hướng tôi nói ở phần đầu, bánh răng này có tâm ở vị trí khá cao so với mặt đất, do vậy mà gặp chướng ngại vật có độ cao không vượt quá góc cao của bánh răng này, tank đều có thể vượt qua dễ dàng.
-Khả năng vượt hào sâucủa tank có liên quan có liên quan tới độ dài thân xe và vị trí trọng tâm của xe , ta thấy rằng thân xe tank khá dài và độ dài của xích gần bằng với độ dài thân xe, trọng tâm xe cách khá xa hai đầu mút dây xích nơi có hai bánh chịu tải đè lên, do vậy chỉ cần chiều rộng của đường hào nhỏ hơn khoảng cách này thì tank vượt qua được., khi tank vượt hào, phần trước tank ban đầu sẽ treo lơ lửng trên hào, khi trọng tâm xe tiếp cận mép hào phí sau thì phí trước xe tank chạm mép hào phí trước, nên tank chạy tới cho đến khi đuôi xe rời mép hào sau.Nếu trọng tâm xe lúc này đã đi qua mép hào sau, tank vượt hào dễ dàng, ngược lại tank sẽ tụt xuống hào. Như vậy khả năng vượt hào của tank là có giới hạn nhất định. Trong thực tế thì với hào rộng bằng 40%-60% độ dài thân xe thì tank vyựơt qua được, tank hiện đại vượt được hào có độ sâu từ 2.5m-3.15m.Nếu độ rộng của hào vượt quá khoảng cách từ bánh chịu tải thứ nhất phía trước cho đến trọngg tâm xe thì phần bánh xích phí trước sẽ tụt xuống hào.</strong>Vì vậy để ngăn chặn sự tiến công của tank trên chiến trường, ta có thể đào hào rộng cỡ 6m (tối thiểu), sâu khỏang 3.5m trở lên.
Hình tank T80 đang vươt chướng ngại vật:
Tìm hiểu kỹ thì thật ra miếng đệm cao su đó được đúc trong khuôn rời, và có "thể tíchlớn hơn một cách hợp lý"[/u] so với thể tích của " cái khung" định hình gắn miếng cao su trên xích tank, <strong>xem hình để ý hai cái gờ định hình nhô cao
-Sau đó người ta dùng một thiết bị có cơ cấu thủy lực để gắn miếng cao su lưu hoá ấy vào, nên nhớ cao su có tính đàn hồi, do vậy khi đã lọt vào cái khung, miếng đệm cao su ấy sẽ bung ra do nó có thể tích lớn hơn một chút như đã nói và tự động ôm cứng ngắt trong khung định hình đó, công nghệ này gọi là QUICK FIT, nó cho phép người ta có thể thay thế các miến đệm cao su trong vòng vài phút khi cần thiết ( cũng bằng thiết bị thuỷ lực đó). Đó là cách hiện đại ngày nay.
-Khi xưa thì miếng đệm cao su được gắn vào xích bằg bù lon:
-Nhân tiện nói luôn về ICE CLEAT, cái này dùng để tăng độ bám khi xe tank chạy trênn địa hình băng tuyết, nó là một miếng thép được cố định vào xích bằng bù lon dùng chung cái khuôn của miếng đệm cao su.
-Miếng cao su lắp phía ngoài cùng, khi xe di chuyển trong địa hình băng tuyết thì người ta tháo nó ra theo cách tôi đã nói ở trên.
Hình cấu tạo hai mặt của ICE CLEAT:
Hệ thống truyền động:
-Theo thống kê trong Thế chiến 2, trong số các tanks bị phá hủy hoặc mất khả năng tác chiến thì các vị trí bị trúng đạn trên xe như sau:
+ Thân xe 55% trong đó phía trước xe 25%, hai bên sườn (hông) xe 17%, phần dưới hai sườn-xích xe 11%, phía sau 2%, <strong>trúng đạn ở tháp pháo chiếm 45%,trong đó tỷ lệ phía trước của tháp pháo (turret) bị trúng đạn cao nhất.
