[Funland] Dịch sách Lịch sử: Kể chuyện Nguyễn Ánh-Tây Sơn [1790-1806] của giáo sĩ de La Bissachère.

leenamtuankorea

Xe điện
Biển số
OF-206686
Ngày cấp bằng
19/8/13
Số km
2,588
Động cơ
347,395 Mã lực
Đọc đoạn hành xử tù binh nhà Tây Sơn mà thấy thật ghê sợ. Chiến tranh, bên thắng cuộc và bên thua cuộc. Loài người trải qua bao đau thương, tàn khốc. Lịch sử hiện đại ở đâu đó vẫn có sự tàn khốc như vậy. Thật không may cho những số phận phải trải hứng chịu sự tàn khốc như vậy trong lịch sử. Sinh ra ai cũng là một kiếp người mà không được sống trọn!
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,404
Động cơ
707,751 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Phụ nữ Bắc Hà có trang sức và đồ trang sức bằng vàng, [171/179] quần áo lụa và vải đẹp, nhưng kiểu dáng hoàn toàn khác với trang phục ở châu Âu. Thay vì cảm lạnh do cởi bỏ quần áo như những phụ nữ nơi khác theo thời trang thường làm, họ lại đổ mồ hôi vì mặc quá nhiều lớp quần áo đẹp vào những ngày lễ hội. Nhiều người trong số họ có làn da trắng như phụ nữ châu Âu, nhưng họ không dùng son phấn; chỉ có các diễn viên nam và nữ mới dám trang điểm [MN. đã sao chép thông tin này, nhưng như thường lệ, ông mở rộng thêm; đoạn văn khá thú vị: "Theo vị trí gần xích đạo, dường như Bắc Hà và các vùng lân cận phải là nơi cư ngụ của những người da đen hoặc ít nhất là có màu da sẫm; nhưng sự làm mát và độ ẩm của khí quyển do mưa và lũ lụt đã bảo vệ con người khỏi tác động bỏng rát của mặt trời, yếu tố được cho là nguyên nhân khiến da trở nên đen. Sắc thái đặc trưng của người Bắc Hà là màu ô liu hơi ngả nâu, còn người Nam Hà có làn da màu nâu đậm hơn. Ở cả hai miền, phụ nữ và nam giới ít tiếp xúc với ánh nắng gay gắt do nghề nghiệp của họ thì có làn da gần với sắc trắng của người châu Âu."]. Người ta thường gặp một số phụ nữ có trí tuệ, và tất cả đều có cách cư xử tự nhiên hơn so với phần lớn phụ nữ châu Âu ăn mặc sang trọng, những người sợ làm hỏng trang phục của mình khi di chuyển một cách thoải mái và tự nhiên. [180] Giác quan thị giác ở Bắc Hà rất dễ bị tổn thương do khí hậu nóng bức, kiểu dáng quần áo dành cho lao động, và thói quen tắm rửa ngay tại nơi họ đang ở. Nhưng vì đã quen với điều này từ thuở nhỏ, người ta tiếp tục cuộc sống mà không để tâm đến. Ngược lại, người ta cực kỳ nghiêm khắc về xúc giác; trừ khi là vợ chồng, những người khác giới tuyệt đối không bao giờ chạm vào nhau, thậm chí không nắm tay. Nếu ai đó làm vậy, họ sẽ mất danh dự. Nói chung, người dân ở đây ít nhất cũng giữ gìn đức hạnh như ở châu Âu, và những người theo đạo Thiên Chúa còn nghiêm khắc hơn trong vấn đề này. [S. C. (trang 277, 278) đã đưa ra nhiều thay đổi hơn thường lệ ở đây: "Số lượng trang phục ít ỏi mà phụ nữ Bắc Hà mặc khi họ đi làm việc ngoài đồng, điều mà khí hậu nóng bức cho phép, thường khiến người châu Âu phải đối mặt với những cám dỗ mà