[Funland] [Đàm đạo Lịch sử] Sơ lược về nền khoa cử Việt Nam

Sứa.

Xe container
Biển số
OF-792935
Ngày cấp bằng
10/10/21
Số km
5,105
Động cơ
341,518 Mã lực
Tuổi
30
Cũ dẫn đúng rồi ạ, tiến sĩ xuất thân mà cụ trích đều được yết tên ở bảng Giáp (tức là hạng đầu, chính thức) còn Phó bảng, sở dĩ tên là phó bảng vì nó ko phải là bảng Giáp mà là bảng Ất :) gọi nôm na là "tiến sĩ vớt"
Đúng là Phó là bảng phụ nhưng một số cụ đủ điểm vẫn đc phong Tiến Sĩ xuất thân mà, tất nhiên ko phải tất cả.
 

ChienXuanAng

Xe đạp
Biển số
OF-839848
Ngày cấp bằng
8/9/23
Số km
39
Động cơ
1,137 Mã lực
Tuổi
33
Đúng là Phó là bảng phụ nhưng một số cụ đủ điểm vẫn đc phong Tiến Sĩ xuất thân mà, tất nhiên ko phải tất cả.
trên giấy tờ có thể gọi là tiến sĩ cụ ạ, nhưng thực tế đều không ai đỗ phó bảng dám nhận xằng tiên sĩ xuất thân, nhiều cụ hậm hực cả đời vì cái "phó bảng". Em cũng chỉ đọc thông tin từ nhóm Nghieen cứu lịch sử. Xin trích và gửi link lại để cụ soi ạ.
Thời Minh Mạng, đến khoa thi Hội thứ 3 (1829), ngoài đỗ hạng trúng cách, nhà vua cho lấy đỗ thêm một số thí sinh. Quy định của triều đình: Thí sinh qua 4 kỳ đạt 10 điểm trở lên thì đỗ chánh trúng cách và được vào thi Đình, 4 kỳ đạt từ 4 đến 9 điểm hoặc 3 kỳ đạt 10 điểm mà có một kỳ bất cập phân (tức zê rô điểm) thì cho đỗ loại lấy thêm. Nhà vua cho lấy hạng đỗ thêm vì có lẽ qua hai khoa thi Hội năm 1822, 1826 thấy số lượng đỗ tiến sĩ quá ít, không đủ nguồn lực bổ sung vào bộ máy nhà nước. Loại đỗ lấy thêm được ghi tên ở bảng Ất (tức bảng phụ nên thường gọi là Phó bảng); còn những người trúng cách (đỗ chính thức) thì tên ghi ở bảng Giáp (bảng chính). Đỗ Phó bảng rồi thì không được thi Hội lại lần sau.

Phó bảng sau khi đỗ Hội xong thì được cấp phát văn bằng và trở về quê quán để chờ triều đình bổ nhiệm quan chức, chứ không được vào thi Đình như những thí sinh trúng cách. Mãi đến các khoa 1877, 1879, 1880, thời vua Tự Đức, mới cho phép Phó bảng được vào thi Đình; đến thời vua Kiến Phúc (1884) thì Phó bảng lại không được phép thi Đình. Năm 1885, thời vua Hàm Nghi lại cho phó bảng được thi Đình.

Sau khi vua Thành Thái lên ngôi vua, việc thi Hội, thi Đình được sắp xếp lại theo một quy củ thống nhất và được áp dụng bắt đầu từ khoa thi Hội năm 1889 cho đến khoa cuối cùng năm 1919:

+ Thi Hội có tất cả 4 kỳ, thí sinh nào cộng tất cả 4 kỳ được 8 phân trở lên mà không có kỳ nào bị bất cập (điểm liệt) thì đỗ hạng chánh trúng cách (chính thức); thí sinh cộng 3 kỳ được 8 phân trở lên mà có một kỳ bất cập hoặc cộng 4 kỳ được từ 4 đến 7 phân mà không có kỳ nào bất cập thì đỗ hạng phó trúng cách (còn gọi là thứ trúng cách). Hai hạng này đều được phép vào thi Đình.

