[Funland] Dịch sách cổ thời Tây Tấn: Nam Phương thảo mộc trạng

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Xin giới thiệu cùng các cụ yêu Lịch sử bản dịch sách cổ của em, cuốn sách có thể nói là xưa nhất thời Tây Tấn [266-304] của tác giả Kê Hàm viết chuyên về Thực vật vùng Ngũ Lĩnh, Nam Việt, Giao Chỉ.
Khi tác giả viết sách này, là vừa kết thúc thời Tam Quốc, và, Tư Mã Viêm thống nhất Trung Quốc lập ra nhà Tây Tấn, lên ngôi là Tấn Vũ Đế, tác giả sống vào khoảng niên hiệu Thái Khang [4/280 – 289], tác giả sống cùng với Thạch Sùng và Vương Khoái, nên có những mô tả khá thú vị về các nhân vật này. Lúc này, nước ta vừa thuộc quyền cai quản của nhà Đông Ngô và thậm chí còn mới thuộc quyền của nhà Ngụy -Tấn. Rồi ta mới biết việc cống quả Vải bắt đầu từ thời Hán Vũ Đế, tác giả tỏ ra thương cảm cho người dân Giao Chỉ phải vất vả gánh vải đi cống nạp phương xa và chết rất nhiều.
Từ lâu, nhiều người vẫn quan niệm vùng đất Nam Việt [thời Triệu Đà] và Giao Chỉ nói riêng là một vùng lạc hậu, cư dân sống theo các Bộ Lạc, thậm chí chưa biết canh tác, trồng cấy, phải đợi đến khi Sĩ Nhiếp (137 - 226) là Thái thú Giao Chỉ vào cuối đời nhà Hán khi sang làm Thái Thú mới dạy dân Việt trồng cấy canh tác, chữ viết, nhưng xem ra sách viết và quan niệm như vậy sai bét, thậm chí, có khi chính người Giao Chỉ còn truyền dạy người dân Trung Nguyên những phương pháp canh tác như: Trồng rau muống bè, dùng Thiên địch [kiến vàng] trừ bọ cam, lối canh tác mà đến bây giờ, sau gần 2.000 năm vẫn chưa hề lạc hậu.
Tác giả cũng mô tả vùng đất Giao Chỉ xưa hoa cỏ đẹp tuyệt, hoa nở quanh năm, các cô gái lúc nào cũng cài hoa trên đầu, lại biết ủ rượu mía cho đám cưới, vậy thì cớ sao các nhà Sử học cứ bắt dân ta cởi trần đóng khố?
Đọc sách, ta mới biết từ "Con gái rượu" chính là biến thể của Nữ Nhi Tửu 女儿酒. Sách có chép lại rằng Nữ Nhi Tửu là loại rượu phải có ở những nhà giàu có sinh con gái, hoặc gả con gái mới có.
-----------------------------
Sách liệt kê tuy không nhiều các loài Thực vật, hoa cỏ, cây cối, các loại quả, nhưng từ thời điểm cách nay đã gần 2000 năm, một người có đầu óc quan sát và ghi chép như vậy rất đáng để thán phục.
----------------------------
Do sách viết theo cổ văn phong thời Tần-Hán, nên rất khó dịch, lại không đánh dấu câu, nên em dù cố gắng đến mấy cũng không tránh khỏi sai sót. Lại cũng vì trình độ vô cùng ngu dốt, văn phong quê mùa, hoàn toàn ít học vấn, tự nghĩ mình dốt nát nên cũng dám đem sách dịch ra hầu các cụ, chỉ xin các cụ cao nhân lời chỉ giáo.
Sách giấy, em sẽ tặng sau khi thớt xong. Thực tình, cũng muốn bán để ủng hộ 100% cho quỹ OF ủng hộ đợt bão lũ vừa rồi, các cụ thấy có được không?
Screenshot (72).png