lẽ ra sẽ không xảy ra nếu phụ nữ không có thói quen tắm rửa ở bất kỳ nơi nào họ đang ở. Người ta nghiêm khắc hơn về xúc giác... v.v." MN. (II, trang 44-48), dựa trên chủ đề từ L. B., đã viết một bài luận dài về sự đứng đắn ở Bắc Hà, nói rằng "phụ nữ không quá chú trọng đến việc tránh né ánh nhìn của đàn ông; sự ôn hòa của khí hậu khiến họ để lộ một phần cơ thể; và đối với những gì được che phủ, độ mỏng manh của trang phục làm nổi bật hình dáng cơ thể..." ; "nhưng trong khi thị giác được cho phép tự do lớn như vậy, mọi thứ đều bị từ chối đối với xúc giác..." ; "dù có sự kiềm chế này, sự tự do giao tiếp giữa hai giới đôi khi dẫn đến một số thú vui bất chính"; tiếp theo là một trang viết về mại dâm; sau đó, "ở sâu trong đất liền, đức hạnh trinh tiết được tuân thủ nghiêm ngặt hơn so với ở Bắc Hà"; "việc vi phạm các quy luật tự nhiên và những sai lạc đáng hổ thẹn của tình yêu... là điều chưa từng thấy ở đất nước này." Đoạn văn kết thúc bằng một vài dòng về "những quái nhân, những kẻ bị tước mất giới tính, không có sự duyên dáng của giới tính mà họ không thuộc về, cũng không có sức mạnh của giới tính mà tự nhiên ban tặng, nhưng lại tập hợp cả những thói xấu của cả hai giới"; MN. nhận xét rằng đất nước đang dần loại bỏ hiện tượng này; trước thời hoàng đế hiện tại, triều đình đầy rẫy những người như vậy, nhưng bây giờ hoàng hậu và các phi tần khác được phục vụ bởi những người cùng giới tính với họ.]
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,404
Động cơ
707,751 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
[178/752] Những tội phạm thuộc tầng lớp bình dân sẽ bị chặt đầu, còn phụ nữ bị ném lên không trung bởi voi và rơi xuống đúng vào ngà voi; đối với những tội nhân có địa vị cao hoặc thuộc hoàng tộc, người ta sẽ gửi vào tù một mảnh lụa cùng phương tiện để họ tự thắt cổ, sau đó họ được chôn cất một cách danh dự. [Hãy so sánh S. C., trang 289, nơi kết thúc chương về ngôn ngữ và nghệ thuật của Bắc Hà bằng đoạn này, với MN., I, trang 288, 289, nơi đoạn văn được mở rộng thành một trang và kết thúc bằng câu bất ngờ sau: "Nghề đao phủ không phải là nghề ô nhục; ở Bắc Hà, nó được thực hiện bởi một gia đình người Nam Hà, trong đó nghề này đã được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong nhiều thế kỷ."]
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,404
Động cơ
707,751 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ở Bắc Hà không có cảng nào an toàn cho tàu thuyền kiểu châu Âu, nhưng giữa các dãy núi có những nơi trú ẩn che chắn ba phía. Tuy nhiên, đúng là đôi khi phải chờ đợi gió lâu để có thể rời đi. Các tàu buôn Trung Quốc có thể đi vào nhiều con sông [182] và tiến sâu đến tận thành phố hoàng gia (a). [(a) Xem Hướng dẫn về Nam Hà của M. d'Ayot (R.). Tham khảo phần giới thiệu của chúng tôi (trang 30-33); trong đó có đề cập đến các công trình của Dayot.]

