[Funland] Dịch sách cổ thời Tây Tấn: Nam Phương thảo mộc trạng

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,772
Động cơ
696,719 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Quả Câu Duyên 鉤緣子 [Chưa rõ quả gì?]

Có hình dáng giống vỏ quả dưa, trông như quả Cam nhưng có màu vàng. Người Hồ vô cùng quý trọng loại quả này vì hương thơm nồng nàn, thịt quả dày, trắng như củ cải trắng. Các nữ công lại thi nhau chạm khắc hoa lá, chim chóc lên quả, ngâm chúng trong mật ong, điểm thêm bột trầm hương, tạo nên những tác phẩm tinh xảo tuyệt đẹp, không gì sánh bằng. Năm Thái Khang thứ năm, Đại Tần tiến cống 10 vò quả này, nhà vua [Tấn Vũ Đế] ban thưởng 3 vò cho Vương Khải 王để tăng thêm phần quý giá cho bộ sưu tập đồ ăn của ông, nhằm khoe khoang với Thạch Sùng 石崇.

[Vương Khải 王, tự Quân Phu, người huyện Đàm, quận Đông Hải, quan viên, ngoại thích đời Tây Tấn. Ông từng thi giàu với Thạch Sùng và chịu thất bại. Ông nội là Tư đồ Vương Lãng nhà Tào Ngụy. Cha là Lan Lăng Cảnh hầu Vương Túc – bậc đại nho cuối đời Tào Ngụy. Khải là con trai thứ tư của Vương Túc và là em trai của Vương Nguyên Cơ – chính thất của quyền thần Tư Mã Chiêu, mẹ của Tấn Vũ đế Tư Mã Viêm, được truy tôn Văn Minh hoàng hậu. Khải sinh ra trong một gia đình vừa là thế tộc, vừa là ngoại thích, lại thêm có tính xa xỉ, đến mức dùng đá đỏ trát tường. Khải với Thạch Sùng nuôi chim Chậm, bị Tư lệ hiệu úy Phó Chi đàn hặc, quan viên hữu tư đều bàn rằng họ phạm trọng tội, nhưng Tấn Huệ đế giáng chiếu đặc cách tha bổng cho cả hai người. Do vậy mọi người càng kiêng dè Khải, còn ông lại càng buông thả, muốn gì làm nấy.

Khải và Sùng thi giàu, Khải lấy mạch nha và cơm khô để rửa nồi, Thạch Sùng dùng nến thay củi. Khải lấy vải dệt bằng tơ màu tím làm màn trướng giăng dài 40 dặm, Sùng lấy gấm làm màn trướng giăng dài 50 dặm để đáp lại. Sùng lấy tiêu trát vách, Khải lấy đá đỏ trát tường.

Hai người đem hết những thứ đẹp đẽ ra so sánh. Tấn Vũ đế là cháu gọi Khải bằng cậu, lấy 1 cây san hô cao 2 thước ban cho ông. Khải thấy cành lá sum suê, thế gian hiếm có, đem khoe với Sùng. Thạch Sùng liền lấy cây gậy ngọc Như Ý đập cây san hô ấy vỡ tan. Vương Khải cả giận nói:

- Túc hạ không có của quý như thế mà đem thi, nên mới đập cây san hô của ta!

Thạch Sùng vội đáp:

- Xin ngài đừng vội giận, ta xin đền cây khác lớn hơn.

Nói rồi xin trở về nhà đem đến bốn cây san hô đều cao bốn thước, sáng rực, lấy một cây đền cho Vương Khải.

Các bạn hai bên đều xin hòa, ai trở về nhà nấy.

Khải có một con bò, đặt tên là Bát Bách Lý Bác, thường đính ngọc quý lên sừng và móng của nó. Vương Tế (con Vương Hồn) nói với Khải rằng:

- Tài bắn của tôi không bằng anh, bây giờ hãy lấy con bò của anh làm vật cược, đổi lấy 1.000 vạn tiền nhé!

Khải cậy tài bắn của mình, lại cho rằng Tế sẽ không giết bò, nên đồng ý. Khải nhường Tế bắn trước, Tế bắn một phát trúng ngay tâm bia, ngồi trên ghế dựa, quát tả hữu:

- Nhanh đem tim bò đến đây.

Chốc lát, tim bò được nướng chín, Tế ăn một miếng rồi bỏ đi.