Screenshot (73).png
Screenshot (74).png
Screenshot (75).png
Screenshot (76).png
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Ở Trung Quốc, sách được xuất bản hiện nay dưới 2 dạng, tiếng Anh và tiếng Trung, nên em không thể lấy tất cả những hình vẽ của tác giả, mà sử dụng hình ảnh khác, tránh rắc rối bản quyền.
dbcddff2b18bb292.jpg
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
NAM PHƯƠNG THẢO MỘC TRẠNG 南方草木狀
Tác giả: Kê Hàm 嵇含
Thời đại: Tây Tấn 西晋 [266-316]
Tác giả:
Kê Hàm 嵇含 [263-306], tự là Quân Đạo 君道, tự xưng là Bạc Khâu Tử 亳丘子, người huyện Trĩ, quận Tiếu 譙國銍縣 [nay là địa cấp thị Bạc Châu, tỉnh An Huy] là một nhà văn học và thực vật học thời Tây Tấn.
Kê Hàm là cháu nội của Kê Khang 嵇康, cháu của Thứ sử Từ Châu Kê Hỉ嵇喜, và là con trai của Thái tử xá nhân Kê Phàm 嵇蕃. Ông từng giữ các chức vụ Trinh Tây tham quân 征西參軍, Phiêu kỵ ký thất đốc 驃騎記室督, Thượng thư lang 尚書郎, v.v. Vào năm Vĩnh Hưng 永興 nguyên niên [năm 304], ông được Phạm Dương Vương 范陽王 mời giữ chức Trung lang中郎, sau đó trở thành Thái thú Tương Thành 襄城太守. Sau khi thất bại trong trận chiến, ông đã nương nhờ Tướng quân Trấn Nam 鎮南將軍 Lưu Hoằng 劉弘. Tuy nhiên, Kê Hàm tính cách cương nghị, nóng nảy, thường xuyên bất hòa với Tư mã Quách Mại. Đến năm Vĩnh Hưng thứ ba [năm 306], sau khi Lưu Hoằng qua đời, ông bị Quách Mại 郭勱 hãm hại và bị giết. Ông được truy phong thụy hiệu là Hiến憲.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Tác phẩm

Tác phẩm nổi tiếng của Kê Hàm không nhiều, bao gồm 3 bài thơ ngũ ngôn: Đăng cao登高 [Lên Cao], Duyệt tình 悅晴 [Vui với trời nắng], và Kháng lệ 伉儷 [Tình vợ chồng]. Mặc dù trong Tùy thư- Kinh tịch chí 隋書·經籍誌 có ghi chép về "Kê Hàm tập" 嵇含集 gồm 10 quyển, nhưng tác phẩm này đã bị thất truyền.
Ngoài các tác phẩm văn học, ông cũng có niềm đam mê với thực vật. Vào năm Vĩnh Hưng nguyên niên [năm 304], ông đã biên soạn cuốn sách: Nam phương thảo mộc trạng 南方草木狀. Toàn bộ cuốn sách được chia thành 3 quyển: quyển Thượng giới thiệu về các loại cỏ [30 loại], quyển Trung giới thiệu về các loại cây [28 loại], và quyển hạ giới thiệu về các loại quả [17 loại] và tre [6 loại]; cuốn sách đã hệ thống hóa việc giới thiệu các loài thực vật ở khu vực Lĩnh Nam.
Nam phương thảo mộc trạng là một cuốn sách ghi chép về các loài thực vật ở Lĩnh Nam, và là cuốn sách sớm nhất về thực vật học của khu vực này, hiện nay có nhiều tranh luận xoay quanh tác giả thực sự của tác phẩm liệu có phải của Kê Hàm hay không?
Nội dung chính của quyển Thượng: ghi chép về 29 loại cỏ, bao gồm chuối tiêu, cây bồ quỳ, và rau muống; quyển trung ghi chép về 28 loại cây, như trầm hương, thông nước, và cây vông nem; quyển Hạ ghi chép về 17 loại quả, như cau, dừa, và 6 loại tre. Tổng cộng cuốn sách mô tả 80 loài thực vật. Phần lớn các loài này sinh trưởng tại các khu vực Phiên Ngung, Nam Hải, Hợp Phố, Lâm Ấp, cũng như vùng Nam Việt và Giao Chỉ, thuộc khu vực nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Mức độ chi tiết khi mô tả mỗi loài thực vật khác nhau, mỗi loài có một trọng tâm riêng, nhưng nhìn chung đều giới thiệu về hình thái, môi trường sống, công dụng, nơi sản xuất, và các giai thoại lịch sử liên quan.
Nam phương thảo mộc trạng là bộ sách sớm nhất về thực vật học của khu vực Lĩnh Nam. Trong sách có ghi chép về nơi sản xuất và lịch sử du nhập của các loài thực vật. Phương pháp trồng rau muống trên bè nổi được đề cập trong sách là ghi chép sớm nhất trên thế giới về việc trồng rau trên mặt nước [trồng không cần đất]. Việc sử dụng kiến vàng để phòng trừ sâu bệnh cho cây quýt cũng là ghi chép đầu tiên trên thế giới về biện pháp kiểm soát sinh học, và phương pháp này vẫn được các nông dân ở khu vực Mân-Việt [Phúc Kiến-Quảng Đông-Quảng Tây] sử dụng cho đến ngày nay. Ngoài ra, cuốn sách còn chứa một số nội dung không thấy trong các tài liệu sớm khác, nên có thể coi là ghi chép nguyên bản của tác phẩm này và rất đáng để nghiên cứu thêm.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
unnamed (9).jpg