Luật pháp cấm xa xỉ trong xây dựng nhà cửa và trang phục; mỗi người phải sống phù hợp với địa vị và phẩm hàm của mình. Nếu ai đó vượt quá mức chi tiêu cho phép, quan lại sẽ không ngần ngại tịch thu phần dư thừa đó. Thậm chí có hai tỉnh – quê hương của các vị vua và nơi sản sinh ra dòng họ trị vì – nơi mà việc lợp mái ngói trên nhà bị cấm, ngoại trừ những ngôi nhà dùng để tế tổ tiên của nhà vua. Trang phục của người giàu có cùng kiểu dáng với người nghèo. Trong các cuộc họp làng, họ ngồi theo thứ tự tuổi tác, trừ khi ai đó đã có công lớn đối với làng [183], hoặc đã đóng góp đáng kể, thì sẽ được trao quyền bằng văn bản, được tất cả cư dân ký tên, để ngồi ở hàng đầu và phát biểu trước tiên. [đoạn này hầu như được sao chép nguyên văn trong chương Phong tục và Tập quán của S. C., trang 278. MN. mở rộng thêm, II, trang 49, về phần hạn chế sự xa xỉ và từ đó đưa ra một số nhận định chung: Dân tộc này "sẽ có khuynh hướng mạnh mẽ đối với sự xa xỉ nếu không bị kiềm chế bởi các luật lệ hạn chế, quy định mức độ huy hoàng được phép trong trang phục, đồ đạc, nhà cửa, và điều chỉnh chúng theo địa vị xã hội; một thể chế có thể bị phê phán vì nó hạn chế những thú vui, tước đi của lao động và công nghiệp một động lực cần thiết và một sự kích thích để thúc đẩy hoạt động của họ; nhưng, mặt khác, đây là một thể chế phù hợp để giới hạn những thú vui giả tạo... v.v."]
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,404
Động cơ
707,751 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ở Bắc Hà, các ngành nghệ thuật không được khuyến khích mà trái lại bị cấm đoán một cách ngầm định. Nếu ai đó tỏ ra xuất sắc trong nghề nghiệp của mình, người đó sẽ bị buộc phải đến làm việc cho triều đình miễn phí. Nếu ai đó sở hữu một cây quý hiếm, người đó sẽ bị ép buộc phải nhốt cây vào một chiếc hòm lớn và mang đến dâng vua hoặc quan tổng đốc tỉnh; nếu không đủ khả năng chi trả chi phí vận chuyển, làng của họ sẽ phải hỗ trợ. Điều tương tự cũng xảy ra với bất kỳ thứ gì quý giá [184] hoặc độc đáo mà người ta sở hữu. Người ta đã tìm ra bí quyết sản xuất đồ sứ giống như ở Trung Quốc, nhưng gia đình phát minh ra phương pháp này buộc phải lưu vong vì không thể chịu nổi việc cung cấp miễn phí tất cả những gì vua và các quan lại yêu cầu mà không phá sản. [Xem đoạn này được sao chép trong S. C. (trang 287, 288) với những thay đổi về hình thức thường thấy. MN. không bỏ qua việc ghi nhận thông tin thú vị này (I, trang 175); ông đề cập đến "sự quản lý chính quyền vừa vô lý vừa chuyên chế, khi một thợ thủ công xuất sắc trong nghề của mình, chính quyền liền trưng dụng và bắt buộc người đó phải làm việc miễn phí trong một khoảng thời gian để phục vụ cho hoàng đế, cho quan tổng đốc tỉnh, hoặc thậm chí cho một số quan lại." Tiếp theo là giai thoại về đồ sứ; nhưng MN. nói rằng đó là những người Trung Quốc, sau khi hành nghề tại Bắc Hà, đã bị áp đặt quá nhiều yêu sách đến mức họ buộc phải trở về quê hương.]
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,404
Động cơ
707,751 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Chính quyền mới của [Nguyễn Ánh làm cho] đất nước tự nhiên yếu kém và rất nhút nhát, thiếu niềm tin vào tình cảm của nhân dân, dù chính họ đang áp bức và làm suy kiệt dân chúng. Vì vậy, chính sách của họ hướng đến việc giữ cho người dân trong cảnh nghèo đói và che giấu các nguồn tài nguyên quý giá và sản vật của đất nước, vì lo sợ rằng các thế lực khác có thể tìm cách chiếm đoạt. Tôi [179/186] nghĩ rằng các đồng bằng của đất nước này là những vùng đất màu mỡ nhất thế giới, và các mỏ trong khu vực có lẽ giàu có không kém gì những mỏ ở Peru. Trà ở đây rất phổ biến, mọi người đều uống, nhưng không biết chế biến như ở Trung Quốc. Ngoài ra, còn có rất nhiều bông, tơ lụa và chàm.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,404
Động cơ
707,751 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Theo sự phân chia mới về các khu vực quản lý, Bắc Hà có 12 tỉnh [nửa đầu của đoạn này tạo thành phần mở đầu của chương VIII trong S. C. (trang 259), và nửa sau được tìm thấy ở chương XI (trang 280). So sánh với MN. (I, trang 72), tác giả chỉ công nhận 10 tỉnh, nhưng giống như L. B., ông cũng chỉ ra rằng tỉnh Xu-nam (Xứ Nam) là tỉnh đông dân nhất. Tuy nhiên, tại trang 262, ông thừa nhận có 12 tỉnh], nhưng có một tỉnh đông dân cư hầu như bằng tất cả các tỉnh còn lại gộp lại, ít nhất là đông hơn nhiều so với một nửa tổng số các tỉnh khác. Tỉnh này được gọi là Xu-nam, chính nơi đây đã đặt tên cho vương quốc là An Nam. Mọi thứ ở đây đều rẻ [187], người ta có thể mua một gánh trái cây chỉ với vài đồng xu, và với giá trị 10 đồng piastre, có thể dễ dàng nuôi sống và trả lương cho một người hầu trong một năm. Chi phí hàng năm cho việc ăn uống và quần áo của các chủng sinh Bắc Hà chúng tôi cũng không vượt quá con số đó, tuy ít ỏi nhưng vẫn cần phải có, và chúng tôi thì chẳng còn gì hoặc gần như chẳng còn gì.