Khi anh em Lưu Dư và Lưu Côn còn là thiếu niên, Khải ghét họ, từng gọi đến nhà, muốn lặng lẽ giết đi. Khải lệnh cho đào hố, xong rồi, sắp sửa ra tay. Thạch Sùng với anh em họ Lưu thân thiết, nghe tin thì vội đến nhà Khải, biết là có chuyện, ngay trong đêm hỏi Khải anh em họ Lưu ở đâu, Khải không giấu được, đành nói:

- Đang ngủ ở nhà sau.

Sùng bèn xông vào, cõng hai anh em họ Lưu ra ngoài, đặt lên xe rồi cùng đi. Sùng nói với họ rằng:

- Còn nhỏ, sao lại khinh suất ngủ ở nhà người như thế!?]

[Thạch Sùng (石崇; 249-300) là quan nhà Tây Tấn, nổi tiếng là nhân vật xa hoa giàu có đương thời.

Thạch Sùng tên chữ là Quý Luân, hiệu là Tề Nô, ở Thanh Châu đời Tây Tấn. Từ thuở nhỏ, ông có tư chất thông minh, nhiều mưu trí. Cha ông là Thạch Bào, lúc gần chết, chia gia tài cho các con thì Thạch Sùng được phần ít nhất. Bà vợ thấy vậy hỏi chồng:

- Tại sao không chia đều cho các con?

Thạch Bào đáp:

- Tuy bây giờ chia cho nó ít, nhưng ngày sau nó sẽ giàu hơn mấy đứa kia gấp bội!

Thạch Sùng lớn lên, nhờ tài năng nên năm 20 tuổi [268] được bổ làm quan lệnh ở Tu Vũ, rồi sau đổi ra làm Thái thú Dương Thành. Nhân vì có công bình định nước Đông Ngô nên ông được vua phong làm An Dương Hầu.Tấn Vũ Đế thấy Thạch Sùng có tài, cho làm Thứ sử Kinh Châu, kiêm chức hiệu uý Nam man. Lúc ở Kinh Châu, Thạch Sùng tư thông với giặc cướp, cướp của những người đi buôn, nên chẳng bao lâu, Thạch Sùng trở nên đại phú. Về sau, Thạch Sùng được thăng Thái Bộc và Vệ Úy.

Thạch Sùng cất một biệt thự rất tráng lệ ở Lũng Kim Cốc, thường hội họp bạn bè ở đây để ăn uống, chơi bời.

Càng ngày Thạch Sùng càng giàu có, xây cất lầu các nguy nga, giăng toàn gấm vóc, đồ trân quý nhiều không kể hết, tài sản to lớn, được xem là bậc nhất thiên hạ khi đó. Thời bấy giờ có quan Hậu tướng quân là Vương Khải, em của Văn Minh hoàng hậu, nhà cũng rất giàu có và ăn tiêu xa xỉ.

Một hôm, Vương Khải và Thạch Sùng cạnh tranh nhau về sự giàu có. Vương Khải nói:

- Nhà tôi lấy mật rửa chảo.

Thạch Sùng nói:

- Nhà tôi lấy nến bạch lạp làm củi.

Các quan nghe vậy liền bảo rằng:

- Lời nói không lấy gì làm bằng, muốn biết ai hơn kém thì phải lấy những thứ quý nhất đem ra, hễ ai nhiều thì được!

Vương Khải bèn lấy trướng lụa đem ra trải đường được 40 dặm. Thạch Sùng cũng đem trướng lụa ra trải, dài được 50 dặm. Vương Khải dùng phấn đá đỏ quét vôi nhà thì Thạch Sùng lại dùng hồ tiêu quét lên vách.

Các quan trong triều thấy Thạch Sùng đều hơn nên rất khen ngợi. Vua Tấn Vũ đế thấy Vương Khải kém thế nên tặng cho Vương Khải một cây san hô cao hai thước. Vương Khải liền đem cây san hô ra thi. Thạch Sùng liền lấy cây gậy ngọc Như Ý đập cây san hô ấy vỡ tan. Vương Khải cả giận nói:

- Túc hạ không có của quý như thế mà đem thi, nên mới đập cây san hô của ta!

Thạch Sùng vội đáp:

- Xin ngài đừng vội giận, ta xin đền cây khác lớn hơn.

Nói rồi xin trở về nhà đem đến bốn cây san hô đều cao bốn thước, sáng rực, lấy một cây đền cho Vương Khải.