-Do đó sau thế chiến 2, các quốc gia đều nghiên cứu về tình trạng trúng đạn trên các vị trí của tank nhằm mục đích thiết kế tối ưu độ dày vỏ giáp cho từng vị trí của tank, hình dáng bên ngoài, cấu tạo giáp kiểu mới để nâng cao khả năng chống đạn .
-Theo số liệu trên thì dễ nhận thấy rằng mặt trước tank dễ bị “ăn đạn” nhất nên nó có cấu tạo giáp dày nhất. Đơn cử như tank T-54A có giáp phía trước dày 100mm trong khi hai bên sường chỉ dày 80mm, phía sau thì còn mỏng hơn nữa chỉ từ 30mm-45mm mà thôi.Tấm vỏ giáp ở phía trước có góc nghiêng 60 độ so với phương thẳng đứng, phía dưới của mặt giáp trước có góc nghiêng 55 độ.Thết kế này nhằm làm đạn pháo chống tank sẽ bị “trượt qua” khi tiếp xúc . Đồng thời vỏ giáp nghiêng còn có giá trị tương đối làm tăng độ dày nhằm chống lại đạn xuyên. Thí dụ tấm vỏ giáp dày 100mm và nghiêng 60 độ có giá trị tự bảo vệ như vỏ thép dày 200mm đặt thẳng đứng.Do đó, góc nghiêng càng lớn thì khả năng chống đạn càng cao( ví dụ minh họa T-72 có vỏ giáp hợp kim phía trước dày 204mm, nghiêng 68 độ). Về phần tháp pháo trên các lớp tank hiện đại ngày nay thường được đúc nguyên khối và có độ cao thấp.
Nga đã đưa vào trang bị thế hệ xe tăng T-90 cải tiến mới nhất. Về cơ bản tăng T-90 được thiết kế trên cơ sở xe tăng T-72B. Đầu xe dốc, nhỏ, phía trên vị trí của lái xe có lỗ quan sát bằng hệ thống kính quang học góc nhìn rộng. Tháp của xe thấp, rộng, phía phải của tháp là vị trí của trưởng xe. Kíp xe 3 người; gồm trưởng xe, lái xe và pháo thủ. Để chống nóng, nòng pháo 125mm được thiết kế theo kiểu tản nhiệt. Hai bên tháp pháo có chứa các bình khí hỗn hợp tạo khói mù. Hệ thống phát nhiễu tích cực của xe tăng T-90 có chức năng gây nhiễu hệ thống điều khiển bắn, dẫn đến làm lệch hướng đường đạn bắn ra từ xe tăng của địch. Ngoài ra, tăng T-90 còn được trang bị hệ thống cảnh báo và điều khiển bắn, máy đo xa la-de, vì thế có thể tiêu diệt được nhiều xe tăng và máy bay trực thăng của địch ở cự ly cho phép kể cả vào ban đêm. Tăng T-90 nặng 48 tấn, dài 9,6m, cao 2,6m, rộng 2,2m, vận tốc tối đa 70km/h và có thể chạy xa được 550-650km. Tăng T-90 có thể vượt qua được các hồ nước sâu 1,6m, rộng 3m và các ụ gồ ghề cao 0,8m. Xe được trang bị 1 pháo 125mm với cơ số đạn 40 quả, tầm bắn xa 4.000m, 1 súng phòng không 12,7mm với 300 viên và 1 súng máy 7,62mm với cơ số 2.000 viên
Xe tăng T-95 có trọng lượng 50 tấn, chiều dài và rộng cơ bản như xe tăng T-72 và T-80, trang bị pháo nòng trơn 135 mm. Xe sử dụng động cơ tua-bin khí CTD-1250, công suất lớn, bảo đảm cơ động ổn định với tốc độ cao trên mọi địa hình khác nhau. Xe được thiết kế, bố trí các bộ phận theo kiểu ngăn cách các khoang. Pháo chính bố trí trên tháp pháo không người điều chỉnh có diện tích, kích thước nhỏ. Hệ thống điều khiển hoả lực tự động hoá kiểu mới được sản xuất theo mô hình của các loại xe tăng hiện đại nhất của các nước hiện nay. Kíp lái 5 người, tất cả đều làm việc trong khoang chiến đấu nằm giữa khoang nạp đạn và tháp pháo. Việc bố trí như vậy sẽ giảm độ cao của xe, nâng cao năng lực phòng thủ, bảo đảm an toàn cho các thành viên trong kíp lái.
