[Funland] Dịch sách cổ thời Tây Tấn: Nam Phương thảo mộc trạng

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cây Thứ Đồng 刺桐

Gỗ của nó được sử dụng làm vật liệu. Vào ngày 3 tháng Ba, lá của cây mọc dày và phong phú. Sau đó, cây có hoa màu đỏ xen lẫn giữa các lá. Những bông hoa bên cạnh đều có màu đỏ thẫm. Tuy nhiên, khi hoa tàn đi, thì khoảng 3, 5 bông lại nở tiếp. Cứ như vậy, trong suốt cả năm, ở Cửu Chân vẫn có.

[Cây Thứ Đồng 刺桐, còn gọi là Vông nem, tên khoa học là Erythrina variegata, là một loại cây gỗ rụng lá thuộc họ Đậu 豆科. Cây này có nguồn gốc từ các khu vực nhiệt đới ở châu Á và các đảo thuộc vùng Thái Bình Dương, thường mọc ở các bờ biển san hô. Đặc điểm: cây gỗ lớn, có lá rụng vào mùa Đông và hoa có màu đỏ rực. Loại cây này được biết đến với khả năng ra hoa liên tục trong suốt năm]

1726622464564.png

1726622479342.png

1726622498791.png
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cây Trác 桌

Thân và lá đều giống cây Xuân 椿. Người ta lấy lá của nó nấu thành nước cốt, dùng để ngâm trái cây, gọi là 'trác chấp' 桌汁. Nếu ai ăn thịt heo cùng với [nước] trác dịch, sẽ ngay lập tức bị sét đánh chết. Cây trác có ở quận Cao Lương.

[Cây Trác, có lẽ là một cây trong họ cây Xuân, theo mô tả thì đây có thể là cây Hồng xuân (tên khoa học: Toona ciliata) là một loài thực vật có hoa trong họ Meliaceae. Loài này được M. Roem. mô tả khoa học đầu tiên năm 1846]

1726622659650.png

Hồng Xuân
[cây Xuân 椿 hay Hương xuân (danh pháp hai phần: Toona sinensis; tiếng Hindi: डारलू, chuyển tự d̩āralū; tiếng Mã Lai: suren; tiếng Anh: Chinese toon, Chinese cedar, red toon) hay còn gọi tên khác là mạy sao, xoan hôi, cây thịt bò hành tây, hay tông dù là một loài cây thuộc Chi Hương xuân có nguồn gốc ở phía đông và đông nam Châu Á, từ Triều Tiên ở phía nam qua hầu hết các miền đông, trung và tây nam Trung Quốc đến Nepal, đông bắc Ấn Độ, Myanmar, Thái Lan, Malaysia và phía tây Indonesia.

Đây là loài cây rụng lá cao tới 25 mét (82 ft) với thân cây có đường kính lên tới 70 cm. Vỏ cây có màu nâu, nhẵn trên cây non, trở nên bong vảy thành xù xì trên cây già. Các lá xếp hình lông chim, dài 50–70 cm và rộng 30–40 cm, với 10–40 lá chét, lá ở cuối thường không xuất hiện (lá chét lông chim chẵn) nhưng thỉnh thoảng có (lá chét lông chim lẻ); các lá nhỏ riêng rẽ dài 9–15 cm và rộng 2.5–4 cm, với toàn bộ viền lá hoặc viền răng cưa nông.

Các bông hoa nở vào mùa hè có những khóm hoa dài từ 30–50 cm ở cuối mỗi nhánh; mỗi bông hoa nhỏ có đường kính 4–5 mm với 5 cánh hoa màu trắng hoặc hồng nhạt. Quả có dạng quả nang dài từ 2–3.5 cm chứa nhiều hạt có cánh. Các nụ hoa có màu đỏ tía hoặc nâu đỏ và có mùi thơm đặc biệt. Thời kỳ ra hoa là tháng 7 hàng năm, với những bông hoa nhỏ màu trắng, những chùm hoa dài, 5 hoa lưỡng tính trên mỗi hoa, và những cành hoa thưa thớt. Sau khi ra hoa, quả hình bầu dục màu vàng được hình thành. Quả hương xuân tách ra sau khi chín, và hạt hình bầu dục của nó rơi xuống đất. Về ngoại hình, cây hương xuân và ailanthus rất giống nhau, nhưng lá có mùi khác nhau, ngoài ra, toon có vỏ sần sùi và ailanthus tương đối mịn
]
1726622728309.png