[Xứ Nam, hay còn gọi là Trấn Sơn Nam là một địa danh cũ chỉ vùng đất phía nam Thăng Long từ thời nhà Lê sơ đến đầu thời nhà Nguyễn. Dưới thời vua Lê Thánh Tông, bản đồ Việt Nam có 13 xứ (sau từ triều Tây Sơn đổi sang gọi là trấn). Đến đây, các vùng đất quanh Hà Nội trở thành tứ trấn gồm: vùng núi phía tây được gọi là trấn Sơn Tây (hay xứ Đoài), vùng núi phía nam Hà Nội được gọi là trấn Sơn Nam, vùng ven biển phía đông được gọi là trấn Hải Đông (hay xứ Đông), vùng phía bắc Hà Nội được gọi là trấn Kinh Bắc. Năm Quang Thuận thứ 10 (1469), thời vua Lê Thánh Tông, lần đầu tiên có bản đồ Đại Việt, thừa tuyên Thiên Trường được đổi tên là thừa tuyên Sơn Nam rồi thành trấn Sơn Nam. Thủ phủ đầu tiên của trấn Sơn Nam được đóng tại Vân Sàng (Ninh Bình) lúc đó làm phên dậu che chắn cho quê hương Lam Sơn nhà Lê. Khoảng thế kỷ XVII thì thủ phủ Sơn Nam chuyển đến Phố Hiến (Hưng Yên) và đến thời Tây Sơn thì thủ phủ Sơn Nam được chuyển về Vị Hoàng (Nam Định).