T-95 lắp thiết bị gây nhiễu quang điện CT-1 để đối phó với các loại tên lửa chống tăng của đối phương, giải quyết được vấn đề mâu thuẫn giữa năng lực phòng thủ và năng lực cơ động. Thiết bị gây nhiễu không chỉ nâng cao tính năng tàng hinh của xe mà còn có thể thực hiện gây nhiễu các loại đạn pháo và các loại đầu đạn tên lửa có hệ thống dẫn đường của đối phương. T-95 còn trang bị hệ thống phòng thủ chủ động Ka shtan-1 có khả năng ngăn chặn các loại tên lửa chống tăng bay với tốc độ 700 mét/giây ở mọi góc độ. T-95 còn trang bị hệ thống kiểm soát hoả lực loại mới hiện đại. Các thông tin về mục tiêu sẽ được thu thập qua hệ thống thu sóng quang học, hệ thống màn hình, hệ thống tia hồng ngoại, các thiết bị khác và các thiết bị này sẽ liên kết hoạt động với hệ thống phòng thủ chủ động toàn bộ Ka shtan-1. Thời gian từ khi phát hiện mục tiêu đến khi tấn công mục tiêu của T-95 rất ngắn nhưng độ chính xác rất cao
Xe tăng MK4 của I-xra-en được nghiên cứu chế tạo trên cơ sở xe tăng MK1, MK2, MK3 của Mỹ, nhưng nó có tỷ lệ nội địa hoá rất lớn, chỉ có động cơ là do Mỹ sản xuất.
Xe tăng cao 2,66m, kích thước của tháp pháo nhỏ, khoảng cách từ khoang ngồi đến tháp pháo là 90cm. Vỏ xe được thiết kế là loại giáp kép và giáp nhiều tầng, có khả năng phòng thủ rất tốt cả ở mặt trước, mặt sau và hai bên xe, khả năng chống mìn rất tốt.
So với các loại xe tăng truyền thống thì MK4 được trang bị hệ thống vũ khí hỗn hợp kiểu mới gồm một pháo nòng trơn 120 mm sử dụng đạn xuyên giáp, phá giáp; một súng máy 7,62 mm, 2 pháo cao xạ, một giàn pháo phản lực 60 mm. Hệ thống kiểm soát hoả lực gồm một kính ngắm bằn tia la-de, một thiết bị đo xa la-de, hệ thống máy tính, kiểm soát hoả lực, thiết bị cảm biến, thiết bị điều khiển ổn định hướng và thiết bị bám đuôi mục tiêu tự động, có thể tự động định vị chính xác mục tiêu (đây là thiết bị tương ứng như thiết bị trên xe tăng chủ chiến T90 của Nhật).