Cây Xuân
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cây Sam 杉

Còn gọi là cây Phi Tiêm 披煔. Ở phía đông của huyện Hợp Phố, cách khoảng 200 dặm, có một cây Sam. Vào năm Vĩnh Sơ 永初 thứ năm thời Hán An Đế 漢安帝 [năm 111], vào mùa xuân, lá của cây này rụng theo gió bay đến thành Lạc Dương 洛陽城. Lá của nó lớn gấp nhiều lần so với lá của cây sam thường. Thuật sĩ Liêm Thịnh 術士廉盛 nói rằng đó là lá của cây sam ở phía đông Hợp Phố, đây là điềm lành cho thấy vua chúa sẽ xuất hiện. Hoàng đế liền sai sứ giả đi kiểm tra và quả thật đúng như vậy. Sau đó, người ta dùng 1.000 người để đốn cây, nhiều phu khuân vác đã chết. Về sau, có 300 người ngồi trên thân cây đã bị đốn, ăn uống, qua lại thoải mái đến mức chen chúc nhau. Đến nay, gốc cây vẫn còn.

[cây Sam, tên khoa học: Cryptomeria là một chi thực vật hạt trần trong họ Hoàng đàn (Cupressaceae), trước đây được phân loại trong họ Bụt mọc (Taxodiaceae). Chi này chỉ có một loài duy nhất với danh pháp hai phần là Cryptomeria japonica (đồng nghĩa: Cupressus japonica L.f.). Đây là loài đặc hữu của Nhật Bản, người Nhật gọi là sugi (tiếng Nhật: 杉-sam); tên gọi bản địa này ngày càng được sử dụng rộng rãi trong các tài liệu về thực vật học, để thay thế cho tên gọi cũ không chính xác về mặt thực vật học là "tuyết tùng Nhật Bản" - loài này thật ra không phải là loài cận chủng với nhóm tuyết tùng (chi Cedrus). Tiếng Việt gọi cây này là Liễu Sam hay Bách Nhật Bản. Theo mô tả của tác giả, đây có thể là một cây Cự Sam (Sequoiadendron giganteum là loài duy nhất trong chi Sequoiadendron, nó được phân loại trong họ Cupressaceae chứa phân họ Sequoioideae, cùng với Sequoia sempervirens (cù tùng) và Metasequoia glyptostroboides (thủy tùng)]
1726622870988.png


1726622886198.png
 

Dxttb

Xe tải
Biển số
OF-588730
Ngày cấp bằng
6/9/18
Số km
365
Động cơ
156,884 Mã lực
Nơi ở
Hà Nội
Sách hay quá cụ chủ ạ!
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ở Kinh Ninh Phố 荊寧浦 có ba loại cây Kinh 荊: Cây Kim kinh 金荊 [kinh vàng] có thể làm gối, cây Tử Kinh紫荊 [kinh tím] có thể làm giường, và cây Bạch Kinh白荊 [kinh trắng] có thể làm dép. Những loại này hoàn toàn khác với cây Mẫu Kinh 牡荊 và cây Mạn Kinh 蔓荊 ở các nơi khác. Ngoài ra, ở vùng này còn có cây Đỗ Kinh 杜荊, có thể tự chữa lành bệnh mà không cần cắt đứt cành. Khi có hiện tượng quầng trăng 月暈, người ta đo cắt cây này sao cho độ dài bằng với chiều cao của người bệnh, rồi đặt dưới giường, dù người bệnh nguy kịch cũng có thể được chữa khỏi.

