[Funland] Dịch sách Lịch sử: Kể chuyện Nguyễn Ánh-Tây Sơn [1790-1806] của giáo sĩ de La Bissachère.

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,421
Động cơ
708,072 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thớt nhà Tây Sơn của em đã dài, biên thêm sợ loãng, hơn nữa đây là nội dung một cuốn sách dịch, nên có lẽ em trung-thành với nguyên tác là lập một thớt riêng.
Cuốn này em dịch đã rất lâu, từ 2015, đúng vào dịp mở thớt, đến nay đã tròn 10 năm, qua mấy lần chỉnh sửa bổ sung, có lúc cũng quên mất, nay quyết định post hầu các cụ yêu Lịch sử.
Cuốn này thực ra là rất khó dịch, vì nội dung rắc rối, phải gọi đúng là rối rắm, khi mà cùng một nội dung, người biên tập là nhà sử học Pháp Charles Maybon lại lồng ghép 4. 5 tác giả cùng lúc để bổ sung cho văn bản chính, các văn bản lại được kỳ công đánh số; ví dụ [18/22] nghĩa là số văn bản gốc còn lưu và số văn bản tham chiếu của tác giả cùng thời; [15] là số trang văn bản gốc lưu trữ tại thư viện Hội thừa sai Paris, hoặc kho lưu trữ Bộ Ngoại giao Pháp; các chú thích (a) (b) làm rõ nghĩa, rồi chú thích của C.Maybon...tất cả đòi hỏi quá trình biên dịch rất mất thời gian, và em quyết định giữ nguyên tác.
Nguyên tên sách là: LA RELATION SUR LE TONKIN ET LA COCHINCHINE, tuy nhiên, căn cứ vào nội dung chính, em đặt tên sách là: Kể chuyện Nguyễn Ánh-Tây Sơn [1790-1806] cho hợp với ý chính hơn.
Thông tin trong sách, như em đã trình bầy, chỉ là tham khảo, để nhìn nhận Lịch sử giai đoạn phức tạp nầy ở một lăng kính, một góc nhìn khác, đúng sai các cụ tự có quan điểm và đúc rút vậy.
Cuối cùng, do trình độ tiếng Pháp cực kỳ dốt nát, kiến thức vô cùng nông cạn, văn phong quê mùa, đâu dám khoe khoang, mong các cụ lượng thứ và góp ý.
Sau khi thớt post xong, cụ nào có nhã ý xin sách giấy, em sẽ tặng bản scan.
 
Chỉnh sửa cuối:
Biển số
OF-155238
Ngày cấp bằng
4/9/12
Số km
32,823
Động cơ
1,416,755 Mã lực
Nơi ở
Sắp chuyển
Cụ làm google doc đi ạ, cập nhật vào đó sau cho bà con xin link. Theo dõi liên tục được, em cảm ơn trước ạ
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,421
Động cơ
708,072 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
LỜI NGƯỜI DỊCH

Cuốn sách “LA RELATION SUR LE TONKIN ET LA COCHINCHINE” của giáo sĩ Pháp de La Bissachère khá nổi tiếng ở Việt Nam, vì, người ta mỗi khi mô tả cuộc hành hình của Nguyễn Ánh với những thành viên, tướng lĩnh nhà Tây Sơn, là thường trích dẫn đoạn mô tả rất nổi tiếng trong cuốn sách này. Tuy nhiên, để dịch hoàn chỉnh và trọn vẹn, thì không có ai thực hiện.

Cuốn sách cũng là đề tài cho những bài viết “khảo cứu” đầy hằn học của những người cuồng Nguyễn Ánh nói riêng và nhà Nguyễn nói chung, như Thụy Khuê [BTV Văn học đài RFI, Pháp] trong loạt bài “Khảo sát công trạng của những người Pháp giúp vua Gia Long” đã bôi bác tác giả là “Ký sự Bissachère, thuỷ tổ sự bóp méo lịch sử” hay Nguyễn Vinh Trang trong loạt bài “Jean-Marie Dayot qua những bài viết” rồi một số tác giả khác, có khá nhiều bài viết biện minh, tẩy trắng cho Nguyễn Ánh. Dưới ngòi bút của họ, Nguyễn Ánh hiện ra như một vĩ nhân, một viên tướng bách chiến bách thắng, một ông hoàng kiệt xuất, một nhân tài lịch sử đã bôn ba khắp nơi và tự mình dựng lên một triều đại vĩ đại. Còn nhà Tây Sơn, trong mắt họ là đám lục lâm thảo khấu, cướp của giết người và hiện nguyên hình là một triều đình ăn cướp.

Để tâng bốc Nguyễn Ánh, họ dìm những người đi giúp Ánh xuống bùn đen, đặc biệt là các sĩ quan Pháp đến giúp Nguyễn Ánh, dưới mắt họ đây là đám người lang thang vô công rồi nghề, các quân nhân hết đát, các sĩ quan dốt nát, nghiện rượu, cờ bạc, trộm cắp …và Ánh có thể đuổi đi bất cứ khi nào muốn, có nghĩa là, đám sĩ quan Tây này gần như nô lệ cho Ánh. Còn vai trò của giám mục Bá Đa Lộc thì thảm hơn, ông ta gần như cái bóng mờ nhạt bên cạnh mặt trời chói sáng là Ánh.

Tuy nhiên, Lịch sử, đôi khi cần nhìn ở nhiều lăng kính khác nhau, việc đúng-sai, tốt-xấu lại còn phụ thuộc vào cảm xúc cá nhân. Có một điều, để đo việc đức hạnh, tài cai trị của một bậc Quân vương, người ta có 2 cách, đó là nhìn vào những việc họ làm cho đất nước và đánh giá của người dân về cuộc cai trị, qua cuốn sách này, ta thấy tài “trị nước” của Nguyễn Ánh và quan lại nhà Nguyễn còn tệ hơn Tây Sơn nhiều lần, đặc biệt đối với nhân dân miền Bắc Hà, đến mức họ “ngày đêm nguyền rủa” rồi thuế má nặng nề, cuộc sống ngày một tồi tệ, đã khiến cho người dân Bắc Hà vỡ mộng nhưng bất lực.

Tác giả, là giáo sĩ de La Bissachère, người đã có 16 năm sống ở Tây Đàng Ngoài [khu vực Thanh Hóa, Nghệ An ngày nay], ông đến nước ta năm 1790 dưới thời Tây Sơn và vua Quang Trung còn sống, rời đi năm 1806, khi Nguyễn Ánh xưng đế và đặt niên hiệu Gia Long, có lẽ cũng sống đủ lâu để chứng kiến thời cuộc, cuộc nội chiến đau thương giữa Tây Sơn-Nguyễn Ánh, qua những bức thư và tài liệu còn lại, tác giả Charles Maybon [một nhà nghiên cứu Pháp rất nổi tiếng] đã tuyển chọn, phân loại và hiệu đính nhiều tài liệu của de La Bissachère cùng với những nhà truyền giáo, các tác giả khác, thậm chí, có người còn lấy tài liệu của de La Bissachère để xào xáo, viết thành sách với nhiều nội dung sai lạc [xem phần giới thiệu trong sách].

Phần nói về những người Âu bên cạnh giúp sức cho Nguyễn Ánh tương đối ít so với toàn bộ cuốn sách, thực tế, tác giả dành khá nhiều trang để nói về cuộc sống của người dân Bắc Hà thời Tây Sơn [tác giả đến Bắc Hà năm 1790], trong đó có những mô tả khá thú vị về những lễ hội, những điều kỳ lạ của thuật “phù thủ”, phong tục thờ những vị thần, thậm chí là thờ một “ cô đào” [trong nguyên văn tiếng Việt là “ Con leo Hanh” ả đào, hoặc gái mại dâm], rồi về tệ nạn hối lộ mà ông để nguyên văn trong tiếng Việt “kim ngan pha le luat” [kim ngân phá lệ luật]; ông cũng so sánh cuộc sống và xã hội miền Bắc thời Tây Sơn và thời Nguyễn sơ, cho ta thấy triều đình mới bóc lột, tàn tệ và nhũng nhiễu dân chúng gấp trăm lần triều đại cũ.