Trấn Sơn Nam bao gồm 11 phủ, trong đó tất cả có 42 huyện:

Phủ Thường Tín (nay thuộc Hà Nội) quản lĩnh 3 huyện: Thanh Đàm (Thanh Trì), Thường Tín và Phú Xuyên.

Phủ Ứng Thiên (nay thuộc Hà Nội) quản lĩnh 4 huyện: Thanh Oai, Chương Đức, Sơn Minh và Hoài An.

Phủ Lý Nhân (nay là tỉnh Hà Nam) quản lĩnh 5 huyện: Nam Xang, Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm và Bình Lục.

Phủ Khoái Châu (nay thuộc Hưng Yên) quản lĩnh 5 huyện: Đông An, Kim Động, Tiên Lữ, Thiên Thi và Phù Dung.

Phủ Thiên Trường (nay thuộc tỉnh Nam Định) quản lĩnh 4 huyện: Nam Chân, Giao Thủy, Mỹ Lộc và Thượng Nguyên.

Phủ Nghĩa Hưng (nay thuộc tỉnh Nam Định) quản lĩnh 4 huyện: Đại An, Vọng Doanh, Thiên Bản và Ý Yên.

Phủ Thái Bình (nay thuộc tỉnh Thái Bình) quản lĩnh 4 huyện: Thụy Anh, Phụ Dực, Quỳnh Côi và Đông Quan.

Phủ Tân Hưng (nay thuộc tỉnh Thái Bình) quản lĩnh 4 huyện: Ngự Thiên, Duyên Hà, Thần Khê và Thanh Lan.

Phủ Kiến Xương (nay thuộc tỉnh Thái Bình) quản lĩnh 3 huyện: Thư Trì, Vũ Tiên và Chân Định.

Phủ Trường An (nay thuộc tỉnh Ninh Bình) quản lĩnh 3 huyện: Gia Viễn, Yên Mô và Yên Khang.

Phủ Thiên Quan quản lĩnh 3 huyện: Phụng Hóa (nay thuộc tỉnh Ninh Bình), An Hóa và Lạc Thổ (nay thuộc tỉnh Hòa Bình).

Năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741), nhà Hậu Lê chia trấn Sơn Nam làm ba lộ: Sơn Nam thượng, Sơn Nam hạ và Thanh Hoa ngoại (gồm hai phủ là: Thiên Quan, Trường Yên, thuộc trấn Sơn Nam cũ, sau này là phần đất thuộc tỉnh Ninh Bình).

Thời Tây Sơn, đổi lộ thành trấn, xứ Sơn Nam được chia ra Sơn Nam hạ, Sơn Nam thượng.

Đến đầu triều nhà Nguyễn cơ bản đất Sơn Nam cũ gồm:

Địa bàn các tỉnh Hưng Yên, Hà Nam (phủ Lý Nhân thời xưa) và phần lớn các huyện phía nam Hà Nội (các phủ Thường Tín, phủ Ứng Thiên thời xưa) ngày nay thuộc Sơn Nam Thượng.

Địa bàn các tỉnh Nam Định, Thái Bình, và một phần tỉnh Ninh Bình ngày nay (các huyện mới khai khẩn ven biển như: Kim Sơn...) thuộc Sơn Nam Hạ.

Ranh giới giữa Sơn Nam Tạ và Sơn Nam Thượng là con sông Luộc (bên tả ngạn sông Hồng), và có lẽ là sông Lý Nhân (bên hữu ngạn sông Hồng).

Đến thời Minh Mạng, với việc thành lập các tỉnh Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình trên phần đất của trấn Sơn Nam thượng và trấn Nam Định (trước đó là trấn Sơn Nam hạ) thì tên gọi địa danh Sơn Nam hoàn toàn biến mất
].
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,404
Động cơ
707,751 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
1741058722053.png

Vị trí xứ Sơn Nam (màu xanh đậm) trong tứ trấn Thăng Long
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,404
Động cơ
707,751 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trong mỗi tỉnh có một Thống đốc quân sự [thời Tây Sơn gọi là Trấn thủ], người giữ con dấu, và một quan lại văn chương chịu trách nhiệm ký các văn bản [gọi là Hiệp trấn]; con dấu mà không có chữ ký hoặc chữ ký mà không có con dấu thì công việc chỉ tạm dừng, nhưng phải có sự kết hợp của cả hai. Tuy nhiên, quan lại văn chương luôn có ảnh hưởng lớn nhất và là người nhận được nhiều quà cáp bí mật nhất.