Các bạn hai bên đều xin hòa, ai trở về nhà nấy.

Vua Tấn Vũ Đế chết, thái tử Trung lên nối ngôi, tức là Tấn Huệ Đế. Từ lâu, Huệ Đế nhu nhược, quyền hành về tay Tám vị Thân vương và Hoàng hậu Giả Nam Phong. Giả hậu mưu giết Dương Thái Hậu và các thân vương mà tranh quyền, gây ra Loạn bát vương.

Một hoàng thân là Triệu vương Tư Mã Luân, đem quân vào cung, bắt vua Huệ Đế phải bỏ Giả Hậu, rồi bắt Giả Hậu giết đi, bình được mối loạn Giả Hậu, nắm giữ binh quyền. Tư Mã Luân làm Tướng quốc, tin dùng một gia thần là Tôn Tú.

Tôn Tú nghe nói Thạch Sùng có nàng ái cơ tên là Lục Châu, nhan sắc xinh đẹp lạ thường, lại thêm cầm kỳ thi họa đều giỏi, múa hát rất hay, vẫn được Thạch Sùng yêu mến, để ở riêng trên lầu Kim Cốc. Tôn Tú lập tức sai sứ đến bắt. Khi sứ đến, Thạch Sùng ra tiếp. Sứ giả nói:

- Tôn thị trung (tức Tôn Tú) nghe nói ngài có nhiều người hầu đẹp, sai tôi đến đây muốn mượn ngài một người.

Thạch Sùng bèn gọi ra vài mươi người, cho sứ giả chọn, nhưng sứ giả nói:

- Mấy người này ăn mặc thì đẹp, nhưng quan thị trung bảo tôi phải tìm được nàng Lục Châu. Xin ngài đưa Lục Châu ra đây tôi rước về dâng cho Tướng quốc.

Thạch Sùng đáp:

- Không được, Lục Châu là ái cơ của ta, dẫu thế nào cũng không cho bắt được.

- Quân hầu am hiểu sự đời, sao không nhận rõ thời thế hiện nay, nếu cưỡng lại ắt có vạ to. Quân hầu nên nghĩ lại.

Thạch Sùng nhất định không nghe. Sứ phải trở về báo lại với Tôn Tú. Tôn Tú cả giận, muốn giết Thạch Sùng, lại nhân có thù cả với bạn đồng liêu của ông là Phan Nhạc, bèn vào bẩm với Tư Mã Luân:

- Thạch Sùng, Phan Nhạc có ý phản, ỷ thế giàu có âm mưu làm loạn, nếu bây giờ không trừ, sau hối không kịp.

Tư Mã Luân nói:

- Nếu thế thì cứ bắt nó giết đi.

Tôn Tú được lệnh, đem 200 quân đến vây nhà Thạch Sùng. Thạch Sùng đang ở trên lầu với nàng Lục Châu, thấy quân kéo đến, hô lệnh bắt. Thạch Sùng cả sợ nói:

- Tôi vì nàng mà bị tội, không rõ họ bắt tôi đem đi đâu?

Lục Châu khóc thưa rằng:

- Quân hầu đã vì thiếp mà phải tội thì thiếp cũng vì Quân hầu mà chết. Thiếp xin chết trước chớ mặt nào lại vào cửa khác để nhục đến Quân hầu.

Nói rồi nàng nhảy từ lầu cao xuống đất tự tử. Quân lính vào bắt Thạch Sùng đưa đi. Ông nói:

- Ta không có tội, chỉ vì chơi bời rộng rãi mà thôi

Khi quân lính giải đến pháp trường, Thạch Sùng mới biết mình bị xử tử, bèn khóc than rằng:

- Bọn người giết ta, chỉ vì tham gia tài của ta mà thôi!

Người áp giải nói:

- Đã biết tiền của hay làm họa cho người, sao không phát tán đi từ trước?

Bạn đồng liêu của ông là Phan Nhạc cũng bị giải đến, Thạch Sùng ngạc nhiên hỏi vì sao Nhạc cũng bị bắt tới, Phan Nhạc khóc, nhắc lại câu chuyện có lần đến chơi lầu Kim Cốc của ông, làm bài thơ có câu: “Đầu bạc cùng chỗ về”, nay thấy ứng nghiệm.