Tác giả cũng không dấu giếm sự khâm phục với nữ tướng Bùi Thị Xuân, mà trong nguyên tác ông viết là Thien-pho [Thiếu phó; chức của chồng bà, Thiếu phó Trần Quang Diệu]; sự anh dũng, tài năng của bà và chồng cũng không cứu được một vương triều đã đến hồi cáo chung, thậm chí khi sa cơ, Nguyễn Ánh cũng không dám đối đầu trực tiếp với vợ chồng bà mà dùng mưu cho quân đóng giả người dân dâng lương thực để bắt….

Tất nhiên, dưới con mắt của một người châu Âu, một nhà truyền giáo, mọi thông tin trong sách cũng chỉ dừng ở mức tham khảo, ta cũng không nên kết luận đúng-sai, hay lấy đây là sử liệu, đơn giản hơn, hãy để quan sát Lịch sử theo một góc khác, bởi vì những lời kể này cũng không hẳn đã đầy đủ dữ kiện để chứng minh tính chân thực hoàn toàn.

Sách được C. Maybon viết ở dạng so sánh-đối chiếu, kèm tư liệu, nên rất khó dịch và dễ dàng đọc hiểu, đúng ra là rối rắm, nhưng người dịch vẫn tuân thủ theo nguyên tác, có chú thích thêm những chỗ chưa rõ ràng.

Cuối cùng, do trình độ có hạn, bản dịch không tránh khỏi những sai sót, mong người đọc lượng thứ và góp ý.
 

Mr. Bảnh

Xe buýt
Biển số
OF-866082
Ngày cấp bằng
17/8/24
Số km
502
Động cơ
1,636,533 Mã lực
Tuổi
55
Nơi ở
Phố Hiến
Cho E xin 1 quyển scan cụ Đốc nhé :)

Thớt nhà Tây Sơn của em đã dài, biên thêm sợ loãng, hơn nữa đây là nội dung một cuốn sách dịch, nên có lẽ em trung-thành với nguyên tác là lập một thớt riêng.
Cuốn này em dịch đã rất lâu, từ 2015, đúng vào dịp mở thớt, đến nay đã tròn 10 năm, qua mấy lần chỉnh sửa bổ sung, có lúc cũng quên mất, nay quyết định post hầu các cụ yêu Lịch sử.
Cuốn này thực ra là rất khó dịch, vì nội dung rắc rối, phải gọi đúng là rối rắm, khi mà cùng một nội dung, người biên tập là nhà sử học Pháp Charles Maybon lại lồng ghép 4. 5 tác giả cùng lúc để bổ sung cho văn bản chính, các văn bản lại được kỳ công đánh số; ví dụ [18/22] nghĩa là số văn bản gốc còn lưu và số văn bản tham chiếu của tác giả cùng thời; [15] là số trang văn bản gốc lưu trữ tại thư viện Hội thừa sai Paris, hoặc kho lưu trữ Bộ Ngoại giao Pháp; các chú thích (a) (b) làm rõ nghĩa, rồi chú thích của C.Maybon...tất cả đòi hỏi quá trình biên dịch rất mất thời gian, và em quyết định giữ nguyên tác.
Nguyên tên sách là: LA RELATION SUR LE TONKIN ET LA COCHINCHINE, tuy nhiên, căn cứ vào nội dung chính, em đặt tên sách là: Kể chuyện Nguyễn Ánh-Tây Sơn [1790-1806] cho hợp với ý chính hơn.
Thông tin trong sách, như em đã trình bầy, chỉ là tham khảo, để nhìn nhận Lịch sử giai đoạn phức tạp nầy ở một lăng kính, một góc nhìn khác, đúng sai các cụ tự có quan điểm và đúc rút vậy.
Cuối cùng, do trình độ tiếng Pháp cực kỳ dốt nát, kiến thức vô cùng nông cạn, văn phong quê mùa, đâu dám khoe khoang, mong các cụ lượng thứ và góp ý.
Sau khi thớt post xong, cụ nào có nhã ý xin sách giấy, em sẽ tặng bản scan.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,421
Động cơ
708,072 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
LỜI GIỚI THIỆU [CỦA NHÀ XUẤT BẢN]

Bản ghi chép được tái hiện ở đây đã trải qua một số phận kỳ lạ. Nó được viết theo yêu cầu của một sĩ quan kỵ binh, Félix Renouard de Sainte-Croix, người đã gặp nhà truyền giáo Pierre-Jacques Lemonnier de La Bissachère tại Ma Cao vào năm 1807 [vào năm 1807, La Bissachère đến Ma Cao, nơi Renouard de Sainte-Croix đang ở. “Tôi đã nhờ ông ấy,” Sainte-Croix nói, “vui lòng viết cho tôi một bản tóm tắt về Bắc Hà, và ông ấy đã tử tế soạn thảo những ghi chép mà độc giả sắp đọc sau đây.”]. Văn bản này sau đó được chính sĩ quan này xuất bản vào năm 1810, nhưng ông không giữ nguyên hình thức ban đầu mà ông nhận được và cũng không công bố tên của tác giả thực sự. Vào các năm 1811 và 1812, bản ghi chép này trở thành nguồn cảm hứng cho một tác phẩm của nhà từ thiện nổi tiếng, nam tước de Montyon. Ông này, dù ẩn mình dưới tên của La Bissachère, thực chất chỉ vay mượn khá hạn chế từ văn bản của nhà truyền giáo này.

Vì vậy, điều đáng chú ý là tác phẩm mà công chúng biết đến như là của La Bissachère thực ra chứa rất ít nội dung từ ông, trong khi các ghi chép của ông lại được tái hiện hoàn toàn – dù đã bị chỉnh sửa khá nhiều – trong một tác phẩm xuất bản dưới tên của Renouard de Sainte-Croix. Vấn đề thư mục nhỏ liên quan đến việc trả lại cho La Bissachère những gì thuộc về La Bissachère đã được giải quyết nhờ vào sự tồn tại, tại Kho Lưu trữ Bộ Ngoại giao, của một bản thảo bao gồm:

1° Lời mở đầu, không ký tên, của Renouard de Sainte-Croix (4 trang).

2° Phần giới thiệu của cùng tác giả, không ký tên (64 trang).

3° Bản tóm tắt về một số tình tiết trong cuộc chinh phục Bắc Hà của vị hoàng tử An Nam được biết đến với tên Gia Long, do ông de La Bissachère viết (34 trang).

4° Các thông tin về Bắc Kỳ, do ông de La Bissachère viết (96 trang).

5° Hai tài liệu đính kèm với các ghi chép này của La Bissachère.

Giá trị của việc xuất bản bản thảo này nằm ở ba khía cạnh. Trước hết, việc trả lại cho văn bản của La Bissachère hình thức mà người soạn thảo ban đầu đã định hình cho nó không phải là vô ích. Văn bản này đi kèm với các ghi chú của Renouard de Sainte-Croix, những ghi chú không được đưa vào trong tác phẩm của ông. Cuối cùng, phần lời mở đầu và phần giới thiệu của Renouard de Sainte-Croix hoàn toàn chưa từng được công bố và chứa đựng, dù có một số sai sót, những thông tin về lịch sử xứ An Nam, càng thêm quý giá vì chúng đến từ Jean-Marie Dayot – một trong những sĩ quan Pháp đã phục vụ hiệu quả nhất cho vị hoàng tử An Nam trong giai đoạn đầu của cuộc chiến chống lại nhà Tây Sơn.

Việc xuất bản như vậy sẽ không hoàn toàn hợp lý nếu chỉ giới hạn ở việc tái hiện bản thảo. Một sự so sánh kiên nhẫn giữa nội dung của nó với văn bản của Montyon và văn bản của Renouard de Sainte-Croix đã cho phép xác định mức độ mà mỗi tác giả này đã sử dụng các ghi chép của nhà truyền giáo; những phần vay mượn mà Montyon lấy từ một tác phẩm vừa xuất bản gần thời điểm ông công bố tác phẩm của mình cũng đã được ghi nhận qua một vài nhận xét. Trong một ấn phẩm kiểu này – vốn chủ yếu nhằm đưa ra ánh sáng một tài liệu chưa được biết đến rõ ràng – có thể dường như không cần thiết phải chỉ ra tất cả các sai sót lịch sử mà những người soạn thảo đã mắc phải; tuy nhiên, một số sự kiện đã được tham chiếu đến một vài đoạn trong Lịch sử hiện đại xứ An Nam của chúng tôi; qua đó, độc giả có thể chỉnh sửa các thông tin trong bản thảo nếu thấy cần thiết. Cuối cùng, các ghi chú tiểu sử và thư mục sẽ được cung cấp.