[180 / 188] Người Bắc Hà vốn có tài hùng biện và nói năng lưu loát, khả năng diễn đạt dễ dàng hầu như là phương tiện duy nhất để thăng tiến, nổi bật và tránh khỏi vô số lao dịch. Hơn nữa, trong mọi vụ kiện tụng, người ta phải tự mình trả lời và các người biện hộ thuê chỉ có thể đưa ra lời khuyên bí mật; nếu không thể trình bày rõ ràng và lịch sự trước mặt các quan lại, thông thường sẽ bị đánh đòn bằng roi mây và thua kiện. Vì vậy, ngay từ thuở nhỏ, người ta đã luyện tập cách nói năng để sau này có thể phát biểu trước công chúng mà không run sợ.
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,404
Động cơ
707,751 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Không khí tỏa ra từ xác chết ở đất nước này có những tác động [189] rất kỳ lạ đến mức khó tin. Đôi khi, nó làm khô héo ngay lập tức tất cả các cây bồ đề trong một khu vườn gần nơi có xác chết được đưa qua; nó cũng có thể khiến một số người bị mất thị lực đột ngột nếu họ bị ảnh hưởng theo một cách nhất định. Vì lẽ đó, chính quyền đã buộc phải đưa ra một quy định quan trọng về an ninh công cộng liên quan đến các biện pháp phòng ngừa cần thiết về vấn đề này. [Hãy so sánh MN., I, trang 35. "Có khả năng, ông ấy thêm, và thậm chí rất có thể, rằng trong những ghi chép này có sự phóng đại; nhưng, ít nhất, dường như chắc chắn rằng ảnh hưởng của các khí thải độc hại — điều có thể quan sát được ở mọi quốc gia — tại đất nước này lại mạnh mẽ và nghiêm trọng hơn. Ảnh hưởng này tác động rõ rệt lên kim loại, và người ta buộc phải mài sắc các dụng cụ bằng sắt và thép hầu như mỗi lần sau khi sử dụng."]
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,404
Động cơ
707,751 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cá cùng với gạo là nền tảng của chế độ ăn uống cho đại đa số dân Bắc Hà; có lẽ không có dân tộc nào trên thế giới hiểu rõ hơn về bản năng và đặc tính của cá [190], cũng như cách tận dụng chúng làm thực phẩm; họ đánh bắt cá bằng vô số phương pháp khác nhau với sự khéo léo tuyệt vời, dù trong mùa cá sinh sản (sic) hay vào những thời điểm khác, đến nỗi nếu ai muốn bỏ công sức, có thể viết một cuốn sách rất thú vị về chủ đề này. Những người đánh cá ép một số loài cá cụ thể phải chui vào lưới của mình bằng cách nhảy múa nguy hiểm, đôi khi vào ban ngày, đôi khi vào ban đêm, hoặc ở những nơi cá bị mắc cạn và có thể bắt mà không cần đuổi theo. Có những người khác, bằng cách tạo ra tiếng ồn khủng khiếp trên thuyền của mình, làm cá sợ hãi đến mức [191] chúng nhảy lên khỏi mặt nước, vượt qua thuyền. Một số khác lại đi dọc theo các con sông nhỏ vào lúc hoàng hôn với một chiếc thuyền dài, trên đó gắn một tấm ván phủ vôi, đặt giữa hai tầng nước. Những con cá, khi thủy triều lên, đến ăn cỏ và những gì chúng gặp trên bờ, nhìn thấy tấm ván này khiến chúng hoảng sợ và nhảy qua. Khi đó, một tấm lưới cao được căng phía bên kia tấm ván sẽ hứng chúng và đẩy chúng trở lại thuyền, chiếc thuyền nhanh chóng đầy ắp. [Đối với đoạn này và đoạn trước đó, hãy so sánh S. C., trang 283, 284. Cũng xem MN. (I, trang 149), chủ yếu về các phương pháp đánh cá; ông ấy đề cập đến một số phương pháp mà L. B. đã bỏ sót không nhắc đến, chẳng hạn như việc câu cá bằng cách đi trên cà kheo, khi đó những người đánh cá bắt cá bằng tay; tuy nhiên, "cách đánh cá này rất nguy hiểm, vì nếu sự gồ ghề của đáy nước làm ngã người đánh cá, thì cà kheo sẽ ngăn anh ta đứng dậy và anh ta có thể bị chết đuối." Ông cũng cho biết thêm (trang 151) rằng "cá tuyết và cá mòi là hai loại cá có sản lượng đánh bắt dồi dào nhất và mức tiêu thụ lớn nhất."]
 