[Cây Kinh, một loài cây mọc từng bụi, cao bốn đến năm thước, lá như cái bàn tay, hoa nhỏ, sắc tím hơi vàng, cành gốc cứng rắn, mọc rải rác ở đồng áng làm lấp cả lối đi. Cho nên đường đi hiểm trở gọi là kinh trăn 荊榛, kinh cức 荊棘. Sở Thanh Tử 楚聲子 gặp bạn là Ngũ Cử 伍舉 trên đường, trải cành kinh cùng nhau nói chuyện cũ, ban kinh đạo cố 班荊道故. Ở nhà quê hay dùng cây kinh để đan phên, vì thế nên cánh cửa phên gọi là sài kinh 柴荊. Nước Sở 楚 có nhiều cây kinh nên gọi là Kinh 荊 hay Kinh Sở 荊楚]

[Chi Tử kinh là một chi chứa khoảng 6-10 loài trong phân họ Vang của họ Đậu, có nguồn gốc trong khu vực ôn đới ấm. Chúng là các cây thân gỗ nhỏ lá sớm rụng hay các cây bụi lớn, với đặc trưng là các lá đơn thuôn tròn hay hình tim và hoa màu đỏ ánh hồng, mọc về đầu mùa xuân trên các cành non không lá]

[Tử Kinh (tên khoa học: Cercis chinensis) là một loài cây gỗ rụng lá thuộc họ Đậu 豆科, chi Tử Kinh 紫荊屬. Loài cây này có nguồn gốc từ khu vực đông nam Trung Quốc]

1726623033412.png

Kim Kinh

1726623088543.png

Tử Kinh

1726623108323.png

Bạch Kinh
[Mẫu Kinh 牡荊, (tên khoa học: Vitex negundo var. cannabifolia) là một biến thể của cây Hoàng Kinh 黃荊, thuộc chi Mẫu Kinh 牡荊屬 trong họ Hoa môi 唇形科. Cây bụi rụng lá hoặc cây gỗ nhỏ. Lá kép chân vịt có 5 lá chét mọc đối xứng, đôi khi có 3 lá chét. Các lá chét có hình mũi mác, đầu lá nhọn dài, gốc lá hình nêm và mép lá có răng cưa nhỏ. Mặt trên của lá có màu xanh nhạt, còn mặt dưới phủ lông tơ trắng.3 lá chét ở giữa có cuống, trong khi hai lá chét ở hai bên không có cuống. Cụm hoa đầu cành dạng hình chùm nón, hoa màu tím nhạt hình môi nở vào mùa hè. Quả hạch hình cầu màu nâu]

1726623161960.png

Mẫu Kinh

[Mạn Kinh 蔓荊 hay còn gọi là Đẹn Ba Lá, (tên khoa học: Vitex trifolia) là một loài thuộc chi Mẫu Kinh 牡荊屬 trong họ Cỏ roi ngựa 马鞭草科. Đây là cây bụi rụng lá, thường có lá kép 3 chét. Cây được tìm thấy ở các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam. Nó sinh trưởng tại các đồng bằng, bãi sông, rừng thưa và gần các khu làng. Loài này cũng có phân bố ở Đài Loan, Ấn Độ, Việt Nam, Philippines và Úc]

1726623205473.png

Mạn Kinh

1726623237809.png

Đỗ Kinh
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Lá của cây Tử Đằng 紫藤 mảnh và dài, thân cây giống như rễ tre, rất cứng và chắc, có nhiều lớp vỏ. Hoa của nó màu trắng, hạt màu đen. Nếu đặt cây vào rượu, để trong khoảng hai đến ba mươi năm cũng không bị phân hủy. Thân cây nếu cắt ra và đặt trong than đen, sau một thời gian sẽ tạo thành một loại hương tím, có thể dùng để gọi thần linh.

[Chi Tử Đằng (tên khoa học: Wisteria) là một chi thuộc họ Đậu 豆科 và phân họ Hoa đậu 蝶形花亚科. Trong chi Tử Đằng có hàng chục loài, tất cả đều là cây leo. Chúng có nguồn gốc từ Đông Á và Bắc Mỹ. Nhiều loài trong chi này được ưa chuộng làm cây cảnh trong vườn, và một số loài đã trở thành loài xâm lấn khi được đưa vào Bắc Mỹ. Toàn bộ cây có thể có độc, đặc biệt là hạt của cây có độc tính cao]

1726623391291.png
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cây Khạp Đằng Y 榼藤依

Leo bám vào cây khác, mọc như dây leo, tương tự như dây leo cây Thông Thảo Đằng 通草藤. Hạt của nó có màu tím đen, còn được gọi là hạt Tượng đậu 象豆. Sau 3 năm mới chín. Vỏ hạt được dùng để lưu trữ thuốc, có thể bảo quản nhiều năm mà không bị hỏng. Cây này có nguồn gốc từ vùng Nam Hải và được dùng để giải độc cho nhiều loại thuốc.