Cách trình bày bản thảo như vậy có thể được coi là đầy đủ – ít nhất chúng tôi hy vọng như thế.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,421
Động cơ
708,072 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
I. — Tác giả của Bản Ghi chép về Bắc Hà

A. — Ghi chú tiểu sử

[Những ghi chú này được vay mượn từ bài viết mà ông Ad. Lalnay, thuộc Hội Các Phái bộ Nước ngoài, đã dành để nói về La Bissachère trong Hồi ký của Hội Các Phái bộ Nước ngoài (tập II, trang 343); từ các bài viết khác, kém đầy đủ hơn, được đăng trên Biên niên sử Hàng hải và Thuộc địa (1830, tập I, trang 451) và trong nhiều từ điển tiểu sử khác nhau được trích dẫn sau đây (mục B); cuối cùng, từ bộ sưu tập Tân Thư tín Cải đạo]

Pierre-Jacques Lemonnier de La Bissachère sinh khoảng năm 1764 tại giáo phận Angers. Nơi sinh cụ thể của ông không được biết đến; chỉ biết rằng tại Pouancé, một xã thuộc tỉnh Maine-et-Loire, có một tài sản mang tên La Bissachère, nơi đã được gia đình Lemonnier sinh sống trong thời gian dài, đặc biệt là vào thế kỷ XVIII.

Ông từng là trợ lý linh mục tại Bourgueil (Indre-et-Loire), một địa phương vào thời điểm đó thuộc giáo phận Angers. Ông gia nhập Chủng viện Các Phái bộ Nước ngoài ở Paris; ông ở lại đó một thời gian ngắn, sau đó việc ông lên đường đến Đàng Ngoài được quyết định. Ông khởi hành từ Lorient vào tháng 3 năm 1790; khi đến nơi, ông được phân công đến vùng phía Tây Đàng Ngoài. Chẳng bao lâu sau, vị đại diện tông tòa, Đức cha Longer, giám mục Gortyne, đã đánh giá cao sự nhiệt thành của ông; ngài ca ngợi tài năng thuyết giảng và khả năng cải đạo của ông.

[Jacques-Benjamin Longer, sinh ngày 31 tháng 5 năm 1752 tại Le Havre, thuộc giáo phận Rouen; được thụ phong linh mục ngày 23 tháng 9 năm 1773, rời Lorient ngày 9 tháng 1 năm 1776; làm nhà truyền giáo tại Đàng Trong; được bổ nhiệm làm giám mục Gortyne, trợ giám mục tại phía Tây Đàng Ngoài, sau đó trở thành đại diện tông tòa; được tấn phong tại Ma Cao ngày 20 tháng 9 năm 1792; qua đời ngày 8 tháng 2 năm 1831 tại tỉnh Nam Định. Theo Launay, Hồi ký của Hội Các Phái bộ Nước ngoài]

Vào năm 1795, trong giai đoạn cao trào của cuộc đấu tranh giữa Nguyễn Ánh và nhà Tây Sơn, người Công giáo đã bị đàn áp nặng nề ở vùng Nghệ An, nơi ông cư ngụ; ông buộc phải chạy trốn từ nơi này sang nơi khác để tránh sự truy lùng mà ông đang là mục tiêu.

Vào các năm 1798 và 1799, những cuộc đàn áp mới lại tiếp tục; tại tỉnh mà La Bissachère cư trú, tất cả các nhà thờ, nhà của linh mục và nữ tu đều bị cướp phá, sau đó bị phá hủy hoàn toàn, và vật liệu xây dựng bị mang đi; ngôi làng có trường học bị càn quét tan tành; nhà cửa của các tín đồ Công giáo bản địa trong toàn bộ tỉnh bị phá hủy, chính họ cũng bị tra tấn; các quan lại muốn ép họ khai ra nơi các nhà truyền giáo đang ẩn náu. Đức Giám mục La Mothe [Charles La Mothe, sinh khoảng năm 1751, tại giáo phận Sens; rời Brest ngày 10 tháng 2 năm 1782; làm nhà truyền giáo tại Đàng Ngoài phía Tây; trợ lý đại diện tông tòa vào năm 1789; giám mục Castorie và trợ giám mục tại Tây Đàng Ngoài, được tấn phong ngày 10 tháng 4 năm 1796; qua đời ngày 22 tháng 5 năm 1816, tại Nghệ An. Theo Launay, tác phẩm đã dẫn], Giám mục của Castorie, bị những kẻ bức hại truy đuổi, đã có thể trốn thoát bằng cách lẩn vào rừng sâu. Còn La Bissachère, sau khi chạy qua một hàng rào cây, ban đầu ông cùng một số người hầu của mình ẩn nấp sau một tảng đá lớn, bên bờ biển, với nước ngập đến thắt lưng; từ đó, những ngư dân Công giáo đã đưa ông lên một tảng đá lớn rất cao, cách đất liền khoảng tám dặm. “Tôi thực sự thích thú ở đây,” ông viết, “tôi sẵn sàng sống ở đây suốt đời nếu đó là ý Chúa. Niềm tin phổ biến của những người dân ở đây là ngọn núi này thuộc về ma quỷ, và họ đã nhiều lần nghe thấy chúng. Tôi đã ở đây gần bốn tháng và tôi xin khẳng định rằng tôi đã gặp được Chúa, Ngài ban cho tôi những ân sủng lớn lao, gấp ngàn lần hơn những gì một kẻ tội lỗi như tôi có thể mong đợi.” Tuy nhiên, ông rời bỏ nơi trú ẩn hạnh phúc này sau khi đã ở đó bảy đến tám tháng cùng với bốn học trò của mình. Ông “ẩn náu trong một ngôi làng nhỏ hoàn toàn theo đạo Công giáo, nhưng biệt lập và bị bao quanh bởi các làng ngoại đạo; điều này khiến ông không thể ra khỏi đó để đến một nơi nào khác có cộng đồng Công giáo. Ông bị tố cáo với quan tổng đốc, người đã nhiều lần cử binh lính đến để bắt ông; nhưng Chúa đã bảo vệ ông khỏi rơi vào tay họ. Ông đã cho đào một cái hố, trong đó ông ẩn náu mỗi khi có nguy hiểm. Một tín đồ Công giáo kể lại rằng ông đã nhìn thấy đầu của La Bissachère đầy kiến khi ông bước ra từ nơi ẩn náu dưới lòng đất này. Nhiều tân tòng trong làng nơi vị truyền giáo này ẩn náu đã phải chịu đựng những cực hình tàn khốc vì không chịu khai ra nơi ông đang ẩn náu. Có người bị đốt ngón tay trỏ đến tận bàn tay, có người bị lột da chân bằng kiếm; nhiều người bị trói tay mạnh đến mức máu phun ra. Nhưng Chúa đã nâng đỡ họ trong những đau khổ này: họ không nói gì có thể làm lộ vị truyền giáo.”

Khi cuộc đàn áp tạm lắng dịu, La Bissachère, người đã trở lại tỉnh Nghệ An, tập hợp quanh mình, vào năm 1800, một số môn sinh của tỉnh này để dạy họ thần học; nhưng vào năm 1801, nỗi lo sợ trước những kẻ do thám luôn rình rập quanh làng nơi ông ở buộc ông phải gửi học trò về nhà.

Vào khoảng thời gian này, sự tiến triển của quân đội nhà Nguyễn khiến các quan lại Tây Sơn lo ngại, và người Công giáo, vốn bị lãng quên bởi họ, đã sống yên ổn hơn. Sau khi kinh đô Huế bị chiếm đóng và các tỉnh miền Nam Trung Bộ được bình định, Nguyễn Ánh bắt đầu chiến dịch nhằm đưa Bắc Hà vào quyền kiểm soát của mình. Khi ông đi qua tỉnh Nghệ An vào đầu tháng Bảy năm 1802, Đức Giám mục Castorie và La Bissachère đã đến chào ông; ông cho phép họ tham dự buổi yết kiến và đối xử với họ rất trang trọng.

