XXIV
[Ngày 20 tháng 2]
Ngày 20, thay Quốc vương viết thư phúc-đáp:
Thư viết thay An Nam Quốc Vương:
(Đây là thư của tác giả, thay mặt chúa Nguyễn, viết cho tướng Trịnh là Phạm Hữu Lễ, tháng 6 năm 1657, Trịnh Căn chia quân sai Hoàng Thể Giao, Lê Thì Hiến và Trịnh Thế Công vượt sông Lam đánh tướng Nguyễn là Tống Hữu Đại ở huyện Thanh Chương. Do có người tiết lộ, Hữu Tiến biết trước phòng bị nên quân Trịnh bị thua rút về bờ bắc sông Lam.
Hai bên tạm ngưng chiến cầm cự ở sông Lam, chỉ giao tranh những trận nhỏ. Tháng 6 năm 1658, tù trưởng Lang Công Chấn ở Quỳnh Lưu theo Nguyễn, mang quân đánh Trịnh, bị quân Trịnh đánh bại bắt được giải về Thăng Long. Tháng 7, quân Nguyễn vượt sông Lam thắng được Nguyễn Hữu Tá ở huyện Hưng Nguyên nhưng bị Lê Thì Hiến đánh bại phải rút về. Tháng 12, quân Trịnh đánh huyện Hương Sơn, thắng quân Nguyễn. Tháng 8 năm 1660, quân Trịnh lại đánh Nghi Xuân bị bại trận.
Trong khi ngoài mặt trận diễn ra các trận đánh lẻ tẻ thì phía trong mỗi bên đều lo củng-cố hậu phương. Hữu Dật nhân lúc ngưng chiến tung gián điệp ra Bắc dụ Phạm Hữu Lễ trấn thủ Sơn Tây, Văn Dũ trấn thủ Hải Dương làm phản Trịnh, lại hẹn họ Vũ (chúa Bầu) ở Tuyên Quang và họ Mạc ở Cao Bằng cùng nổi dậy. Tuy nhiên do lực lượng các cánh này đều yếu, nhất là hai cánh Vũ, Mạc đều có ý-đồ riêng. Tất cả có ý chờ quân Nguyễn vượt sông Lam, Bắc tiến thật mới ra mặt. Trong khi đó, quân Nguyễn cũng không còn mạnh, đi đánh xa lâu ngày đã mệt, lại cũng có ý chờ quân ngoài Bắc có biến mới dám đánh lớn. Hai bên dùng dằng chờ nhau. Chúa Trịnh biết Hữu Lễ thông-đồng với Nguyễn bèn dụ và giết chết)
Trộm nghe những bậc thánh triết tất phải nhân thời-cơ mà lập công, những người hiền trí và cao quý sẽ chính-danh rồi trị loạn, nhân cơ gặp hội, để cùng sánh vai làm việc. Nay tôi gặp cảnh trong nhà tương tranh để gây nhiều nỗi khó-khăn cho đất nước. Người con trai trưởng của tiên vương bị nhốt trong biệt cung, đồng minh của bọn loạn tặc được sủng-ái rồi giao nắm tất cả những chức-vụ có trách-nhiệm. Cốt nhục tương tàn, đọc sách sử thời xưa tôi không khỏi thấy buồn, tình nghĩa ngày trước nay chẳng được đoái hoài. Những người có chí đau lòng, nghĩa sĩ chẳng được ai được an-ủi, vỗ về.
May nay có Mỗ Quan ( quan có tên nhưng không nói ra, ở đây là tác giả, tuy không phục-vụ chúa Nguyễn, nhưng tác giả vẫn giữ lời hứa, không tiết-lộ chuyện cơ-mật), trong bụng thông cổ kim, tay nắm phong lôi, lên ngựa đuổi giặc chạy, xuống ngựa thảo văn chương, văn sự ung-dung phong-nhã, tài võ bị khiến quân mọi rợ sợ hãi. Được mệnh Trời cho tài lạ trị thế, bậc tuấn kiệt sinh ra để sửa thời. Nay xã tắc đang bị tàn phá, nhân dân ca thán, quyền hành bị soán cướp, nước ngụy Tân (nước Tân của Vương Mãng tự lập trong nhà Hán, ở đây ám chỉ họ Trịnh) được lập đã bốn đời ( là 4 đời chúa Trịnh: Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng, Trịnh Tráng và Trịnh Tạc), ai là người vùng lên ở đất Xuân Lăng (nơi Lưu Tú dấy quân diệt Vương Mãng, ý xui Hữu Lễ vùng lên giết Trịnh) ngày nay? Có người chắc hẳn hãy còn nhút nhát (nguyên văn 沮thư, có nghĩa là thấy việc trái lẽ mà không làm gì) dấu mình, nhưng phải phân phát (nhau) mà vùng lên cho thỏa chí nam nhi (nguyên văn: 雄 hùng)!