doctor76

Xe ngựa
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
26,404
Động cơ
707,751 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trang phục lễ nghi của người Bắc Hà rất trang nghiêm và uy nghiêm, trông giống hệt như áo dòng của các tu sĩ Bénédictin. [182/752] Trang phục này, kết hợp với một chiếc mũ cao lớn, rất hợp với họ; khi họ tụ họp để tham gia vào một nghi lễ tôn giáo công cộng hoặc để đón tiếp các nhân vật quan trọng, người ta có thể nhầm họ với Thượng viện La Mã cổ đại. Nhưng khi trở về nhà, họ cởi bỏ bộ áo dài đen cùng chiếc mũ ra và hầu như để trần để tiện làm việc; họ chỉ buộc một sợi dây quanh eo và gắn vào đó một mảnh vải để che phủ đúng phần mà sự khiêm tốn không cho phép để lộ.[
[Sang thời Minh Mạng, nhà Nguyễn cấm toàn bộ người Bắc Hà mặc trang phục thời Lê này mà thay vào đó là áo Ngũ Thân, Khăn Xếp, chỉ được mặc đồ đen, nhìn cả nước giống như hề (giống như nhà Thanh buộc người Hán phải cạo nửa đầu); bao nhiêu trang phục và các kiểu mũ đẹp đẽ thời Lê mất sạch]
 

BMW X11

Xe điện
Biển số
OF-833968
Ngày cấp bằng
17/5/23
Số km
3,514
Động cơ
706,141 Mã lực
Tuổi
23
Thớt nhà Tây Sơn của em đã dài, biên thêm sợ loãng, hơn nữa đây là nội dung một cuốn sách dịch, nên có lẽ em trung-thành với nguyên tác là lập một thớt riêng.
Cuốn này em dịch đã rất lâu, từ 2015, đúng vào dịp mở thớt, đến nay đã tròn 10 năm, qua mấy lần chỉnh sửa bổ sung, có lúc cũng quên mất, nay quyết định post hầu các cụ yêu Lịch sử.
Cuốn này thực ra là rất khó dịch, vì nội dung rắc rối, phải gọi đúng là rối rắm, khi mà cùng một nội dung, người biên tập là nhà sử học Pháp Charles Maybon lại lồng ghép 4. 5 tác giả cùng lúc để bổ sung cho văn bản chính, các văn bản lại được kỳ công đánh số; ví dụ [18/22] nghĩa là số văn bản gốc còn lưu và số văn bản tham chiếu của tác giả cùng thời; [15] là số trang văn bản gốc lưu trữ tại thư viện Hội thừa sai Paris, hoặc kho lưu trữ Bộ Ngoại giao Pháp; các chú thích (a) (b) làm rõ nghĩa, rồi chú thích của C.Maybon...tất cả đòi hỏi quá trình biên dịch rất mất thời gian, và em quyết định giữ nguyên tác.
Nguyên tên sách là: LA RELATION SUR LE TONKIN ET LA COCHINCHINE, tuy nhiên, căn cứ vào nội dung chính, em đặt tên sách là: Kể chuyện Nguyễn Ánh-Tây Sơn [1790-1806] cho hợp với ý chính hơn.
Thông tin trong sách, như em đã trình bầy, chỉ là tham khảo, để nhìn nhận Lịch sử giai đoạn phức tạp nầy ở một lăng kính, một góc nhìn khác, đúng sai các cụ tự có quan điểm và đúc rút vậy.
Cuối cùng, do trình độ tiếng Pháp cực kỳ dốt nát, kiến thức vô cùng nông cạn, văn phong quê mùa, đâu dám khoe khoang, mong các cụ lượng thứ và góp ý.
Sau khi thớt post xong, cụ nào có nhã ý xin sách giấy, em sẽ tặng bản scan.
Phiền bác cho tôi xin 1 bản scanned version ạ.
Trân trọng cảm ơn bác!!!
 