Năm 1806, La Bissachère bị bệnh và buộc phải rời Bắc Hà; đến năm 1807, ông có mặt tại Macao, nơi ông gặp Renouard de Sainte-Croix – “ông ấy đến vào tháng Tám,” Sainte-Croix viết. Jean-Baptiste Chaigneau, một sĩ quan người Pháp phục vụ dưới triều Gia Long, đã viết từ Huế vào ngày 6 tháng Sáu năm 1807 gửi ông Létondal, người quản lý các Sứ mệnh Hải ngoại tại Macao: “Ông La Bissachère sẽ kể chi tiết cho ngài về tình hình hiện tại của Nam Hà. Câu nói này giúp xác nhận thông tin của Sainte-Croix về thời điểm mà nhà truyền giáo ở Macao, và kỳ lạ thay, cũng báo trước tựa đề của tác phẩm được xuất bản tại Paris vào năm 1812 dưới tên La Bissachère: Etat actuel du Tunkin, de la Cochinchine, etc. (Tình hình hiện tại của Bắc Hà, Nam Hà, v.v.).

Không rõ chính xác thời điểm La Bissachère đến châu Âu; người ta chỉ biết rằng ông cập bến nước Anh vào năm 1808. Ông sống ở đó khá lâu – khoảng sáu hoặc bảy năm – cư trú tại London và Oxburg; dường như ông từng nghĩ đến việc thành lập một hội dòng, nhưng theo lời kể của ông Ad. Launay, mong muốn này không thành hiện thực [“ông ấy đã sống khá lâu ở Anh và đứng đầu một hội đoàn,” người soạn bài viết trong Biên niên sử Hàng hải và Thuộc địa cho biết]. Dường như ông đã gặp nhiều khó khăn trong việc kiếm kế sinh nhai, và để tạo nguồn thu nhập, theo lời khuyên của một số người, ông đã dự định xuất bản những ghi chép mà ông đã viết cho Sainte-Croix. Chính trong dịp này mà ông đã liên lạc với nam tước Antoine de Montyon – ít nhất chúng ta có thể giả định điều đó mà không sợ sai sót lớn. Nam tước Montyon, người đã sang Thụy Sĩ ngay từ đầu cuộc Cách mạng Pháp, thực tế đã định cư tại Anh trong nhiều năm khi La Bissachère đến đó; ông trở thành thành viên của Hội Hoàng gia London và dành thời gian nghiên cứu văn học, chính trị và triết học; ông chỉ rời Anh khi thời kỳ Phục hồi bắt đầu và theo Louis XVIII khi ông này trở về Pháp. Có thể tưởng tượng rằng, với tính tò mò đặc trưng của thời đại ông, về phong tục và tập quán của các vùng đất xa xôi, ông đã rất vui mừng khi tìm thấy ở La Bissachère một du khách am hiểu, và ông đã khuyến khích La Bissachère kể về những gì ông đã chứng kiến, học hỏi và chịu đựng tại Bắc Hà trong mười sáu hoặc mười bảy năm ông sống ở đó. Theo một trong những nhà tiểu sử của La Bissachère [Tiểu sử mới... (Firmin Didot frères). Bài viết liên quan đến La Bissachère được ký tên K], nhà truyền giáo này đã giao cho Montyon nhiệm vụ biên soạn các ghi chép của mình, vì ông cảm thấy khó khăn trong việc tự làm công việc này. Nhưng dường như ông đã đặt niềm tin sai chỗ. “Nhà bác ái nổi tiếng, dường như, đã không hành động trong hoàn cảnh này với lòng hào hiệp mà người ta đã ca ngợi nhiều trong di chúc của ông ta; không chỉ ông ấy đã thay đổi và thêm thắt vào bản thảo những nội dung không phù hợp, mà còn giữ toàn bộ tiền thù lao mà nhà xuất bản trả và chỉ trao cho vị linh mục nghèo vài bản sao.” Chúng tôi không đủ khả năng xác định chính xác mức độ đúng đắn của cáo buộc này; tuy nhiên, chắc chắn rằng Montyon đã tiếp cận các ghi chép của La Bissachère và chúng ta sẽ thấy sau này cách ông ấy đã sử dụng nội dung đó.

La Bissachère chỉ trở lại Pháp vào năm 1815, với tư cách là đại diện của phái đoàn [truyền giáo] Nam Hà tại Paris; ông thực hiện các nhiệm vụ của mình cho đến ngày 21 tháng Bảy năm 1817, thời điểm ông được bổ nhiệm làm giám đốc của Chủng viện.

Richelieu, Bộ trưởng Ngoại giao và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, đã tham khảo ý kiến của ông trong cùng năm đó, cũng như của Richenet, người quản lý phái đoàn Lazarist tại Bắc Kinh, vì ông quan tâm đến việc mở rộng thương mại của Pháp ở Biển Đông. La Bissachère đã cung cấp cho ông những thông tin về các quốc gia mà ông từng sinh sống, đặc biệt là về Nam Hà.

Tại chủng viện, ông đã được bầu liên tiếp ba lần làm trợ lý cho bề trên, vào các năm 1820, 1823 và 1826. Ông qua đời tại chủng viện vào ngày 1 tháng Ba năm 1830 sau một trận ốm dài khiến ông bị mù và liệt toàn thân.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,421
Động cơ
708,072 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
B. — Ghi chú tiểu sử và thư mục

[Được sao chép lại theo Ad. Launay (tác phẩm đã dẫn). Một vài bổ sung không quá quan trọng đã được thêm vào: các tham chiếu đến ba trang trong Tân Thư tín Cải đạo (ấn bản Le Clère, Paris, 1823) mà ông Ad. Launay đã bỏ sót (tập VIII, trang 20, 22, 72); bài viết trong Biên niên sử Hàng hải và Thuộc địa, bài đánh giá của Edinburgh Review; các tham chiếu đến Thư mục An Nam của Barbie du Bocage và Thư viện Đông Dương của ông H. Cordier; đến Tài liệu liên quan đến thời kỳ Gia Long của L. Cadière, thuộc Hội Các Phái bộ Nước ngoài; các tham chiếu đến Những trò lừa bịp văn học được hé lộ và Văn học Pháp của Quérabd; đến một bài viết trong Calcutta Journal; đến một tác phẩm của ông Faure về giám mục Adran; đến tác phẩm của Crawfurd về sứ mệnh của ông tại Nam Kỳ; đến ba từ điển tiểu sử; đến một nghiên cứu của ông Cl.-E. Maître về Pigneau de Behaine; đến một bài viết của Charles-B. Maybon trong Tạp chí Lịch sử các Thuộc địa Pháp; đến tác phẩm của Renouard de Sainte-Croix, Lời giới thiệu của ông de Montyon, và Lời thông báo của nhà xuất bản, Galignani. Từ ba tài liệu cuối cùng này, các trích đoạn sẽ được đưa ra sau đây, phần II, mục A và B]

La Bissachère hoặc tác phẩm của ông được đề cập trong các tác phẩm thuộc danh sách sau đây:

- Renouard de Sainte-Croix. Voyage commercial et politique aux Indes Orientales (Chuyến đi thương mại và chính trị đến Đông Ấn), Lời nói đầu, trang viij; Tập III, trang 221.

- Exposé statistique du Tunkin (Báo cáo thống kê về Bắc Kỳ), Lời giới thiệu, trang 7.

- Etat actuel du Tunkin (Tình hình hiện tại của Bắc Kỳ), Lời giới thiệu của Nhà xuất bản; Lời mở đầu, trang 9, 10.

- Edinburgh Review, tháng Mười năm 1813 – tháng Một năm 1814, trang 348-360. [Tác giả của bài đánh giá này lấy làm tiếc về phần chủ đạo do người soạn thảo (bằng tiếng Pháp trong nguyên bản) đảm nhận, người này đưa ra kết quả của các quan sát của La Bissachère chứ không phải chính những quan sát đó; ông bày tỏ mong muốn được thấy các tài liệu của La Bissachère được xuất bản dưới dạng nguyên bản. Có lẽ ông đã biết về sự không trung thực của “người soạn thảo”]

- Moniteur universel (Báo cáo phổ quát), năm 1812, số 37, trang 145.

- H. P. — Cochin-China. Trích từ Calcutta Journal, tháng Một năm 1823, tái bản trong Notices of the Indian Archipelago and adjacent countries (Thông báo về Quần đảo Ấn Độ và các nước lân cận) của J. H. Moor; Singapore, 1837; trang 231.

- Nouvelles des Missions Orientales (Tin tức từ các Sứ mệnh Phương Đông), nhận được tại Chủng viện các Sứ mệnh Hải ngoại, 1793-1796, trang 11; 1794-1807; trang 85, 90, 92, 118, 162.