Nay xem địch đang có biến lớn, chỉ một trận thì đổi thay trăm sự [以圖一舉百全dĩ đồ nhất cử bách toàn]. Nhận được mật thư, tôi không thể không để tay lên trán [cảm thấy mình may mắn]. Tôi biết Mỗ quan hết lòng vì nước, dốc chí cần-vương để đất nước rạng-rỡ lâu dài và thần dân cùng được vui mừng.
Lương Quốc [Công, tức là Địch Nhân Kiệt, tự Hoài Anh, còn gọi là Lương Văn Huệ công, là một quan lại của nhà Đường cũng như của triều đại Võ Chu do Võ Tắc Thiên lập ra. Ông từng giữ chức tể tướng thời kỳ Võ Tắc Thiên trị-vì. Ông là người làm quan có tiếng là liêm-minh. Trong số những người được ông tiến cử có Trương Giản Chi, Hoàn Ngạn Phạm, Hổ Kính Huy, Đậu Hoài Trinh, Diêu Sùng, Tống Cảnh, Lý Nguyên Phương, Lý Giai Cố, Vương Hiếu Kiệt] phản Chu về với Đường, Phần Dương [Vương, tức là Quách Tử là một danh tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông phục vụ dưới 4 đời Hoàng đế nhà Đường là Đường Huyền Tông, Đường Túc Tông, Đường Đại Tông và Đường Đức Tông, có công rất lớn trong việc dẹp loạn An Sử. Do thanh thế lớn, ông được phong tước Phần Dương quận vương 汾陽郡王, và người đời gọi ông là Quách Lệnh Công 郭令公] diệt An Lộc Sơn rồi giết Sử Tư Minh. Trông ngày nay nào có kém xưa!
Hà Vô Kỵ [ Người đất Đàm đời Tấn. Có chí lớn từ nhỏ, làm quan đến chức Quảng Võ Tướng Quân. Khi Hoàn Huyền định soán ngôi vua, cùng Lưu Dụ Đẳng cử nghĩa binh phá tan quân phản-loạn. Được phong làm An Thành Quận Khai Quốc Hầu] giống hệt người cậu; Lưu Hạ Bì [ tức là Lưu Bị] há không phải là kẻ anh hào sao? Ai ai phải đều phấn chấn đứng lên đồng minh lại.
Mỗ sẽ động viên dân chúng để dấy binh vì công chứ không phải vì của. May nhờ được sự trợ-giúp của các quan nên có thể khích-lệ cả nước nhằm chống kẻ thù chung. Hãy cùng dẫn con cái cùng đi, không một ai muốn ở lại. Hãy lên đàn thề trước dân chúng, cùng tranh nhau đi trước. Nhờ lòng căm-thù sâu sắc, sự nghiệp trung-hưng sẽ được chóng thành. Hãy không để cho kẻ dịch nhòm ngó ngay bên hông, hoàn-thành việc thống-nhất đất nước (nguyên văn: vô khuyết chi kim âu; đúng ra là: 金甌無缺, kim âu vô khuyết, nghĩa là 1 nhà nước toàn thịnh, thống-nhất).
Mỗ sẽ xuất kỳ giành lấy thắng-lợi, kẻ địch phải chuẩn-bị nhiều mặt tất bị phân-tán sức lực. Mỗ Quan bên trong sẽ gây nhiễu-loạn, bên ngoài sẽ ứng viện, địch phòng-thủ phía này tất sẽ thất-bại phía kia.