Ảnh chụp bản in quyển Thượng của sách
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
QUYỂN THƯỢNG

Thực vật ở Nam Việt 南越 và Giao Chỉ 交趾 có những loại từ bốn phương, kỳ lạ nhất. Trước thời nhà Chu 周 và nhà Tần 秦 không có ghi chép nào về chúng. Từ khi Hán Vũ Đế 漢武帝 mở rộng biên cương, đã thu thập được những loại quý hiếm, chọn lấy những thứ tốt nhất để cống nạp. Người Trung Châu [Trung Nguyên] đôi khi không rõ về hình dạng của chúng, nên tôi dùng những gì mình nghe được để biên soạn, nhằm giúp ích cho con cháu sau này.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cây Chuối tiêu 甘蕉

Nhìn xa như một cái cây, gốc lớn hơn một vòng tay. Lá dài một trượng [3,33m], hoặc bảy, tám thước, rộng từ hơn một thước đến khoảng hai thước. Hoa lớn như chén rượu, hình dạng và màu sắc giống hoa phù dung, mọc ở đầu thân. Quả nhiều hơn một trăm, lớn, gọi là buồng, kết nối liền nhau. Vị ngọt ngon, cũng có thể dùng làm mật. Rễ giống như củ khoai môn, loại lớn như trục xe. Quả ra theo từng đợt cùng với hoa, mỗi hoa một chùm có 6 quả, chín không cùng lúc, hoa không rụng cùng lúc. Một tên gọi khác là Ba tiêu芭蕉, hoặc có nơi gọi là Ba trữ 巴苴. Khi bóc vỏ quả, lớp ngoài có màu vàng trắng, vị ngọt như nho, giòn và có thể làm no. Chuối có 3 loại: loại quả lớn bằng ngón tay cái, dài và nhọn, giống sừng dê, gọi là 'Dương giác tiêu' 羊角蕉, vị ngọt ngon nhất; một loại khác có quả lớn như trứng gà, giống như sữa bò, gọi là 'Ngưu nhũ tiêu' 牛乳蕉, vị ngọt giảm hơn so với chuối dương giác; một loại lớn như quả ngó sen, dài sáu, bảy tấc, hình vuông, ít ngọt, xếp loại thấp nhất. Thân cây có thể tách ra thành sợi, dùng tro để luyện thành chỉ, có thể dệt thành vải mỏng, gọi là 'chuối cát'. Dù giòn, màu vàng trắng đẹp nhưng không bằng màu đỏ của sợi lanh. Cả Giao Chỉ và Quảng Châu đều có loại này. Trong sách "Tam phủ hoàng đồ" 三輔黃圖 ghi rằng, vào năm Nguyên Đỉnh 元鼎 thứ sáu [111 TCN], Hán Vũ Đế đánh bại Nam Việt [nước Nam Việt lúc này do con cháu Triệu Đà cai trị], xây cung Phù Lệ 扶荔宮 để trồng những loài cỏ cây kỳ lạ, trong đó có 2 cây chuối tiêu.
1726566344916.png

w700d1q75cms.jpg

Quả chuối “'Dương giác tiêu' 羊角蕉
pRxpvhfwaB20211112131902_1200.jpg

Quả chuối'Ngưu nhũ tiêu' 牛乳蕉
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Hoa Nhài tây 耶悉茗花
[Jasminum grandiflorum, còn được gọi là hoa nhài Tây Ban Nha, hoa nhài Hoàng gia, hoa nhài Catalan, và còn một vài tên gọi khác, là một loài hoa nhài có nguồn gốc từ Nam Á, bán đảo Ả Rập, Đông Bắc Châu Phi, Hồ Lớn châu Phi, và các khu vực Vân Nam và Tứ Xuyên]