- Nouvelles Lettres édifiantes des Missions de la Chine et des Indes Orientales (Những bức thư giáo huấn mới từ các Sứ mệnh ở Trung Quốc và Đông Ấn); Tập VII, trang 205, 209, 266, 276 tiếp theo; Tập VIII, trang 14, 20, 22, 50, 70, 72, 87.

- Annales de la Propagation de la Foi (Biên niên sử Truyền bá Đức tin), Tập I, 1822-1825, số VI, trang 30; Tập II, 1826-1827, trang 162.

- Annales maritimes et coloniales (Biên niên sử Hàng hải và Thuộc địa), năm 1830, Tập I, trang 451.

- Estratto delle lettere originali scritte in idioma francese dai Vicarj apostolici, missionnarj della Cina, Tunkino, Cochinchina etc. sullo stato di quelli missioni (Trích đoạn các bức thư gốc viết bằng tiếng Pháp bởi các Giám mục Tông tòa, các nhà truyền giáo ở Trung Quốc, Bắc Hà, Nam Hà v.v. về tình hình các sứ mệnh này), Tập II (Roma, 1806); trang 2; trang 75.

- Brève Notizie sullo Stato della Cattolica religione nella Cina, Tunkino, Cochinchina... compilato dall'abate Settimio Costanzi, D. S. T... Societa agraria, Ivrea (Tóm tắt ngắn gọn về Tình hình của Tôn giáo Công giáo tại Trung Quốc, Bắc Hà, Nam Hà... biên soạn bởi linh mục Settimio Costanzi, D. S. T... Hiệp hội Nông nghiệp, Ivrea [khoảng năm 1806]), in-8; trang 26.

- Ami de la Religion et du Roi (Người bạn của Tôn giáo và Nhà vua), Tạp chí Giáo hội, Chính trị và Văn học; Le Clere, Paris, in-8, năm 1823, trang 367.

- John Crawfurd. Journal of an Embassy from the Governour General of India to the Courts of Siam and Cochin-China (Nhật ký Phái đoàn từ Toàn quyền Ấn Độ đến Triều đình Xiêm La và Nam Kỳ). London, 1828, trang 526.

- Quérard. Les Supercheries littéraires dévoilées (Các gian lận văn học bị phơi bày), Tập II, cột 478.

- La France Littéraire (Nước Pháp Văn học), Tập VI, trang 275, 327.

- F. K. De Feller. Dictionnaire historique ou Biographie universelle des hommes qui se sont fait un nom... (Từ điển Lịch sử hay Tiểu sử Toàn cầu của những nhân vật nổi danh...) 1837, mục từ "Monthyon".

- Biographie universelle ou Dictionnaire historique... (Tiểu sử Toàn cầu hoặc Từ điển Lịch sử...) do một Hội các Nhà Văn biên soạn, 1833, mục từ "Montyon".

- Les Contemporains, mục từ "Montyon", số 493, trang 12. La Cochinchine et le Tonkin (Nam Hà và Bắc Hà), trang 202, 207. Nouvelle Biographie générale depuis les temps les plus reculés jusqu'à nos jours... (Firmin Didot frères), Tập XXVIII, trang 371.

- V.-A. Barbie du Bocage. Bibliographie annamite (Thư mục về An Nam). Sách, Tạp chí định kỳ, Bản thảo, Bản đồ, 1867; số 39, 40; trang 7.

- Henri Cordier. Bibliotheca Indosinica. Từ điển Thư mục các tác phẩm liên quan đến Bán đảo Đông Dương, 1912; Tập I, cột 997-998.

- LouvET. La Cochinchine religieuse (Nam Kỳ tôn giáo), Tập I, trang 469.

- Lettre à l'Évêque de Langres (Thư gửi Giám mục Langres), trang 239, 301.

- Vie de M. l'abbé Buisson (Tiểu sử Cha Buisson), trang 103.

- Adrien Launay. Histoire générale de la Société des Missions-Étrangères (Lịch sử Tổng quát của Hội Thừa sai Hải ngoại), xem chỉ mục Tập III.

- Mémorial de la Société des Missions-Étrangères (Kỷ yếu của Hội Thừa sai Hải ngoại); Phần 1, trang 50; Phần 2, trang 343.

- Alexis Faure. Les Français en Cochinchine au dix-huitième siècle. Mgr Pigneau de Behaine, évêque d'Adran (Người Pháp ở Nam Kỳ thế kỷ 18. Đức Giám mục Pigneau de Behaine, Giám mục Adran). Paris, 1891, trang 216.

- Henri Cordier. La Reprise des Relations de la France avec l'Annam sous la Restauration (Việc Khôi phục Quan hệ giữa Pháp và An Nam dưới Thời Phục hồi). T'oung Pao, 1903, trang 289.

- Cl.-E. Maître. Documents sur Pigneau de Béhaine (Tài liệu về Pigneau de Béhaine), Revue Indochinoise, 1913, Học kỳ 2, trang 344-347.

- L. Cadière. Documents relatifs à l'époque de Gia-long (Tài liệu liên quan đến thời kỳ Gia Long). Bulletin de l'École française d'Extrême-Orient, 1912, số 7, trang 56, 59.

- Charles B.-Maybon. Nguyên Anh, Empereur et Fondateur de dynastie, Gia-long (1802-1820) (Nguyễn Ánh, Hoàng đế và Người sáng lập Triều đại, Gia Long (1802-1820)). Revue de l'Histoire des Colonies françaises (Tạp chí Lịch sử Thuộc địa Pháp), 1919; Trích đoạn, trang 34 và 82.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,421
Động cơ
708,072 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
II. — Việc xuất bản Bản Ghi chép của La Bissachère

A. — Renouard de Sainte-Croix và tác phẩm của ông.

Sau khi Hiệp định hòa bình Amiens được ký kết (ngày 27 tháng 3 năm 1802), trả lại cho nước Pháp các thuộc địa bị người Anh chiếm đóng hoặc giành được trong chiến tranh, một đoàn thám hiểm đã được cử đến Viễn Đông. Đoàn thám hiểm này do Tướng Decaen chỉ huy, với danh hiệu Tổng Chỉ huy các khu định cư Pháp ở phía Đông mũi Hảo Vọng, chịu trách nhiệm tiếp quản lại quyền sở hữu. Tướng Decaen rời cảng Brest vào ngày 4 tháng 3 năm 1803 cùng với một bộ tham mưu lớn, gồm các chỉ huy quân sự và dân sự, binh lính, và toàn bộ đội ngũ hành chính đầy đủ.

Đoàn thám hiểm bao gồm một tàu chiến lớn [vaisseau] là Marengo, ba tàu tuần dương [frégates] là: Atalante, Belle-Poule, Sémillante, một tàu nhỏ [brick] là Bélier, và hai tàu vận tải: Côte-d'Or và Marie-Française. Trên tàu Sémillante có Félix Renouard de Sainte-Croix, một cựu sĩ quan kỵ binh.

Sainte-Croix đến Pondichéry vào tháng 7 năm 1803, lưu lại Ấn Độ khoảng một năm, sau đó đi đến Philippines, nơi ông được Thống đốc tổng cộng giao nhiệm vụ tổ chức phòng thủ cho quần đảo. Cuối năm 1806, ông ghé qua Macao, thăm Quảng Châu, thu thập thông tin về nguồn lực của các quốc gia mà ông đi qua, đồng thời nghiên cứu kỹ lưỡng về con người và sự vật tại những nơi này.

Năm 1810, ông xuất bản một tác phẩm trong đó ông tóm tắt, dưới hình thức các bức thư gửi đến bạn bè (có tổng cộng 80 bức thư trong ba tập sách), tất cả các dữ liệu mà ông thu thập được trong suốt chuyến hành trình kéo dài năm năm. Tiêu đề của tác phẩm mô tả rất đầy đủ nội dung của nó. Cụ thể như sau:

CHUYẾN ĐI

THƯƠNG MẠI VÀ CHÍNH TRỊ ĐẾN

ĐÔNG ẤN ĐỘ

QUẦN ĐẢO PHILIPPINES, TRUNG QUỐC,

KÈM THEO

NHỮNG THÔNG TIN VỀ NAM HÀ VÀ BẮC HÀ,

TRONG CÁC NĂM 1803, 1804, 1805, 1806 & 1807.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,421
Động cơ
708,072 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tác phẩm này bao gồm các quan sát và thông tin về sản vật địa phương và công nghiệp cũng như thương mại của các quốc gia này; các bảng thống kê nhập khẩu và xuất khẩu trong thương mại giữa châu Âu và Trung Quốc từ năm 1804 đến năm 1807; những nhận xét về phong tục, tập quán, chính phủ, luật pháp, ngôn ngữ, tôn giáo, v.v.; một cái nhìn tổng quan về các biện pháp cần áp dụng để giải phóng các vùng đất này khỏi quyền lực của Anh.