Thạch Sùng bị chém chết, gia sản bị tịch thu. Năm đó ông 52 tuổi]
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,772
Động cơ
696,719 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cây Hải Ngô Tử 海梧子 [Cây Trôm Quý]

Có hình dáng giống cây Ngô Đồng 梧桐, màu trắng, lá giống cây Thanh Đồng 青桐, có quả to bằng hạt dẻ, thịt quả béo ngậy, ăn được, có nguồn gốc từ Lâm Ấp.

[Cây Hải Ngô Tử 海梧子, tên gọi khác: Bình bà, 眼果 Phụng nhãn quả, 婆果 Bình bà quả, 七姐果 Thất tỉ quả, (tên khoa học: Sterculia nobilis), còn được gọi là một loài thực vật thuộc họ Ngô đồng 梧桐科 và thuộc chi Bình bà. Loại quả này chủ yếu được tìm thấy ở các khu vực phía nam Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, và đảo Sumatra của Indonesia]

1727231347999.png
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,772
Động cơ
696,719 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cây hải tùng 海松子

Giống như cây tùng ở Trung Quốc, nhưng quả của nó rất lớn, hình dạng giống như hạt dẻ nhỏ và có hình tam giác. Quả có vị béo, ngọt và hương thơm, là một loại quả ngon thường được dùng trong các bữa tiệc. Loại cây này xuất xứ từ Lâm Ấp.

[Cây hải tùng 海松子, còn gọi là Thông Triều Tiên (danh pháp hai phần: Pinus koraiensis) là một loài thông bản địa của khu vực Đông Á, từ Mãn Châu, viễn đông Nga, Triều Tiên tới miền trung Nhật Bản. Ở phía bắc của khu vực phân bố của nó, thông Triều Tiên có thể sinh sống tới các độ cao vừa phải, thông thường khoảng 600–900 m, trong khi xa hơn về phía nam thì nó là loài cây miền núi, sinh sống tại độ cao tới 2.000-2.600 m như ở Nhật Bản. Nó là cây thân gỗ lớn, cao tới 40–50 m, và đường kính thân cây tới 1,5–2 m. Thông Triều Tiên khác với họ hàng gần với nó (thông Siberi) ở chỗ có các nón lớn hơn với các phần đỉnh có vảy ngược và các lá kim dài hơn. Hạt thông Triều Tiên được thu hoạch và bán như là một loại hạt ăn được, khá phổ biến ở khu vực đông bắc Trung Quốc và nó là loại hạt thông được buôn bán rộng nhất trên thị trường quốc tế. Nó là thành viên của phân chi Strobus (nhóm thông trắng), và giống như các thành viên của nhóm này, các lá kim của nó mọc thành bó (chùm) gồm 5 kim, với lớp vỏ bao sớm rụng. Các lá kim dài khoảng 7–13 cm. Các nón của thông Triều Tiên dài khoảng 8–17 cm, màu xanh lục hay tía trước khi thuần thục, chuyển thành màu nâu vào khoảng 18 tháng sau khi thụ phấn. Các hạt dài 14–18 mm chỉ có cánh dạng vết tích và được phát tán nhờ chim bổ hạt đốm (Nucifraga caryocatactes)]

[Trong Bản thảo cương mục 本草纲目, quyển thứ 11 thuộc phần "Quả bộ" 果部, Lý Thời Trân đã miêu tả chi tiết về hải tùng tử 海松子. Dưới đây là nội dung cụ thể của mục này:

Tên gọi: Hải tùng tử, còn được gọi là "Tân La tùng tử" 新罗松子, xuất xứ từ Tân La (một vương quốc cổ đại nằm ở bán đảo Triều Tiên).

Tính vị: Vị ngọt, tính bình, không độc.

Công dụng: Dưỡng ngũ tạng, bồi bổ cơ thể, chữa các chứng phong thấp, đau khớp, hoa mắt chóng mặt, làm mềm da, giảm phù thũng. Ngoài ra, hải tùng tử còn có khả năng tẩy tế bào chết, làm trắng da và tăng cường sức khỏe khi dùng lâu dài, giúp kéo dài tuổi thọ và giữ gìn sự trẻ trung.

Chủ trị: Điều trị phong thấp ở khớp xương, hoa mắt, chóng mặt, giúp cơ thể thải độc, làm mềm và dưỡng da, bổ sung năng lượng cho cơ thể, tăng cường thể lực, chữa các chứng phong hàn, và duy trì sức khỏe toàn diện.