Xe tăng MK4 sử đụng động cơ đi-ê-đen 1500 mã lực, tính năng cơ động cao. Vũ khí trên xe sử dụng nhiều loại đạn khác nhau được chứa tiếng các khoang nhỏ. Các hòm chứa đạn được làm bằng nhiên liệu phức hợp, có thể cách nhiệt, chống việc tự phát nổ. Với các thiết bị bảo vệ được trang bị, xe tăng MK4 được coi là xe tăng an toàn nhất cho các thành viên trong kíp chiến đấu
Trước khi nói về cấu tạo vỏ giáp cần tìm hiểu khả năng xuyên giápcủa đạn chống tank , điểu này phụ thuộc nhiều thứ :
+ Góc chạm nổ khi đạn tiếp xúc mặt giáp (Angle of impact),
+ Góc trượt gây bởi độ nghiêng của giáp
+ Vận tốc tại từng thời điểm sau khi bắn(Remainning
velocity)
+ Mật độ đậm đặc của khối thuốc nổ, hình dáng khối thuốc
nổ trong đầu đạn khi tiếp xúc ( hehe, xem thêm bài teo
post bên mổ xẻ tên lửa có điều khiển , phần đầu nổ đó )
- Đừng tưởng bở kiểu vận tốc đạn càng cao thì khả năng xuyên giáp càng lớn, thực tế cho thấy khi vận tốc đạn là trong khoảng 3km/giây sẽ gây thiệt hại nhanh hơn là vận tốc đạn 7km/giây.,đó là do đạn có vận tốc thấp thì đạn không bị phá thành nhiều mãnh vụn như đạn có vận tốc cao, do vậy mà khả năng xuyên gíap của nó là sâu hơn đạn có vận tốc lớn( sau này thì người ta dùng APDS để khắcc phục nhược điểm này, tức là đạn vẫn có vận tốc cao nhưng do dùng kim loại nặng nên không bị phá tan thành mảnh vụn, vẫn xuyên tốt khi chạm mục tiêu. Biểu đồ mối liên quan giũa đường kính đạn và vận tốc khi đạn tiếp xúc giáp trong đó đường kính đạn thể hiện theo truc dọc, còn vận tốc đạn theo trục ngang :
-Bây giờ ta nghiên cứu khả năng xuyên giáp của đạn để hiểu lý do tại sao giáp phải có độ nghiêng là bao nhiêu độ nhằm tối ưu khả năng chống lại nhiều loại đạn chống tank.
-Về hình dáng viên đạn có hai loại diển hình: đầu tù (blunt) và đầu nhọn (shape), về lý thuyết thì đầu đạn tù ít khả năng xuyên phá hơn, nhưng trong thực tế thì ngược lại , đầu đạn tù có khả năng xuyên cao đối với các mặt giáp nghiêng , nôm na là vì đầu đạn tù sẽ đổi dường đạn khi tiếp xúc với bề măt giáp .
Hình mô tả hướng xuyên giáp của đầu đạn tùDo khi tiếp xúc đường đạn bị đổi hướng do đó ta thấy độ dày thực tế vỏ giáp mà đầu đạn cần phải xuyên là gần bằng độ dày thực của giáp.
Hình mô tả hướng xuyên giáp của đầu đạn nhọn:
Dễ thấy độ dày thực tế mà đầu đạn cần xuyên qua là cao hơn độ dày cấu tạo vỏ giáp
Chóp của đầu đạn tù bọc một một loại kim loại “mềm” có độ ma sát cao.Khi tiếp xúc giáp do có độ ma sát cao nên nó gây cản trở hướng lực ban đầu làm đổi hướng viên đạn , khi ấy trục của viên đạn sẽ tao với mặt phẳng giáp một góc 90 độ. Nga gọi cái hiệu ứng này là “chuẩn hoá” ,đạn nhọn phá giáp thẳng đứng (vertical armor) khá hơn đạn tù .
Bây giờ tìm hiểu chiều dày thực tế mà đạn chống tank cần phải xuyên qua nhé qua thí du cụ thể là đạn ( chống tank) nhọn của Nga
Nói về giáp nhiều lớp thực ra mổi lớp giáp đều có 1 nhiệm vụ riêng và đặc tính riêng cũng như thành phần cấu tạo riêng . Thậm chí có thể cùng thành phần cấu tạo là 1 loại thép nhưng được chia làm 2 lớp chứ không làm thành 1 khối duy nhất .
Lý do của việc chia giáp thành nhiều lớp có nhiều lý do :
Chống đạn HEAT : đạn HEAT có 2 kiểu :
Shaped charge : kiểu thiết kế này khiến luồn xuyên sau khi đi qua lớp giáp thứ nhất thì khoảng không nhỏ ở giửa 2 lớp có áp suất và mật độ thấp nối giửa 2 lớp là 1 mạng lớp các khe nên luồn xuyên sẻ bị phân tán ra đến lớp thứ 2 luồn xuyên không còn đủ tập trung và đủ mạnh.