Nay địch đã tập-trung đông đảo ngay trước mắt, việc lập-công sẽ nhanh chóng như trở bàn tay. Hãy phất cờ lập-công cho khí trung-nghĩa tràn đầy càn khôn: Người có công sẽ được phong tước, ban chén kim bôi, tổ tiên sẽ được thơm lây, phúc trạch lưu-truyền cho con cháu. Đấy không phải là sự-nghiệp vĩ đại của đại trượng phu hay niềm vui thú của kỳ nam tử hay sao?
Vì bận quân vụ nên. thảo thư này rất vội-vàng, ngày hội-ngộ không xa, lúc đó sẽ nói chuyện nhiều.
Tóm tắt khác: [ để chúa Nguyễn có thể tùy chọn)
Trung-hiếu là đại tiết trong thiên hạ, việc soán-nghịch là tội lớn nghìn đời. Bởi vậy, tất cả chúng sinh, không ai không biết cái "nghĩa" của điều đó. "Có người" (某人 mỗ nhân, chỉ các chúa Trịnh) xuất thân thật là hàn-vi, nhưng tâm-địa giống như loài Kiêu Kính (梟 con chim Kiêu theo quan niệm người TQ ăn thịt mẹ, con Phá kính 破獍 ăn thịt bố, vì thế gọi kẻ bất hiếu là “kiêu kính” 梟獍, ở đây ám chỉ chúa Trịnh, tổ các chúa Trịnh là Trịnh Kiểm vốn xuất thân là chăn trâu thuê và còn có lúc ăn trộm gà). Được giao việc chăn ngựa, nhưng xem ra cũng không được như Phi Tử [tức là Tần Phi Tử 秦非子, trị vì: 900 TCN - 858 TCN, là vị quân chủ khai-quốc của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc, được xem là tổ-tiên của Tần Thủy Hoàng, khởi-đầu, Phi Tử là con vợ thứ nên phải làm nghề chăn ngựa ở Khuyển Khâu (犬丘). Ông có tài nuôi ngựa, khiến cho đàn ngựa nhanh chóng sinh-sôi thêm nhiều] ở Vị Thành đời Tần, lại cậy công rồi cuối cùng tự xem mình như Nhượng Trọng [người nước Lỗ đời Xuân Thu. Trải 2 đời vua là Hy Công và Văn Công, lên đến chức Khanh. Khi Văn Công mất, phế Thái Tử cùng bè lũ gian tà xung quanh nhằm lập người con thứ của vua lên ngôi, tức là Tuyên Công] Việc dấy binh ở Tấn Dương [nơi Triệu Ưởng, tức Triệu Giản Tử, người nước Tấn khởi binh dẹp bọn loạn thần xung quanh vua vào thời Xuân thu Chiến quốc. Sau được vua Định Công phong làm Tể tướng] vốn không phải là chuyện tốt-đẹp trong nghĩa vua tôi, nhưng lời thề ước ở Đài Thành (tức là nơi vua ở) cũng chính vì không thể nhẫn-tâm nhìn vua bị giam phế.
Khi loài cáo vào đầy trong thành thì thành sẽ sụp đổ! Khi chuột đến gần cái bình thì phải đuổi chuột đi bằng không làm sao có thể tránh cho cái bình kia khỏi vỡ? Bốn đời ông, cha, con, cháu thảy đều ác đức, lũ lòng lang dạ thú lại còn phù-trợ chúng cho đến ngày nay. Mượn danh-nghĩa lâu ngày mà không trả lại (có lẽ ám chỉ mượn danh-nghĩa Phò Lê Diệt Mạc của Trịnh Kiểm và Trịnh Tùng, sau này lại ép vua Lê ban tước Vương), sao biết được là chuyện giành ngôi không có thật? Dùng lăng trì xử người mà không thương-tiếc, xưa nay chưa hề từng nghe thấy.
Làm cho dân không biết cái nghĩa của mệnh trời [nguyên văn 三統 Tam-Thống, tức là: Thiên Thống, Địa Thống và Nhân Thống; bắt đầu từ ba đời Hạ, Ân, Chu, ở đây có nghĩa như: Thiên Mệnh] thật là có ý muôn giết muôn dân.