Hoa Nhài tây và hoa Nhài, đều là những loài do người Hồ 胡人 [người Hồ theo nghĩa hẹp dùng để chỉ các sắc dân ngoại lai tại Trung Á và Tây Á, được sử dụng phổ biến trong các sử tịch và văn hiến xưa] từ Tây quốc 西國 [các nước Trung Á, Tây Á nói chung] mang đến trồng ở Nam Hải. Người Nam Hải yêu thích hương thơm của chúng và thường trồng chúng. Theo sách "Nam Việt hành ký" 南越行紀, trong vùng đất Nam Việt, 5 loại lúa không có vị, trăm hoa không có mùi thơm, chỉ hai loài hoa này đặc biệt có mùi thơm. Lý do là chúng được mang từ các nước Hồ đến, không thay đổi theo nước và đất. Khác với cây quýt ở miền Bắc biến thành quất. Phụ nữ ở đó dùng sợi chỉ màu để xâu hoa làm trang sức đầu.
Hoa Nhài giống như hoa hồng trắng, có hương thơm hơn hoa Nhài tây.

1726566554873.png

Tranh vẽ Hoa Nhài​
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Jasminum_grandiflorum_(Oleaceae).jpg


Hoa Nhài Tây
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
unnamed.jpg

Hoa Nhài thường
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Hoa Đậu khấu 豆蔻花

Hoa có thân giống như cây sậy, lá giống như lá gừng. Hoa mọc thành chùm, lá non cuộn lại và sinh hoa. Hoa có màu đỏ nhạt, đầu chùm có màu đậm, lá dần dần mở ra, hoa cũng dần hiện rõ. Theo truyền thuyết, ăn hoa này có thể tiêu khí, giảm đờm, kích thích sự thèm ăn, và tăng cường sức khỏe. Vào năm Thái Khang 泰康 thứ hai [năm281, niên hiệu của Tấn Vũ Đế], quận Giao Chỉ đã dâng một thùng hoa này, sau khi thử nghiệm thấy có hiệu quả, nên được ban thưởng cho các quan gần gũi.

Tranh vẽ hoa Đậu Khấu
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
1726566963882.png

Hoa Đậu Khấu
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Hoa Sơn khương 山姜花

Thân và lá giống như gừng, nhưng rễ không thể ăn được. Hoa mọc giữa các lá, thành chùm giống như hạt lúa mì, mềm và có màu đỏ. Khi sắc uống, có tác dụng trị khí lạnh rất hiệu quả. Loài này có ở Cửu Chân và Giao Chỉ.
1726567049090.png

1726567070727.png


Hoa Sơn khương
 
Chỉnh sửa cuối:

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cây Hạc Thảo mạn 鶴草蔓

Mọc thành dây leo, hoa có màu tím nhạt như bột rượu, cuống và lá giống lá liễu nhưng ngắn hơn. Hoa nở vào mùa hè, hình dáng giống như con hạc đang bay, với mỏ, cánh, đuôi, và chân đầy đủ. Cây này mọc ở Nam Hải, được gọi là 'Mỵ thảo 媚草'. Trên cây có loài sâu, khi già sẽ lột xác thành bướm, màu đỏ vàng. Phụ nữ thường cất giữ con bướm này và gọi nó là 'Mỵ điệp' 媚蝶, vì cho rằng nó có thể khiến chồng yêu thương, quý mến.
1726567170477.png