Đạn mảnh phá : đạn này có đặc điểm là khi bắn trúng nó sẻ dính vào vỏ giáp ,dùng vỏ giáp như là vỏ của quả đạn và nổ xé vỏ giáp bắn các mảnh giáp vào trong ,khi là 1 khối giáp thì sẻ bị xé tan nhưng khi chia ra thì xé lớp ngoài các lớp trong sẻ hứng lấy các mảnh giáp vụn.
Chống Sabot : đạn sabot sau này có thiết kế cho hiệu ứng hiệu chỉnh giúp góc xuyên của đạn gần 90 độ hơn , nếu là 1 khối duy nhất thì hiển nhiên là nó xuyên qua luôn nhưng nếu là nhiều lớp thì sau khi qua lớp thứ nhất thì hiệu ứng hiệu chỉnh sẻ giảm đi .
Về các lớp giáp
Chống NBC: nuclear bio chemist .
Lớp này gồm composite là chính pha thêm 1 số chất gì nửa thì là bí mật. Mục tiêu là chống lại bức xạ notro . Còn bio và chemist thì đối phó bằng hệ thống lọc khí và các cao su bịt kín lại các khe hở của xe tăng .Khi hệ thống báo động thấy nồng độ không khí có nguy hiểm lập tức khí nén được bơm vào và các túi cao su sẻ bịt kín khoang lái .Hệ thống này cũng được áp dụng cho việc xe tank chạy ngầm dưới đáy sông . Về khoảng này phải gắn thêm 2 cái ống thông gió ,1 cho lính lái và 1 cho động cơ ,ống này chỉ dài thêm khoảng 3-4m và đó là độ sâu tối đa tank đi ngầm được
Theo phân tích của các nhà quân sự, bước vào đầu thế kỷ 21, xe tăng thế hệ thứ ba vẫn chiếm vị trí chủ yếu trên chiến trường. Nhưng đến năm 2015, xe tăng thế hệ thứ ba sẽ mất dần ưu thế và trở nên lạc hậu, nhường chỗ cho những xe tăng mới, hiện đại và có những tính năng ưu việt hơn. Điều này dựa trên cơ sở hàng loạt các nước có nền công nghiệp quân sự phát triển đã tìết lộ những dự án chế tạo xe tăng mới. Trước hết là Mỹ, sau năm 2010 sẽ đưa vào trang bị loại xe tăng truyền động bằng điện, kíp xe 2 người do hãng General phát triển. Đặc điểm của xe tăng trong dự án của hãng General là hình dáng nhỏ, gọn, thấp, trọng lượng chiến đấu toàn bộ không lớn hơn 40 tấn. Xe tăng ứng dụng kỹ thuật phòng hộ chủ động và kỹ thuật điện-nhiệt hoá hoặc kỹ thuật điện-từ. Nhật Bản cũng đã bắt đầu triển khai phát triển xe tăng thế hệ thứ tư bằng việc nâng cấp xe tăng kiểu K90 với hệ thống tự động bắt bám mục tiêu tiên tiến. Tăng K90 còn trang bị pháo 140 mm, thiết bị truyền động điện và hệ thống phòng hộ chủ động. Tuy nhlên, mẫu xe tăng K90 mới của Nhật Bản còn chưa được hoàn chỉnh mà cần phải có bước nghiên cứu phát triển tiếp theo.
Đặc điểm nổi bật của xe tăng chiến đấu thế hệ thứ tư là giảm trọng lượng chiến đấu xuống dưới 40 tấn. Hiện nay, xe tăng chiến đấu thế hệ thứ ba có trọng lượng chiến đấu thường là từ 50 đến 60 tấn. Việc giảm trọng lượng xe tăng bằng cách sử dụng vật liệu mới bền, nhẹ, thiết kế hầu như không có tháp
pháo, khả năng cơ động cao, không cần nhiều người điều khiển. Vũ khí trên xe tăng thế hệ thứ tư cũng dựa trên những khái niệm và nguyên lý hoạt động mới như pháo điện-từ, pháo điện-nhiệt và điện-nhiệt-hoá. Xe tăng sử dụng hệ thống truyền động điện, hệ thống điều khiển hoả lực tiên tiến, đặc biệt là hệ thống bắt, bám mục tiêu cho phép phát hiện mục tiêu từ cự ly xa và bắn tiêu diệt mục tiêu chính xác. Với hệ thống vũ khí mới, uy lực chiến đấu của xe tăng nâng lên rất cao, giúp xe tăng không chỉ tiêu diệt mục tiêu cố định mà còn tiêu diệt hiệu quả mục tiêu di động, thậm chí cả máy bay lên thắng với tốc độ cao. Các hệ thống điện tử trang bị trên xe tăng chiến đấu thế hệ thứ tư được liên kết chặt chẽ với nhau theo hướng tích hợp và tổng hợp hoá, ứng dụng kỹ thuật số trong quá trình hiệu chỉnh, tính toán đường đạn và điều khiển bắn.