+ Thi Đình được quy định điểm đỗ: 10 phân đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ đệ nhất danh (Trạng Nguyên); 8-9 phân đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ đệ nhị danh (Bảng Nhãn); 6-7 phân đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ đệ tam danh (Thám Hoa); 4-5 phân đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân; 3 phân đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân; 1-2 phân đỗ Phó bảng.

Những người đã đỗ trúng cách ở thi Hội thì vào thi Đình dù văn bài chỉ đạt 1-2 phân vẫn được đỗ Đệ tam giáp tiến sĩ, còn những người đỗ phó trúng cách thì phải đạt từ 3 phân trở lên mới đỗ tiến sĩ, còn 1-2 phân thì chỉ đỗ phó bảng. Những trường hợp phó trúng cách ở khoa thi Hội mà đỗ vượt lên tiến sĩ ở kỳ thi Đình rất hiếm hoi, còn đa số đều an phận ở hàng phó bảng.

Sau khi chấm thi Đình xong, những người đỗ chính thức ở ba hạng nhất, nhì, ba được ghi tên ở bảng Giáp (chính bảng), những người đỗ phó bảng được ghi tên ở bảng Ất (phụ bảng).

Người đỗ chính thức được gọi là tiến sĩ giáp bảng (tiến sĩ bảng chính), gọi tắt là tiến sĩ; người đỗ phó bảng gọi là tiến sĩ bảng Ất (tiến sĩ bảng phụ), gọi tắt là phó bảng.

Như vậy, ta có thể hình dung rằng tiến sĩ và phó bảng cùng đỗ một cấp thi, nhưng hai bậc đỗ: tiến sĩ là hạng đỗ chính thức, còn phó bảng là loại đỗ khuyến khích. Và phó bảng cũng là là tiến sĩ: Tiến sĩ là loại đỗ chính thức, tên ghi ở bảng chính (Giáp tiến sĩ); Phó bảng là loại đỗ khuyến khích, tên ghi ở bảng phụ (Ất tiến sĩ).

Vì vậy, gọi là Ất tiến sĩ đúng về mặt chữ nghĩa hơn và tên học vị này được ghi trong văn bằng do triều đình cấp phát, còn Phó bảng chỉ là cách gọi vắn tắt của từ bảng phụ. Thuật ngữ Phó bảng phổ biến trong dân gian hơn, tuy vậy cũng sẽ dễ gây ra sự hiểu lầm của nhiều người không am hiểu về khoa cử thời Nguyễn, cứ đinh ninh rằng Phó bảng là một học vị không phải là tiến sĩ.


Sự thiệt thòi của Phó bảng

Trong suốt hơn trăm năm khoa cử thời Nguyễn, qua cách đãi ngộ của triểu đình đối với những người đỗ đại khoa, ta có thể thấy được sự bất cân xứng giữa tiến sĩ và phó bảng.

1.Phó bảng không được tham dự kỳ thi Đình. Từ khi học vị Phó bảng xuất hiện năm 1829 đến năm 1875, suốt hơn 60 năm, sau khi thi Hội có kết quả thì những người đỗ Phó bảng không được tham dự kỳ thi Đình. Thỉnh thoảng theo nhu cầu chính trị, nhà vua cho phép phó bảng được thi Đình ở một số khoa (1877, 1879, 1880…) mà thôi.

Đến khoa thi Hội năm 1889, đời vua Thành Thái, mới có quy định phó bảng được chính thức thi Đình và duy trì mãi cho đến khi thi cử Hán học chấm dứt vào năm 1919 dưới thời vua Khải Định.