 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cây Cam trá 甘吒

Hay còn gọi là loại giống khoai môn, có rễ và lá giống như khoai môn. Quả lớn như nắm tay, có loại lớn như bát, vỏ màu tím, thịt màu trắng. Khi hấp lên ăn, vị giống khoai từ, tính không quá lạnh. Ở đất Chu Nhai 珠崖 xưa kia, người dân sống trên biển đều không làm nghề cày cấy, chỉ đào đất để trồng cây Cam trá. Họ hấp, phơi khô rồi cắt nhỏ như hạt gạo, tích trữ trong kho để làm lương thực. Đó gọi là lương khô [nguyên văn糗: khứu]. Cây này được gọi là Cam hạ 甘嗄. Đại khái, người dân ở miền Nam, những người hai màu tóc, trăm người thì không có lấy một, hai người, chỉ có những người sống trên biển có thể sống hơn trăm tuổi là nhờ không ăn ngũ cốc mà ăn cây cam chạ này.
 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Loài hoa đẹp có Thủy Liên水蓮

Giống như hoa Sen, nhưng thân màu tím, mềm và không có gai. [tên khoa học: Nymphoides hydrophylla là một loài thực vật có hoa trong họ Menyanthaceae. Loài này được Kuntze mô tả khoa học đầu tiên năm 1891]
1726567282412.png

 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cây Thủy Tiêu 水蕉

Giống như cây Lộc Thông 鹿葱 [Lycoris squamigera là một loài thực vật có hoa trong họ Amaryllidaceae. Loài này được Maxim. mô tả khoa học đầu tiên năm 1885], có màu tím hoặc màu vàng. Vào thời [niên hiệu] Ngô Vĩnh An 吳永安, Tôn Hưu 孫休 từng sai sứ giả đi lấy hai loài hoa này nhưng không thể mang về được, chỉ vẽ hình để dâng lên.

[Ngô Vĩnh An 吳永安 là niên hiệu của Tôn Hưu 孫休, vị hoàng đế thứ ba của nước Đông Ngô trong thời kỳ Tam Quốc. Ông trị vì từ năm 258 đến năm 264. Tôn Hưu là con trai của Tôn Quân 孫權, người sáng lập nước Đông Ngô. Tôn Hưu chọn niên hiệu Vĩnh An 永安 trong suốt thời gian ông cai trị, bắt đầu từ năm 258. Niên hiệu này thường được sử dụng để chỉ giai đoạn triều đại của ông, tức là từ năm Vĩnh An thứ nhất (258) đến năm Vĩnh An thứ bảy (264)]
1726567342107.png
 
Chỉnh sửa cuối:

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cây và hoa Lc Thông
1726567402588.png


 

doctor76

Xe ba gác
Người OF
Biển số
OF-81790
Ngày cấp bằng
3/1/11
Số km
24,834
Động cơ
698,231 Mã lực
Nơi ở
Sơn La
Cây Củ Tương 蒟醬 và Tất Bạt 蓽茇

Loại mọc ở các nước man di thì lớn và có màu tím, được gọi là Tất bát蓽茇. Loại mọc ở Phiên Ngung thì nhỏ và có màu xanh, được gọi là cửu. Cả hai đều có thể dùng để điều vị thức ăn, vì vậy gọi là 'tương'醬 [thịt băm nát. Cũng như hải . Thức ăn nghiền nát. Như: quả tương 果醬 món trái cây xay nhuyễn, hoa sanh tương 花生醬 đậu phụng nghiền. Món ăn dùng các thứ đậu, ngô, gạo, ngâm ủ nấu gạn, cho muối vào nghiền nát. Như: thố tương 酢醬 tương chua giấm, điềm miến tương 甜麵醬 tương ngọt]. Ở Giao Chỉ và Cửu Chân, nhiều gia đình trồng loại cây này, mọc thành dây leo.

[Củ Tương: có lẽ là Tiêu dôi hay còn gọi là Tiêu gập là loài dây leo có hoa thuộc họ Hồ tiêu Piperaceae, được trồng để lấy quả dùng làm gia vị. Quả tiêu dôi có hình dạng và mùi vị tương tự quả tiêu lốt. Quả tiêu dôi chứa 44% đến 49% tinh bột, 10% đến 15% chất xơ, 8% tro và 1% tinh dầu]
1726567510889.png

1726567540488.png


[Tất Bạt 蓽茇, còn gọi là Tiêu lốt hay Hồ tiêu dài, tiêu dài, tiêu lá tím, tất bạt, trầu không dại là dây leo có hoa thuộc chi Hồ tiêu. Cây tiêu lốt được trồng để lấy quả làm gia vị và làm thuốc chữa bệnh. Tại Việt Nam, cây mọc dại khắp nơi]


1726567561748.png
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top