[Khạp Đằng (tên khoa học: Entada phaseoloides), còn được gọi là Áp Kiện Đằng 鴨腱藤, Áp Kiến Đằng 鴨見藤 hoặc Khạp Đằng Tử 榼藤子, là một loài thực vật dạng dây leo thường xanh thuộc chi Khạp Đằng 榼藤屬 trong họ Đậu 豆科. Cây có lá kép lông chim hai lần với chất liệu giống như da, màu xanh lá cây. Cây ra hoa màu vàng với mùi thơm, cụm hoa dạng chùm, mỗi hoa có năm cánh. Hoa nở từ tháng 3 đến tháng 4, và quả chín vào cuối tháng 8. Cây có công dụng trong y học, có thể điều trị chứng thấp khớp và đau lưng]

1726623460699.png

Quả Khạp Đằng
1726623504493.png
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Mật Hương Chỉ 蜜香紙 [Giấy Mật Hương]

Được làm từ vỏ và lá của cây Mật Hương 蜜香樹. Nó có màu nâu nhạt với các vân giống như trứng cá, rất thơm và bền chắc, không bị phân hủy khi ngâm nước. Vào năm Thái Khang thứ năm 泰康五年 [năm 285], Lái buôn nước Đại Tần 大秦 [La Mã] đã cống nạp ba vạn tờ giấy này. [Vua Tấn] dùng một vạn tờ để ban thưởng cho Tướng quân Trấn Nam 鎮南大將軍 và Hầu tước Đương Dương 當陽侯 là Đỗ Dự 杜預. Đỗ Dự được lệnh viết các tài liệu như Xuân Thu Thích Lệ 春秋釋例 và Kinh Truyền Tập Giải 經傳集解 để gửi tiến cống. Tuy nhiên, trước khi hoàn thành, Đỗ Dự qua đời. Lệnh ban thưởng đã được chuyển cho gia đình của Đỗ Dự.

[Mật Hương chỉ 蜜香紙 là loại giấy có hương thơm đặc biệt và tính chất bền bỉ, được sản xuất ở Giao Chỉ]
1726623573675.png

Giấy Mật Hương
[Cây Mật Hương, BẠch Mộc Hương hay Nha Hương Thụ (tên khoa học: Aquilaria sinensis), còn được gọi là Mật Hương Thụ 蜜香樹, Hoàn Hương Thụ 莞香樹, Thổ Trầm Hương 土沉香, Nữ Nhi Hương 女兒香 và Bạch Mộc Hương 白木香, thuộc họ Thụy Hương 瑞香科 và chi Thổ Trầm Hương 土沉香屬. Do bị khai thác quá mức tại Trung Quốc đại lục, loài cây này thuộc danh sách các loài nguy cấp và được xếp vào danh mục thực vật bảo vệ cấp hai của Trung Quốc. Nó phân bố chủ yếu ở các khu vực như Hải Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Hồng Kông và Việt Nam]
1726623657609.png