Bởi ông Félix RENOUARD DE SAINTE-CROIX,

Cựu sĩ quan kỵ binh phục vụ nước Pháp, được Thống đốc quần đảo Philippines giao nhiệm vụ tổ chức quân đội để bảo vệ các hòn đảo này.

Tác phẩm này đi kèm với các bản đồ địa lý của Ấn Độ và Trung Quốc, do ông Mentelle, thành viên Viện Hàn lâm, và ông Chanlaire, một trong các tác giả của Tập bản đồ Quốc gia, thực hiện.

PARIS

TẠI CÁC TƯ LIỆU LUẬT PHÁP NƯỚC PHÁP

Nhà xuất bản Clamem Frères, Libraires-Éditeurs, số 3 phố de l'Echelle, tại Carrousel.

IN TẠI NHÀ IN CRAPELET

1810
1741054332213.png
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,421
Động cơ
708,072 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thư cuối cùng trong Tập ba, mang tựa đề Những khái niệm sơ bộ về Nam Hà và Bắc Hà (trang 221-289), là thư duy nhất liên quan đến các quốc gia An Nam và nó tái hiện khá trung thực toàn bộ nội dung những ghi chép mà La Bissachère đã cung cấp cho du khách. Một số thay đổi liên quan đến cách viết, với những chỉnh sửa nói chung khá hợp lý được áp dụng vào văn bản của nhà truyền giáo. Tuy nhiên, những thay đổi quan trọng nhất là những thay đổi đã sắp xếp lại nội dung theo một trật tự mới, khiến cho bản tường thuật gốc có diện mạo hoàn toàn khác so với khi nó vừa rời khỏi ngòi bút của La Bissachère; và phải thừa nhận rằng nỗ lực của Sainte-Croix phần nào không đạt được mục tiêu. Những cố gắng của ông nhằm kết hợp các đoạn rời rạc có mối liên hệ với nhau thành các chương chỉ tạo ra một sự thống nhất giả tạo cho bản tường thuật, vốn vẫn còn rời rạc như cũ; tốt hơn là nên để nó giữ nguyên hình thức ban đầu của những ghi chú đơn giản được đặt cạnh nhau mà không có kế hoạch trước, thay vì áp đặt một thứ trật tự nhân tạo và vẽ ra các khuôn mẫu mà trong đó, bất chấp ý định tốt đẹp của người biên tập, vẫn chứa đựng nhiều yếu tố không đồng nhất. Những ghi chú đi kèm với văn bản của La Bissachère trong ấn bản chúng tôi công bố từ bản thảo lưu trữ tại Bộ Ngoại giao sẽ đủ để minh họa công việc ghép nối hầu như vô ích mà Renouard de Sainte-Croix đã thực hiện. Có thể thấy thú vị khi so sánh bảng mục lục của bản thảo với tóm tắt các chương của Sainte-Croix để làm nổi bật thêm những khác biệt trong cách trình bày các khái niệm do nhà truyền giáo cung cấp.

Bảng mục lục của bản thảo:

- Khái niệm về Bắc Hà (trang 105).

- Nguồn gốc tên gọi Bắc Hà (trang 105).

- Nam Hà từng là một tỉnh của Bắc Hà (trang 107).

- Gia đình của Hoàng đế hiện tại không phải là dòng dõi thật sự của các vị vua xưa (trang 108).

- Hoàng tử hiện tại bị dân chúng căm ghét và lý do (trang 111).

- Ngôn ngữ và chữ viết Bắc Hà (trang 117).

- Người Trung Quốc đã cai trị Bắc Hà (trang 119).

- Cách Hoàng đế Trung Quốc ban sắc phong ở đất nước này (trang 122).

- Ý nghĩa của từ Tây Sơn (trang 125).

- Tín ngưỡng Bắc Hà và các pháp sư, v.v. (trang 126).

- Niềm tin của Hoàng đế mới. Các sắc lệnh của ông về các Vua Thần linh (trang 132).

- Niềm tin của mẹ và chị gái của Hoàng đế (trang 134).

- Dân số Bắc Hà và người Công giáo (trang 141).

- Các thiết chế dân sự và đạo đức của đất nước này (trang 143).

- Luật pháp về giết người, v.v. (trang 145).

- Hệ thống quản lý trong các làng Bắc Hà (trang 150).

- Chính quyền là chuyên chế (trang 153).

- Phân chia dân cư thành các giai cấp (trang 154). Phân bổ thuế và cách thức thu thuế (trang 159).

- Thức ăn của người Bắc Hà, sự màu mỡ của đất nước (trang 161).

- Vàng, bạc và các mỏ khác (trang 164).

- Sức mạnh của đất nước, cách họ sử dụng voi (trang 167).

- Họ khinh thường người Trung Quốc (trang 168).

- Phong tục và tập quán của đất nước (trang 169).

- Phụ nữ Bắc Hà, phong tục, v.v. (trang 173).

- Hôn nhân, đa thê và thiếp (trang 175).

- Các hình phạt, v.v. (trang 181).

- Luật xa xỉ (trang 182).

- Về nghệ thuật ở Bắc Hà (trang 183).

- Chính quyền các tỉnh (trang 187).

- Xác chết và việc xử lý thi thể (trang 188).

- Đánh bắt cá trên sông, cách bắt cá (trang 189).

- Trang phục lễ nghi (trang 191).

- Thức ăn đặc biệt, cách bắt sâu mà họ ăn (trang 192).

- Tuyên cáo của Vua Tây Sơn Quang Trung (trang 196).

- Thông tin về Bắc Hà (trang 201).

2° Tóm tắt nội dung trong tác phẩm củ
a Renouard de Sainte-Croix.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,421
Động cơ
708,072 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
THƯ LXXX
Khái niệm sơ bộ về Nam Hà và Bắc Hà,

Thư mở đầu bằng một phần giới thiệu ngắn do Sainte-Croix viết, có ghi ngày: Tourane, ngày 25 tháng 12 năm 1807. (Trang 221-227).

[Chính bằng một thủ thuật mà Sainte-Croix ghi ngày tháng bức thư của mình từ Đà Nẵng. Ông chỉ ghé ngắn ngày tại cảng này trong chuyến trở về; thậm chí ông còn không dừng lại đó khi đi đến Philippines (xem Thư XXXIII, tập I, trang 298); do đó, việc ghi tên Tourane ở đầu thư không cho thấy ông có kinh nghiệm cá nhân về vùng đất này]

KHÁI NIỆM VỀ NAM HÀ VÀ BẮC HÀ

Chương I. — Về tên gọi của thủ đô và đất nước. Chính quyền Trung Quốc ban sắc phong; cách thức thực hiện việc này. Ba triều đại kế tiếp nhau; thất bại của quân đội Trung Quốc (trang 227-232).

Chương II. — Cuộc xâm lược Nam Kỳ bởi hoàng tử trẻ. Sự trốn chạy của vua Tây Sơn (trang 232-235).

Chương III. — Người phụ nữ anh hùng, người đã dùng lòng dũng cảm để khôi phục vận mệnh của nhà Tây Sơn. Sự phản bội khiến họ hoàn toàn sụp đổ (trang 236-240).

Chương IV. — Cách Hoàng đế Gia Long sử dụng chiến thắng của mình. Khởi đầu của sự áp bức (trang 241-245).

Chương V. — Các hình phạt dành cho tù nhân (trang 245-250).

Chương VI. — Hành động của Gia Long, sự áp bức đối với nhân dân (trang 250-253).

Chương VII. — Về Chính quyền và Luật pháp của đất nước (trang 253-259).

Chương VIII. — Dân số, phân chia cư dân thành các giai cấp; về thuế khóa; cách thức thu thuế (trang 259-264).

Chương IX. — Tôn giáo, tín ngưỡng, mê tín dị đoan, thần hộ mệnh, v.v. (trang 264-271).