[Ngày 20 tháng 2]
Ngày 20, thay Quốc vương viết thư phúc-đáp:
Thư viết thay An Nam Quốc Vương:
(Đây là thư của tác giả, thay mặt chúa Nguyễn, viết cho tướng Trịnh là Phạm Hữu Lễ, tháng 6 năm 1657, Trịnh Căn chia quân sai Hoàng Thể Giao, Lê Thì Hiến và Trịnh Thế Công vượt sông Lam đánh tướng Nguyễn là Tống Hữu Đại ở huyện Thanh Chương. Do có người tiết lộ, Hữu Tiến biết trước phòng bị nên quân Trịnh bị thua rút về bờ bắc sông Lam.
Hai bên tạm ngưng chiến cầm cự ở sông Lam, chỉ giao tranh những trận nhỏ. Tháng 6 năm 1658, tù trưởng Lang Công Chấn ở Quỳnh Lưu theo Nguyễn, mang quân đánh Trịnh, bị quân Trịnh đánh bại bắt được giải về Thăng Long. Tháng 7, quân Nguyễn vượt sông Lam thắng được Nguyễn Hữu Tá ở huyện Hưng Nguyên nhưng bị Lê Thì Hiến đánh bại phải rút về. Tháng 12, quân Trịnh đánh huyện Hương Sơn, thắng quân Nguyễn. Tháng 8 năm 1660, quân Trịnh lại đánh Nghi Xuân bị bại trận.
Trong khi ngoài mặt trận diễn ra các trận đánh lẻ tẻ thì phía trong mỗi bên đều lo củng-cố hậu phương. Hữu Dật nhân lúc ngưng chiến tung gián điệp ra Bắc dụ Phạm Hữu Lễ trấn thủ Sơn Tây, Văn Dũ trấn thủ Hải Dương làm phản Trịnh, lại hẹn họ Vũ (chúa Bầu) ở Tuyên Quang và họ Mạc ở Cao Bằng cùng nổi dậy. Tuy nhiên do lực lượng các cánh này đều yếu, nhất là hai cánh Vũ, Mạc đều có ý-đồ riêng. Tất cả có ý chờ quân Nguyễn vượt sông Lam, Bắc tiến thật mới ra mặt. Trong khi đó, quân Nguyễn cũng không còn mạnh, đi đánh xa lâu ngày đã mệt, lại cũng có ý chờ quân ngoài Bắc có biến mới dám đánh lớn. Hai bên dùng dằng chờ nhau. Chúa Trịnh biết Hữu Lễ thông-đồng với Nguyễn bèn dụ và giết chết)
Trộm nghe những bậc thánh triết tất phải nhân thời-cơ mà lập công, những người hiền trí và cao quý sẽ chính-danh rồi trị loạn, nhân cơ gặp hội, để cùng sánh vai làm việc. Nay tôi gặp cảnh trong nhà tương tranh để gây nhiều nỗi khó-khăn cho đất nước. Người con trai trưởng của tiên vương bị nhốt trong biệt cung, đồng minh của bọn loạn tặc được sủng-ái rồi giao nắm tất cả những chức-vụ có trách-nhiệm. Cốt nhục tương tàn, đọc sách sử thời xưa tôi không khỏi thấy buồn, tình nghĩa ngày trước nay chẳng được đoái hoài. Những người có chí đau lòng, nghĩa sĩ chẳng được ai được an-ủi, vỗ về.
May nay có Mỗ Quan ( quan có tên nhưng không nói ra, ở đây là tác giả, tuy không phục-vụ chúa Nguyễn, nhưng tác giả vẫn giữ lời hứa, không tiết-lộ chuyện cơ-mật), trong bụng thông cổ kim, tay nắm phong lôi, lên ngựa đuổi giặc chạy, xuống ngựa thảo văn chương, văn sự ung-dung phong-nhã, tài võ bị khiến quân mọi rợ sợ hãi. Được mệnh Trời cho tài lạ trị thế, bậc tuấn kiệt sinh ra để sửa thời. Nay xã tắc đang bị tàn phá, nhân dân ca thán, quyền hành bị soán cướp, nước ngụy Tân (nước Tân của Vương Mãng tự lập trong nhà Hán, ở đây ám chỉ họ Trịnh) được lập đã bốn đời ( là 4 đời chúa Trịnh: Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng, Trịnh Tráng và Trịnh Tạc), ai là người vùng lên ở đất Xuân Lăng (nơi Lưu Tú dấy quân diệt Vương Mãng, ý xui Hữu Lễ vùng lên giết Trịnh) ngày nay? Có người chắc hẳn hãy còn nhút nhát (nguyên văn 沮thư, có nghĩa là thấy việc trái lẽ mà không làm gì) dấu mình, nhưng phải phân phát (nhau) mà vùng lên cho thỏa chí nam nhi (nguyên văn: 雄 hùng)!