Cây Mật Hương hay Bạch Mộc Hương

[Đỗ Dự 杜预; (222-284) là tướng nhà Tây Tấn, người Đỗ Lăng, Kinh Triệu (nay là phía đông nam Tây An, Thiểm Tây). Ông là người có tài văn võ kiêm toàn, ngoài công lao bình định nước Đông Ngô, chấm dứt cục diện Tam Quốc được nhiều người biết đến trong tiểu thuyết Tam Quốc Diễn Nghĩa, Đỗ Dự đương thời còn là một vị quan văn giỏi hoạch định chính sách, một nhà kinh tế có nhiều kế sách giúp nhà Tấn giàu mạnh]
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Bão Hương Lý 抱香履 là loại giày làm từ cây Bão 抱木 mọc bên cạnh cây Thủy Tùng 水松, có vẻ như là cây ký sinh, nhưng rất mềm yếu, không chịu nổi dao búa. Khi còn ướt, nó có thể được cắt thành giày một cách dễ dàng như thái dưa, nhưng khi khô thì trở nên dai và khó xử lý. Giày dù lớn nhưng rất nhẹ, nếu bị gió thổi thì sẽ di chuyển theo gió. Vào mùa Hè, giày này có thể giúp chống lại hơi ẩm và nhiệt. Vào năm Thái Khang thứ sáu 泰康六年 [năm 285], Phù Nam 扶南 đã cống nạp 100 đôi giày này cho Đại Tần 大秦. Hoàng đế cảm thán và ngạc nhiên về sự khác thường của chúng, nhưng lại chê bai kỹ thuật chế tạo kém cỏi, chỉ để chúng ở các thư phòng bên ngoài để dự phòng.

Theo ghi chép của Đông Phương Sóc 東方朔 trong sách Tỏa Ngữ 瑣語, giày gỗ 木履 bắt nguồn từ thời Tấn Văn Công 晉文公. Khi Giới Tử Thôi trốn khỏi triều đình và sống ẩn dật bên cây, ông chết bên gốc cây. Tấn Văn Công thương tiếc cây gỗ nơi Giới Tử Thôi qua đời và dùng nó để làm giày, từ đó, mỗi khi nhìn vào đôi giày, công tôn vương cũng cảm thấy buồn bã và thương tiếc, vì vậy từ đó đôi giày này được gọi là "giày đau thương" [nguyên văn: Bi hồ túc hạ 悲乎足下]

[cây Bão 抱木, người dịch chưa rõ đây là cây gì]

[Đông Phương Sóc (160 TCN-93 TCN), là một học giả nổi tiếng ở tỉnh Sơn Đông, cùng thời với Tư Mã Thiên và dưới thời Hán Vũ Đế Lưu Triệt. Ông là một người kì trí đa mưu, tinh thông văn sử, đã giúp cho Hán Vũ Đế diệt trừ các thế lực đen tối ở hậu cung; đồng thời đánh bại các chư hầu âm mưu chia rẽ đất nước]

[Tấn Văn công 晉文公, (697 TCN - 628 TCN), tên thật là Cơ Trùng Nhĩ 姬重耳, là vị vua thứ 24 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị từ năm 636 TCN đến năm 628 TCN, tổng cộng 8 năm]

[Giới Tử Thôi 介子推, còn được gọi là Giới Thôi 介推, Giới Tử, sống vào thời Xuân Thu và là một nhân vật nổi bật trong lịch sử của nước Tấn. Ông qua đời tại Miên Sơn 绵山, hiện nay là thành phố Giới Hưu 介休, tỉnh Sơn Tây 山西. Giới Tử Thôi là một trong những cố vấn có nhiều công lao của Tấn Văn Công 晋文公, người đã phải lưu vong sau sự hỗn loạn do Li Cơ 骊姬 gây ra. Sau khi Tấn Văn Công trở lại làm vua, phong thưởng cho những người có công nhưng lại quên mất Giới Tử Thôi. Giới Tử Thôi không oán giận gì, về nhà đưa mẹ vào núi ở ẩn. Tấn Văn Công nhớ ra, cho người đi tìm. Vì Giới Tử Thôi không chịu ra lĩnh thưởng, Tấn Văn Công hạ lệnh đốt rừng để ép ông phải ra; cuối cùng, hai mẹ con ông đều chết cháy. Vua thương xót, lập miếu thờ và hạ lệnh kiêng đốt lửa ba ngày, chỉ ăn đồ ăn nguội đã nấu sẵn để tưởng niệm, sau người ta gọi là Tết Hàn Thực]

[Tuy nhiên, theo sách này thì truyền thuyết về Tết Hàn Thực không liên quan gì đến Giới Tử Thôi]
1726623858680.png
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
QUYỂN HẠ