Chương X. — Phong tục và tập quán của Bắc Hà (trang 272-279).

Chương XI. — Về đất đai và sản vật của nó (trang 279-285).

Chương XII. — Về Ngôn ngữ và Nghệ thuật của Bắc Hà (trang 286-289).

Sainte-Croix, mặc dù không trích dẫn tên của nhà truyền giáo đã cung cấp thông tin về Nam Hà và Bắc Hà, hoàn toàn không có ý định lừa dối độc giả, bất chấp thủ pháp nhỏ khi ông ghi ngày Thư từ Tourane. Trong phần Lời nói đầu của tác phẩm, sau khi nói rằng những nơi ông thu thập được nhiều sự kiện nhất là bờ biển Coromandel, quần đảo Philippines và Trung Quốc, ông không ngần ngại viết về Nam Hà như sau:

"Một khoảng thời gian ngắn dừng chân tại vương quốc Nam Hà chắc chắn không thể giúp tôi nắm bắt được những gì đã xảy ra ở đất nước này, nếu tôi không nhờ đến sự nhiệt huyết và hiểu biết của một nhà truyền giáo, người mà nhờ thời gian dài sống ở những vùng đất ít được biết đến này đã am hiểu nhiều sự kiện đặc biệt liên quan đến vương quốc này. Chính nhờ nhà truyền giáo này mà tôi có được những thông tin mà tôi hân hạnh chia sẻ với công chúng. Tôi không nghĩ rằng mình nên thay đổi phong cách giản dị trong cách diễn đạt của ông ấy, bởi việc tước đi điều đó sẽ là không phù hợp (vì đó là một ưu điểm trong loại tường thuật này), và cũng không nên coi công trình này như của mình khi thực tế ông ấy phải là tác giả duy nhất."

Không chỉ dừng lại ở tuyên bố này, ông còn nhắc lại nó trong Tập ba, trong phần giới thiệu ngắn về Khái niệm về Nam Hà và Bắc Hà, và mặc dù vẫn chưa công bố tên tác giả, ông cung cấp đủ thông tin để người đọc có thể khám phá ra danh tính của nhà truyền giáo. [Chính những dấu hiệu này đã đưa chúng tôi, từ vài năm trước, đến con đường giải quyết vấn đề. Một số mối liên hệ chặt chẽ giữa cuốn sách được xuất bản dưới tên La Bissachère và câu chuyện du hành của John Barrow, xuất bản năm 1806, đã sớm thu hút sự chú ý của chúng tôi. Sự trung thực của Renouard de Sainte-Croix đã xác nhận những nghi ngờ bắt đầu hình thành; tuy nhiên, đáng tiếc là vị sĩ quan này không đi đến cùng bằng cách nêu rõ tên của nhà truyền giáo].

"Sau khi đã nói với quý vị về Ấn Độ, Philippines và Trung Quốc, tôi cần phải kể cho quý vị nghe về những cuộc cách mạng gần đây xảy ra ở Nam Hà và Bắc Hà: tôi sẽ cung cấp cho quý vị những thông tin chắc chắn về hai quốc gia này, và quý vị sẽ vui mừng khi biết rằng, theo một cách nào đó, chính nước Pháp là nơi mà vị vua mới nợ tất cả quyền lực của mình. Một khoảng thời gian dừng chân ngắn ngủi ở vùng biển Nam Hà chắc chắn không thể giúp tôi nắm bắt hết mọi điều thú vị đã xảy ra ở đất nước này. Tôi nghĩ rằng mình nên dựa vào sự nhiệt huyết và hiểu biết của một nhà truyền giáo, ông de la B***, người đã sống mười tám năm ở vùng đất này. Là nhân chứng của các sự kiện mà ông kể lại, và của những phong tục mà ông mô tả, ai có thể hiểu rõ hơn ông về một khu vực mà các tàu thuyền châu Âu chỉ mới khám phá phần bờ biển? Bị thu hút đến những vùng đất này bởi lòng nhiệt thành trong việc truyền bá đạo Thiên Chúa, ông đã ở lại đây trong nhiều năm. Vì vậy, đây là tác phẩm của ông mà quý vị sẽ đọc, chứ không phải của tôi; xét theo hai khía cạnh này, quý vị chắc chắn sẽ chỉ có lợi mà thôi."

"Sau khi đã làm rõ những điểm này, tôi xin để quý vị lại với tác phẩm của vị linh mục đáng kính, người sẽ giúp quý vị hiểu rõ những cuộc cách mạng gần đây, cũng như phong tục của phần thế giới mà tôi chỉ kịp thoáng nhìn qua."
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,421
Động cơ
708,072 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
[Nguồn trên, trang 226-227. Cần lưu ý rằng trong bản thảo của Bộ Ngoại giao, giọng điệu của Sainte-Croix không hoàn toàn tràn đầy sự kính trọng đối với “nhà truyền giáo trung thực”. Đôi khi ông không ngần ngại tranh luận về các thông tin của La Bissachère và thay thế chúng bằng thông tin của chính mình; mặt khác, trong một số ghi chú được thêm vào văn bản – và không được tái hiện trong bản in – ông phản đối sự cả tin của nhà truyền giáo]

Trước khi rời khỏi Renouard de Sainte-Croix, dường như không thừa nếu cung cấp một số thông tin về mối quan hệ giữa ông và Jean-Marie Dayot, cũng như đưa ra một số thông tin cần thiết về Dayot và các bản đồ bờ biển Nam Hà của ông, nhằm làm rõ những gì được đề cập trong bản thảo lưu trữ tại Bộ Ngoại giao. [Một số thông tin tiểu sử dưới đây được trích từ bài viết về Dayot, do Alf. Brissaud công bố trên Annales maritimes et coloniales (Biên niên sử Hàng hải và Thuộc địa), Tập XCVIII (tháng 7-tháng 9 năm 1888), trang 519].

Jean-Marie Dayot có gốc gác Bretagne; ông thuộc một gia đình ở Redon đã định cư tại Đảo Pháp (Ile de France), và nhiều thành viên trong gia đình từng làm việc cho Công ty Đông Ấn. Ông có quan hệ họ hàng với Joseph-François Charpentier de Cossigny, người sinh ra tại Đảo Pháp và từng là chỉ huy ở Pondichéry từ năm 1785 đến 1787.

Năm 1786, khi đang chỉ huy tàu Adélaïde — một loại tàu nhỏ hai cột buồm [gọi là polacre hoặc polaque] được trang bị tại Đảo Pháp để đi lấy thuốc súng và gia vị từ Pointe-de-Galles và Mascate — Dayot bị hải tặc Mahratte bắt giữ. Sau nhiều yêu cầu bồi thường không thành công từ phía chủ tàu, Dayot đến Pondichéry để gặp tướng Conway, lúc đó là chỉ huy quân đội Pháp ở Ấn Độ, và nhờ ông can thiệp với chính quyền Mahratte để đòi lại công lý. Có thể vào thời điểm này Dayot đã gặp Giám mục Adran, Mgr Pigneau de Behaine [Bá Đa Lộc], người vừa đến từ Pháp tới Pondichéry vào tháng 5 năm 1788; hoặc có thể ông đã biết vị giám mục trước đó, hoặc tại Pondichéry, hoặc trong một lần dừng chân của giám mục tại Đảo Pháp. Mặc dù không thể xác định chính xác cách thức và thời điểm hai nhân vật này thiết lập mối quan hệ, cũng như khi nào Dayot bắt đầu phục vụ cho hoàng tử An Nam, nhưng có vẻ như thủy thủ này đã chỉ huy một trong những tàu hộ tống chiến hạm Méduse vào năm 1789, khi ông Bá Đa Lộc trở lại Nam Kỳ. Dayot là một trong những cộng sự tích cực nhất của Nguyễn Ánh. Trong tường thuật của Sainte-Croix, có một số chi tiết về vai trò của ông trong khoảng sáu năm lưu lại Nam Kỳ: cung cấp tiếp tế cho quân đội hoàng gia, xây dựng lực lượng hải quân, điều hành các xưởng đóng tàu; ông cũng tham gia vào các chiến dịch quân sự, đặc biệt là trong việc phá hủy hạm đội của quân nổi dậy tại cảng Qui Nhơn vào năm 1792 [xem trong cuốn Lịch sử Hiện đại của Đất nước An Nam của chúng tôi, Chương VIII, Mục 2, để biết tường thuật về trận chiến Qui Nhơn năm 1792] Ông đã đưa em trai mình, Félix, đến hỗ trợ bên cạnh ông; Félix cũng được nhắc đến trong tường thuật của Sainte-Croix, và Giám mục Adran [Bá Đa Lộc] đã mô tả anh như sau: "người thanh niên này có tài năng, tỏ ra có kỷ luật, yêu lao động và có tính cách ôn hòa, trung thực."
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,421
Động cơ
708,072 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Renouard de Sainte-Croix kể lại sự kiện dẫn đến việc Dayot rời bỏ phục vụ hoàng tử, nhưng không nêu rõ thời điểm ông ra đi. Chúng ta biết được điều này nhờ một bức thư của nhà truyền giáo Le Labousse gửi từ Sài Gòn tới Quản lý các Sứ mệnh Hải ngoại tại Macao vào ngày 22 tháng 6 năm 1795:

"Ngài sẽ sớm thấy M. Olivier và M. Dayot đến Macao; Dayot sẽ phải trốn khỏi tàu của mình khi nó cập bến cảng Saint-Jacques. Cuộc đào thoát này có thể sẽ khiến triều đình mất mát lớn."