Nay xem địch đang có biến lớn, chỉ một trận thì đổi thay trăm sự [以圖一舉百全dĩ đồ nhất cử bách toàn]. Nhận được mật thư, tôi không thể không để tay lên trán [cảm thấy mình may mắn]. Tôi biết Mỗ quan hết lòng vì nước, dốc chí cần-vương để đất nước rạng-rỡ lâu dài và thần dân cùng được vui mừng.
Lương Quốc [Công, tức là Địch Nhân Kiệt, tự Hoài Anh, còn gọi là Lương Văn Huệ công, là một quan lại của nhà Đường cũng như của triều đại Võ Chu do Võ Tắc Thiên lập ra. Ông từng giữ chức tể tướng thời kỳ Võ Tắc Thiên trị-vì. Ông là người làm quan có tiếng là liêm-minh. Trong số những người được ông tiến cử có Trương Giản Chi, Hoàn Ngạn Phạm, Hổ Kính Huy, Đậu Hoài Trinh, Diêu Sùng, Tống Cảnh, Lý Nguyên Phương, Lý Giai Cố, Vương Hiếu Kiệt] phản Chu về với Đường, Phần Dương [Vương, tức là Quách Tử là một danh tướng nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông phục vụ dưới 4 đời Hoàng đế nhà Đường là Đường Huyền Tông, Đường Túc Tông, Đường Đại Tông và Đường Đức Tông, có công rất lớn trong việc dẹp loạn An Sử. Do thanh thế lớn, ông được phong tước Phần Dương quận vương 汾陽郡王, và người đời gọi ông là Quách Lệnh Công 郭令公] diệt An Lộc Sơn rồi giết Sử Tư Minh. Trông ngày nay nào có kém xưa!
Hà Vô Kỵ [ Người đất Đàm đời Tấn. Có chí lớn từ nhỏ, làm quan đến chức Quảng Võ Tướng Quân. Khi Hoàn Huyền định soán ngôi vua, cùng Lưu Dụ Đẳng cử nghĩa binh phá tan quân phản-loạn. Được phong làm An Thành Quận Khai Quốc Hầu] giống hệt người cậu; Lưu Hạ Bì [ tức là Lưu Bị] há không phải là kẻ anh hào sao? Ai ai phải đều phấn chấn đứng lên đồng minh lại.
Mỗ sẽ động viên dân chúng để dấy binh vì công chứ không phải vì của. May nhờ được sự trợ-giúp của các quan nên có thể khích-lệ cả nước nhằm chống kẻ thù chung. Hãy cùng dẫn con cái cùng đi, không một ai muốn ở lại. Hãy lên đàn thề trước dân chúng, cùng tranh nhau đi trước. Nhờ lòng căm-thù sâu sắc, sự nghiệp trung-hưng sẽ được chóng thành. Hãy không để cho kẻ dịch nhòm ngó ngay bên hông, hoàn-thành việc thống-nhất đất nước (nguyên văn: vô khuyết chi kim âu; đúng ra là: 金甌無缺, kim âu vô khuyết, nghĩa là 1 nhà nước toàn thịnh, thống-nhất).
Mỗ sẽ xuất kỳ giành lấy thắng-lợi, kẻ địch phải chuẩn-bị nhiều mặt tất bị phân-tán sức lực. Mỗ Quan bên trong sẽ gây nhiễu-loạn, bên ngoài sẽ ứng viện, địch phòng-thủ phía này tất sẽ thất-bại phía kia.