Tân Lang [Cây Cau] 檳榔

Cây cau 檳榔 cao mười mấy trượng, vỏ giống như cây Thanh đồng, đốt như cây trúc, gốc dưới không lớn, cành trên không nhỏ, đều tăm tắp, hàng ngàn hàng vạn cây như một, rừng cây tươi tốt không có cành, đầu ngọn có lá, lá giống như lá chuối, các nhánh lá tỏa ra, nhìn lên nhỏ bé như cắm một bụi chuối lên ngọn trúc. Gió đến, chỉ có một mình cây động, giống như giơ chiếc quạt lông quét bầu trời. Dưới lá treo nhiều buồng, mỗi buồng kết nhiều chục quả, quả to bằng quả đào quả lý, tự nhiên có gai dày đặc bao bọc bên dưới, để bảo vệ quả. Vị đắng chát, bổ vỏ ra, nấu chín ruột, cứng như quả chà là khô. Dùng cây trầu không, vôi tôi cùng ăn thì trơn tru ngon miệng, hạ khí tiêu thức ăn. Xuất xứ từ Lâm Ấp, người ta ở đó coi trọng nó, khi có hôn sự, khách quý nhất định phải dâng trước. Nếu tình cờ không chuẩn bị thì sẽ bị ghét bỏ. Còn gọi là thuốc quý ở cửa nhà.

[Cau hay còn gọi là Tân Lang 檳榔 (danh pháp hai phần: Areca catechu), là một loài cây trong họ Cau (Arecaceae) được trồng nhiều tại khu vực nhiệt đới châu Á và Thái Bình Dương cũng như ở phía đông châu Phi. Nó là loại cây thân gỗ trung bình, cao tới 20 m, với đường kính thân cây có thể tới 20–30 cm. Các lá dài 1,5–2 m, hình lông chim với nhiều lá chét mọc dày dặc. Chi Cau có khoảng 50 loài. Ở Malabar, Areca dicksoni mọc hoang dã và những người nghèo dùng nó thay cho cau thực thụ. Quả cau chứa các ancaloit như arecain và arecolin, khi được nhai thì gây say và có thể hơi gây nghiện. Cau được trồng tại Ấn Độ, Malaysia, Đài Loan, Việt Nam và nhiều nước châu Á khác. Đảo Penang, ngoài khơi bờ biển phía tây bán đảo Mã Lai, được đặt tên theo từ “pinang”, tên gọi địa phương của cau]
1726624075362.png


1726624092575.png
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,685
Động cơ
694,976 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Lệ Chi 荔枝 [Cây Vải]

Cây vải 荔枝 cao năm sáu trượng, giống như cây Quế, lá xanh tươi tốt, mùa đông mùa hè đều xanh tốt, hoa xanh quả đỏ, quả to bằng quả trứng gà, hạt vàng đen giống như hạt sen chín, thịt trắng như mỡ, ngọt và nhiều nước, giống như quả Thạch lựu, có vị ngọt và chua. Đến giữa trưa, bỗng nhiên đều đỏ thì có thể ăn được. Một cây có thể cho ra hơn một trăm hộc quả. Sách Tam Phổ Hoàng đồ 三輔黃圖 viết rằng:

“Hán Vũ Đế 漢武帝 năm Nguyên Đỉnh元鼎 thứ sáu đánh bại Nam Việt, xây dựng cung điện Phù Lệ 扶荔宮. Phù Lệ là lấy tên của quả vải mà đặt. Từ Giao Chỉ di thực 100 cây [vào Trung Nguyên], không có cây nào sống. Nhiều năm liền di thực không ngừng, sau vài năm, tình cờ có một cây hơi tươi tốt, nhưng cuối cùng cũng không có hoa quả. Vua cũng quý trọng nó, một hôm bỗng nhiên héo úa chết, quan lại chịu tội bị giết chết mấy chục người, sau đó không còn tươi tốt nữa. Quả thì [vẫn bắt Giao Chỉ] vẫn tiến cống hàng năm, người gánh vải mệt mỏi chết trên đường, cực kỳ làm khổ người dân.

1726624604974.png



1726624626421.png
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top