Lý Thời Trân đặc biệt nhấn mạnh rằng việc dùng hải tùng tử lâu dài sẽ giúp cơ thể nhẹ nhàng và kéo dài tuổi thọ]


1727231412322.png

1727231434302.png
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,772
Động cơ
696,719 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cây An Ma Lặc 庵摩勒樹 [Cây Me rừng]

Có lá mỏng, giống như lá cây Hợp hôn 合昏, màu vàng. Quả của nó giống như quả mận, màu xanh vàng, hạt tròn và có sáu đến bảy gờ nổi lên. Khi ăn, đầu tiên có vị đắng sau đó ngọt. Các thầy thuốc đã sử dụng nó để làm trắng râu tóc, và thấy có hiệu quả. Loại cây này xuất xứ từ Cửu Chân.

[Trong tiếng Trung hiện đại, cây này gọi là Dư Cam tử 甘子, tên khoa học: Phyllanthus emblica (hay Embellica officinallis), tiếng Việt gọi là Me rừng, Me mận, Chùm ruột núi hoặc là Mắc kham. Tiếng Lào cũng gọi là mak kham trong khi danh từ aamla phổ biến ở Ấn Độ và Nepal (theo từ amalaki trong tiếng Phạn), hay Dhatrik (trong tiếng Maithili). Đây là một loài thực vật có hoa với quả ăn được, trong họ Diệp hạ châu. Loài này được L. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1753. Quả của cây này cũng được gọi là aamla ở Ấn Độ và Nepal. Cây Phyllanthus emblica tức me mận cao từ 8 đến 18 mét. Hoa màu xanh vàng. Trái me mận dáng hình cầu, màu xanh vàng nhạt, vỏ nhẵn và cứng, trong ruột có 6 múi. Me mận chín vào mùa thu, khi thu hoạch phải trèo lên cây hái. Vị me mận chua, hơi đắng, và có nhiều xơ. Tại Ấn Độ, quả này thường được người dân ngâm muối, hoặc làm mứt. Me mận này cũng được dùng để duỗi tóc. Nghiên cứu sơ bộ cho thấy me mận có tính kháng khuẩn. Lá, vỏ và quả của cây này có tiềm năng chống lại các bệnh như bỏng, ung thư, lão hóa, và tiểu đường]

1727231476679.png
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,772
Động cơ
696,719 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cây Thạch Lật 石栗樹 [Cây Trẩu Xoan]

Giống như cây hạt dẻ, nhưng mọc trong các khe đá trên núi. Hoa của cây này phải mất 3 năm mới kết quả. Quả có vỏ dày và ít thịt, vị giống như quả óc chó. Khi quả chín, thường có đàn vẹt đến ăn gần hết, vì vậy người dân ở nơi này coi nó là rất quý giá. Cây này có nguồn gốc từ Nhật Nam.

[Thạch Lật 石栗, tên khoa học là: Aleurites moluccana, tên khác là Lai hay Trẩu Xoan, thuộc họ Đại Kích (Euphorbiaceae), chi Thạch Lật (Aleurites), và là một loại cây thường xanh, lá rộng, mọc thành cây cao. Thạch Lật được biết đến vì dầu của nó có thể dùng cho nhiều mục đích, từ việc làm dầu đèn đến sử dụng trong công nghiệp và y học. Thân gỗ cao đến 10 mét, vỏ cây màu xám đậm, nứt dọc nông và gần như nhẵn. Các cành nhỏ có lông tơ dạng sao hoặc lông nhung.

Lá: Lá có hình dạng từ hình bầu dục đến hình mũi mác hoặc hình thoi rộng, mọc cách, có hai điểm nhẫn hình chén màu đỏ nhạt ở đầu lá. Mặt dưới của lá màu xám trắng, lá có lông mềm ngắn ở cả hai mặt, khi lá trưởng thành thì mặt trên trở nên nhẵn. Lá dài từ 10-20 cm và rộng từ 5-17 cm, cuống lá dài từ 6-12 cm, có mép nguyên hoặc hơi chia rã từ 3-7 lần.

Hoa: Hoa tập hợp thành chùm dạng tán, màu trắng sữa đến vàng sữa, có cả hoa đực và hoa cái trên cùng một cây, có thể trên cùng một chùm hoặc khác chùm. Các chùm hoa và cuống hoa có lông mềm ngắn hoặc lông sao màu gỉ sét. Đài hoa có lông và chia thành 3 phần không đều, các phần giống như kẹp. Cánh hoa có 5 cánh, hình ngược mũi mác, dài khoảng 8 mm. Nhị hoa từ 15-20 cái, mọc trên đế hoa có lông và nhô lên.