Nay địch đã tập-trung đông đảo ngay trước mắt, việc lập-công sẽ nhanh chóng như trở bàn tay. Hãy phất cờ lập-công cho khí trung-nghĩa tràn đầy càn khôn: Người có công sẽ được phong tước, ban chén kim bôi, tổ tiên sẽ được thơm lây, phúc trạch lưu-truyền cho con cháu. Đấy không phải là sự-nghiệp vĩ đại của đại trượng phu hay niềm vui thú của kỳ nam tử hay sao?
Vì bận quân vụ nên. thảo thư này rất vội-vàng, ngày hội-ngộ không xa, lúc đó sẽ nói chuyện nhiều.
Tóm tắt khác: [ để chúa Nguyễn có thể tùy chọn)
Trung-hiếu là đại tiết trong thiên hạ, việc soán-nghịch là tội lớn nghìn đời. Bởi vậy, tất cả chúng sinh, không ai không biết cái "nghĩa" của điều đó. "Có người" (某人 mỗ nhân, chỉ các chúa Trịnh) xuất thân thật là hàn-vi, nhưng tâm-địa giống như loài Kiêu Kính (梟 con chim Kiêu theo quan niệm người TQ ăn thịt mẹ, con Phá kính 破獍 ăn thịt bố, vì thế gọi kẻ bất hiếu là “kiêu kính” 梟獍, ở đây ám chỉ chúa Trịnh, tổ các chúa Trịnh là Trịnh Kiểm vốn xuất thân là chăn trâu thuê và còn có lúc ăn trộm gà). Được giao việc chăn ngựa, nhưng xem ra cũng không được như Phi Tử [tức là Tần Phi Tử 秦非子, trị vì: 900 TCN - 858 TCN, là vị quân chủ khai-quốc của nước Tần - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc, được xem là tổ-tiên của Tần Thủy Hoàng, khởi-đầu, Phi Tử là con vợ thứ nên phải làm nghề chăn ngựa ở Khuyển Khâu (犬丘). Ông có tài nuôi ngựa, khiến cho đàn ngựa nhanh chóng sinh-sôi thêm nhiều] ở Vị Thành đời Tần, lại cậy công rồi cuối cùng tự xem mình như Nhượng Trọng [người nước Lỗ đời Xuân Thu. Trải 2 đời vua là Hy Công và Văn Công, lên đến chức Khanh. Khi Văn Công mất, phế Thái Tử cùng bè lũ gian tà xung quanh nhằm lập người con thứ của vua lên ngôi, tức là Tuyên Công] Việc dấy binh ở Tấn Dương [nơi Triệu Ưởng, tức Triệu Giản Tử, người nước Tấn khởi binh dẹp bọn loạn thần xung quanh vua vào thời Xuân thu Chiến quốc. Sau được vua Định Công phong làm Tể tướng] vốn không phải là chuyện tốt-đẹp trong nghĩa vua tôi, nhưng lời thề ước ở Đài Thành (tức là nơi vua ở) cũng chính vì không thể nhẫn-tâm nhìn vua bị giam phế.
Khi loài cáo vào đầy trong thành thì thành sẽ sụp đổ! Khi chuột đến gần cái bình thì phải đuổi chuột đi bằng không làm sao có thể tránh cho cái bình kia khỏi vỡ? Bốn đời ông, cha, con, cháu thảy đều ác đức, lũ lòng lang dạ thú lại còn phù-trợ chúng cho đến ngày nay. Mượn danh-nghĩa lâu ngày mà không trả lại (có lẽ ám chỉ mượn danh-nghĩa Phò Lê Diệt Mạc của Trịnh Kiểm và Trịnh Tùng, sau này lại ép vua Lê ban tước Vương), sao biết được là chuyện giành ngôi không có thật? Dùng lăng trì xử người mà không thương-tiếc, xưa nay chưa hề từng nghe thấy.
Làm cho dân không biết cái nghĩa của mệnh trời [nguyên văn 三統 Tam-Thống, tức là: Thiên Thống, Địa Thống và Nhân Thống; bắt đầu từ ba đời Hạ, Ân, Chu, ở đây có nghĩa như: Thiên Mệnh] thật là có ý muôn giết muôn dân.