Phòng hộ tổng hợp và chủ động là yêu cầu chủ yếu đặt ra cho xe tăng thế hệ thứ tư. Nâng cao khả năng sống còn của xe tăng trên chiến trường trước các loại vũ khí công nghệ cao, tiến công chính xác mà đốỉ phương sử dụng được các nhà thiết kế chế tạo xe tăng chú ý. Vì thế kỹ thuật phòng hộ cho xe tăng phát triển rất mạnh và toàn diện. Công nghệ tàng hình ứng dụng cho xe tăng không còn là vấn đề xa lạ. Dự án chế tạo các loại xe tăng mới của Mỹ, các nước NATO, Nga...đều đặt yêu cầu là tạo được khả năng tập kích bất ngờ, khó bị đối phương phát hiện. Những giải pháp để ''''tàng hình'''' cho xe tăng là giảm bức xạ hồng ngoại, nhất là ở các bộ phận động cơ, khí thải, nòng pháo phát nhiệt khi bắn. Xe tăng mới sẽ lắp đặt các loại động cơ kiểu cách nhiệt, các bộ phận khác của xe được thiết kế không có nhiều góc cạnh, thiết kế về hình dáng và các bộ phận tiếp xúc nhau hợp lý nhằm làm giảm đến mức tối thiểu bức xạ nhiệt. Ngoài ra, để xe tăng ''''''tàng hình'''', các nhà thiết kế xe tăng còn tìm các biện pháp làm giảm tiếng ồn, sơn phủ nguỵ trang lên xe và sử dụng màn khói để che giấu xe tăng.
Vỏ giáp cho xe tăng thế hệ thứ tư cũng có sự phát triển đặc biệt. Ngoài giáp phản ứng nổ (EAR), xe tãng còn được mang treo các loại giáp đặc biệt như giáp điện, giáp điện từ, giáp điện nhiệt...Mỹ đang phát triển xe tăng hiện đại FCS chạy điện hoàn toàn nhằm để thay thế xe tăng M1 sẽ đưa vào trang bị năm 2015. Quân đội Anh cũng có chương trình phát triển xe tăng chủ lực thế hệ mới Modifier sử dụng thiết bị truyền động điện, pháo điện từ và lớp giáp điện, dự kiến đưa vào trang bị năm 2020. Giáp điện từ được Liên Xô (trước đây) đã nghiên cứu từ cuối những nãm 1970, hiện nay, Nga tiếp quản chương trình này và đang tiếp tục triển khai nhằm không bị tụt hậu so vớí Mỹ, NATO...Các loại giáp điện qua thí nghiệm đều cho hiệu quả chống lại luồng phụt phá giáp của lượng nổ định hình, làm cho uy lực phá giáp của các loại đạn chống tăng mất hiệu lực. Khi đạn bắn vào xe tăng, dòng điện sẽ tác động làm cho lõi đạn xuyên giáp bị chấn động, không ổn định dẫn dến gãy vỡ hoặc làm cho đạn nổ trước khi tạo khả năng xuyên giáp. Với tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại, giáp điện sẽ có thể chế tạo được hàng loạt. Tuy vậy, giá thành chế tạo các loại giáp điện rất cao, chi phí cho bảo dưỡng tốn kém. Xe tăng thế hệ thứ tư trong tương lai sẽ trở thành hiện thực, nhưng nó không thật phù hợp với các nước nghèo