Quả: Quả là quả hạch, hình trứng, có lông sao màu gỉ sét, có thịt, với lớp vỏ hạt cứng như đá, đường kính từ 5-6 cm. Hạt bên trong hình cầu, hơi dẹt, chứa dầu.

Thời gian ra hoa và quả: Hoa nở từ tháng 4 đến tháng 10, quả chín từ tháng 10 đến tháng 12
]

1727231523276.png

1727231776004.png
 
Chỉnh sửa cuối:

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,772
Động cơ
696,719 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Thảm cược câm 毯屩衿? [Có lẽ là thảm Ba Tư?]

[Sách bị hỏng một số chữ nên dịch không chính xác, có thể mô tả một loại thảm]

… Không Đa 空多, loại lớn nhất có chiều dày không quá 2 thốn. Da của nó thô ráp, cứng, được chế tác bằng cách mài với sừng tê giác và ngà voi, sắc bén hơn cả sắt. [Sản phẩm này] có nguồn gốc từ Đại Tần.

Tre Thạch Lâm 石林竹

Giống như trúc Quế 桂竹, cứng và sắc, có thể chẻ thành dao, cắt da voi dễ như cắt khoai môn. Loại trúc này có nguồn gốc từ Cửu Chân và Giao Chỉ.

[Quế trúc (tên khoa học: Phyllostachys reticulata), còn được gọi là Cương trúc, là một loài thuộc họ Hòa thảo (Poaceae), chi Cương trúc (Phyllostachys). Loại trúc này mọc phân tán và thường phát triển ở độ cao dưới 1500 mét so với mực nước biển. Thời kỳ phát triển măng của cây vào khoảng từ tháng 3 đến tháng 5. Tên loài "reticuluma" có nghĩa là "có vân lưới", liên quan đến đặc điểm hình thái của nó]

1727231847473.png
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,772
Động cơ
696,719 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trúc Tư Ma 思摩竹

Trúc Tư Ma, giống trúc nhưng lớn hơn, măng mọc từ các đốt. Khi măng đã phát triển thành cây, vào mùa Xuân măng lại mọc từ các đốt. Ở vùng Giao Chỉ-Lưỡng Quảng đều có loại trúc này.

Đan Trúc 簞竹 [Cây Dùng]

Lá thưa và to, mỗi đốt cách nhau sáu bảy thước, có nguồn gốc từ Cửu Chân. Người dân nơi đây lấy phần non của cây, giã, ngâm và dệt thành vải, gọi là vải thưa từ trúc [nguyên văn: vị chi trúc sơ bố 之竹疏布].

[Cây Dùng (danh pháp hai phần: Bambusa chungii), còn gọi là dùng phấn, là một loài thực vật có hoa trong họ Hòa thảo. Loài này được McClure mô tả khoa học đầu tiên năm 1936]



1727231930464.png
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,772
Động cơ
696,719 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Trúc Việt Vương 越王竹

Rễ mọc trên đá, giống như cây sậy nhỏ, cao hơn một thước, có ở vùng Nam Hải. Người dân phương Nam yêu thích màu xanh của nó và dùng làm thẻ đếm rượu. Tương truyền, cây trúc này mọc từ những thẻ [tre] đếm bỏ đi của Việt Vương.

Ở vùng núi Nam Hải có loại tre tên là Vân Khâu 丘竹, người ta dùng một đốt tre làm thuyền để đi đến Phù Nam. Nhưng ngày nay ở giao Châu, Quảng Châu, thường thấy những cây tre có đốt dài đến 2 trượng, chu vi một đến hai trượng. [Có lẽ đây là một loại tre khổng lồ]

Cây nhân diện tử 人面子樹 [Cây Sấu]

Trông giống cây Hàm đào, quả cũng như quả đào nhưng không có vị. Hạt của nó giống như khuôn mặt người, nên mới gọi là nhân diện tử. Ngâm mật thì ăn được một chút. Lấy hạt của nó mà chơi trong lúc ngồi, bày ra để tiếp khách.
1727232020371.png
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,772
Động cơ
696,719 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Bản dịch của em đến đây là hết, sau đây em sẽ chỉnh sửa sách một chút rồi gửi đến cụ nào ham đọc sách giấy cuốn này.
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top