Con trai của Chaigneau cũng xác nhận thời điểm và nguyên nhân của sự ra đi: "M. Dayot, người chỉ huy tàu Cuivre và một tàu khác, đã từ bỏ chức vụ này từ năm 1795, do ông có những phàn nàn về hành vi xấu của các quan lại Nam Hà." [Cadière, ibid., trang 73. Ai cũng biết rằng hàng năm một tàu galion chất đầy sản phẩm chế tạo và bạc Mexico được gửi đến Philippines, và sau đó nó trở về với một chuyến hàng gồm tơ lụa và các mặt hàng từ Viễn Đông. Xem trong Renouard de Sainte-Croix, Voyage commercial et politique (Chuyến đi Thương mại và Chính trị), một bức thư thú vị về thương mại này; Tập II, Thư LVII, trang 357-378].

Khi hai anh em nhà Dayot rời Nam Hà, họ đến Manila và bắt đầu tham gia vào hoạt động thương mại. Qua một bức thư của Vannier, chúng ta biết rằng Félix đã tham gia vào các giao dịch hàng năm giữa Philippines và Acapulco, cảng ở Mexico mà người Tây Ban Nha tập trung buôn bán với Đông Ấn. Hai anh em sống nhiều năm tại Philippines, nhưng Gia Long vẫn tiếc nuối sự phục vụ của họ và rất mong muốn họ trở lại Nam Hà. Sainte-Croix nói điều này, mặc dù có phần phóng đại, nhưng sự kiện về chuyến đi của Jean-Marie Dayot mà ông kể lại được xác nhận bởi một bức thư của Giám mục Labartette, trong đó cung cấp nhiều chi tiết hơn; dường như không cần thiết phải lặp lại những chi tiết đó ở đây. Từ năm 1804, thời điểm của chuyến đi này, rất có thể Dayot, hoặc em trai ông là Félix, đã thực hiện thêm các chuyến đi khác, nhưng thông tin mà Sainte-Croix cung cấp về việc họ luôn được Gia Long đón tiếp nồng hậu rõ ràng là sai lệch; theo một bức thư của nhà truyền giáo Audemar, Dayot đã trở nên đáng ghét trong mắt Gia Long vì có người báo cáo rằng ông là một điệp viên của người Anh. [Cadière, ibid., trang 57-58. Dường như có một mối liên hệ nào đó giữa chuyến đi của Dayot và phái đoàn của Roberts vào năm 1804. Xem trang 59-68 của bản thảo và ghi chú liên quan đến phái đoàn của Roberts].

Sainte-Croix trích dẫn trong một ghi chú cuốn Hải đồ Nam Hà của Dayot và cũng nói rằng hai anh em đã vẽ bản đồ bờ biển Nam Hà trong khi đi theo quân đội. Về vấn đề này, cần đưa ra một số giải thích. [Nguồn trên, trang 58, ghi chú. Hãy lưu ý rằng Sainte-Croix đã rời Viễn Đông trước ngày Audemar viết thư (ngày 6 tháng 6 năm 1808)].
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,421
Động cơ
708,072 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
1741054547949.png

Jean-Marie Dayot (trái) và em trai Félix Dayot (phi)
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,421
Động cơ
708,072 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trong suốt những chuyến đi lặp đi lặp lại dọc theo bờ biển An Nam, không chỉ "khi đi theo quân đội" mà còn trong các hoạt động tiếp tế, hai anh em nhà Dayot đã thực hiện một công việc đáng tự hào: lập bản đồ thủy văn của các bờ biển và cảng. Chính Renouard de Sainte-Croix đã mang bản báo cáo và các bản đồ của Dayot về Pháp. Trong một bức thư mà Dayot viết từ Macao vào ngày 15 tháng 11 năm 1807, có lẽ không lâu sau khi Sainte-Croix rời thành phố, người ta có thể đọc được những dòng thú vị sau:

"Tài năng khiêm tốn của tôi không cho phép tôi mơ đến danh hiệu cộng tác viên của một hội đoàn uyên bác như vậy (Viện Hàn lâm), nhưng nếu tôi đủ may mắn để người ta chấp nhận món quà là kết quả lao động của mình, tôi có thể gửi những quan sát thú vị về các chủ đề mà vùng đất hầu như chưa được biết đến này cung cấp, và chúng sẽ luôn hấp dẫn bởi nội dung của chúng, dù không thể hấp dẫn bởi kiến thức hạn hẹp của tôi. Dù sao đi nữa, thưa bạn thân mến Sainte-Croix, tôi hoàn toàn tin tưởng trước sự chăm sóc mà bạn sẽ dành cho tôi; sự chăm sóc ấy sẽ chu đáo và tinh tế. Tôi giao phó cho bạn thành quả của sáu năm làm việc vất vả; bất cứ điều gì bạn làm sẽ đều tốt đẹp. Và nếu hoàn cảnh ngăn cản tình bạn của bạn thúc đẩy bạn làm điều gì đó vì tôi, cũng như mong muốn của tôi đóng góp cho đất nước mình, thì không gì có thể làm giảm lòng biết ơn của tôi hay làm phai nhạt tình cảm mà tôi dành cho bạn suốt đời." [Thư được công bố dựa trên bản gốc có chữ ký từ Kho Lưu trữ Hải quân và Thuộc địa, do H. Cordier xuất bản trong Pháp và Anh ở Đông Dương, T'oung-pao, 1903, trang 221]

[Xem tại cùng nguồn, trang 222 và các trang tiếp theo, bức thư mà Bộ trưởng Ngoại giao báo cáo với Hoàng đế về chuyến thăm của Sainte-Croix; trong đó sẽ tìm thấy một số chi tiết và đánh giá về công việc của Dayot]

Sainte-Croix đã trung thành chuyển giao tài liệu mà ông được ủy thác. Năm 1820, chính phủ quyết định tặng Dayot một vòng đo thiên văn; nhưng phần thưởng này đến quá muộn, vì Dayot đã qua đời từ năm 1809. Ông cũng không có cơ hội nhìn thấy các bản đồ của mình được xuất bản bởi Cơ quan Lưu trữ Hải quân vào năm 1818, hay biết được lời đánh giá cao của Abel Rémusat:

"… Người ta cũng biết rằng nhiều cá nhân khác thuộc quốc gia chúng ta đã nắm giữ những chức vụ quan trọng tại triều đình các vua Xiêm La và Nam Hà, và chính nhờ một trong số đó, cố ông Dayot, mà chúng ta có bộ atlas tuyệt đẹp về Nam Kỳ được khắc in theo lệnh của nhà vua vào năm 1818, và không nghi ngờ gì đây là một trong những công trình đẹp nhất dành cho khoa học địa lý ở những vùng đất xa xôi khỏi châu Âu... Bờ biển của Nam Hà hiện nay được biết đến rõ ràng và có lẽ còn chi tiết hơn cả một số bờ biển của châu Âu, kể từ khi công trình tuyệt vời của ông Dayot được xuất bản."
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,421
Động cơ
708,072 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
1741054623615.png

Bản đồ Sài Gòn năm 1795 với thành Bát Quái ở chính giữa do Jean-Marie Dayot vẽ
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top