Phongcach

Xe buýt
Biển số
OF-203071
Ngày cấp bằng
22/7/13
Số km
573
Động cơ
132,472 Mã lực
cụ cho cái link tải file PDF ạ
 

nhatthang

Xe tăng
Biển số
OF-89510
Ngày cấp bằng
23/3/11
Số km
1,882
Động cơ
746,493 Mã lực
Thớt nhà Tây Sơn của em đã dài, biên thêm sợ loãng, hơn nữa đây là nội dung một cuốn sách dịch, nên có lẽ em trung-thành với nguyên tác là lập một thớt riêng.
Cuốn này em dịch đã rất lâu, từ 2015, đúng vào dịp mở thớt, đến nay đã tròn 10 năm, qua mấy lần chỉnh sửa bổ sung, có lúc cũng quên mất, nay quyết định post hầu các cụ yêu Lịch sử.
Cuốn này thực ra là rất khó dịch, vì nội dung rắc rối, phải gọi đúng là rối rắm, khi mà cùng một nội dung, người biên tập là nhà sử học Pháp Charles Maybon lại lồng ghép 4. 5 tác giả cùng lúc để bổ sung cho văn bản chính, các văn bản lại được kỳ công đánh số; ví dụ [18/22] nghĩa là số văn bản gốc còn lưu và số văn bản tham chiếu của tác giả cùng thời; [15] là số trang văn bản gốc lưu trữ tại thư viện Hội thừa sai Paris, hoặc kho lưu trữ Bộ Ngoại giao Pháp; các chú thích (a) (b) làm rõ nghĩa, rồi chú thích của C.Maybon...tất cả đòi hỏi quá trình biên dịch rất mất thời gian, và em quyết định giữ nguyên tác.
Nguyên tên sách là: LA RELATION SUR LE TONKIN ET LA COCHINCHINE, tuy nhiên, căn cứ vào nội dung chính, em đặt tên sách là: Kể chuyện Nguyễn Ánh-Tây Sơn [1790-1806] cho hợp với ý chính hơn.
Thông tin trong sách, như em đã trình bầy, chỉ là tham khảo, để nhìn nhận Lịch sử giai đoạn phức tạp nầy ở một lăng kính, một góc nhìn khác, đúng sai các cụ tự có quan điểm và đúc rút vậy.
Cuối cùng, do trình độ tiếng Pháp cực kỳ dốt nát, kiến thức vô cùng nông cạn, văn phong quê mùa, đâu dám khoe khoang, mong các cụ lượng thứ và góp ý.
Sau khi thớt post xong, cụ nào có nhã ý xin sách giấy, em sẽ tặng bản scan.
Cụ cho hỏi: có thể mua sách ở đâu (em thích đọc sách giấy)? Nếu sách đã không còn bán nữa thì cụ cho em xin 1 bản scan vậy!
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top