  1. 2. Phó bảng không được Xướng danh (truyền lô). Sau khi thi Đình có kết quả, triều đình tổ chức lễ Truyền lô (xướng danh) cho các tân khoa tiến sĩ. Ngày truyền lô, từ sáng sớm tại cửa Ngọ Môn, các quan trong hội đồng chấm thi y phục chỉnh tề tụ tập đông đủ; một người thư lại cầm danh sách những người thi đỗ, khi đọc đến tên người nào thì một người lính ngồi trên mình voi cầm loa hướng ra bốn phía xướng to đến 3 lần, ví dụ: “…đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh, Nghệ An tỉnh, Nam Đàn huyện, Khánh Sơn xã, Nguyễn Văn Y”… Lễ xướng danh chỉ dành cho những người đỗ tiến sĩ giáp bảng, chứ tiến sĩ ất bảng thì không có.
3.Treo bảng. Những khoa thi mà Phó bảng không được phép thi Đình thì sau khi có kết quả thi Hội, Hội đồng giám khảo sẽ cho chia làm hai bảng: Một bảng chính ghi tên những người trúng cách (đỗ chính thức) và một bảng phụ cho những người đỗ phó bảng. Hai bảng đều màu đỏ. Bảng chính được thực hiện theo nghi lễ một cách long trọng: Tấm bảng được đặt trên chiếc mâm lớn, trùm khăn nhiễu vàng, do một người lính kính cẩn bưng đi trước, các quan trong hội đồng giám khảo theo sau, đi vào cung điện trình lên nhà vua; và sau khi được vua duyệt y thì các quan trang trọng rước tấm bảng tiến ra cửa Ngọ Môn, đi đến Phu Văn Lâu và cho treo bảng lên trong 3 ngày. Còn bảng phụ thì chỉ cho treo trong một ngày và không có nghi lễ gì cả.

Ở các khoa thi mà Phó bảng được phép thi Đình thì kết quả ở thi Hội vẫn treo bảng như đã miêu tả ở trên, còn sau khi thi Đình có kết quả thì treo bảng như sau:

– Bảng chính (Giáp bảng) màu vàng có vẽ hình rồng nên thường gọi là long bảng (bảng rồng) hoặc hoàng bảng, kim bảng (bảng vàng). Bản này ghi tên những người đỗ chính thức, gồm các tiến sĩ ở 3 giáp (đệ nhất, đệ nhị, đệ tam). Sau lễ Truyền lô thì bảng vàng sẽ được đưa đến treo ở chính giữa đền Phu Văn Lâu 3 ngày cho thiên hạ chiêm ngưỡng, sau đó được cất vào nơi lưu trữ của triều đình.

– Bảng phụ (Ất bảng) màu đỏ. Bảng này ghi tên những người đỗ phó bảng. Bảng phụ được treo ở cái chái bên cạnh Phu Văn Lâu, thấp hơn bảng chính một chút.

  1. Tiệc yến. Sau khi dự lễ Truyền lô xong thì tiến sĩ giáp bảng được ban áo mão và theo phái đoàn quan chức trong Hội đồng giám khảo và các đại thần trong triều vào sân điện để lạy tạ nhà vua. Hôm sau, các tân khoa tiến sĩ sẽ được vua đãi tiệc yến tại cung điện. Sau khi dự tiệc, các tân khoa sẽ được hướng dẫn đi thăm vườn Thượng Uyển của nhà vua và làm thơ xướng họa; rồi hôm sau nữa lại tiếp tục được triều đình cử quan chức, lính hầu che lọng dẫn các ông đi dạo chơi phố xá ở kinh thành.
  2. Bia đá. Để tôn vinh và lưu danh tên tuổi những người đỗ đại khoa, mỗi khoa thi triều đình lại cho dựng một tấm bia khắc đầy đủ tiểu sử vắn tắt của các tiến sĩ giáp bảng đã đỗ ở khoa đó. Bia đá được dựng ở nhà Văn Miếu ở phía tây kinh thành Huế, thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên – Huế ngày nay. Tổng cộng có tất 32 tấm bia đá ghi tên 293 tiến sĩ các khoa thi từ 1822 đến 1919 (chính thức có 292 người, về sau thêm Bùi Văn Dị được đặc cách nên tộng cộng là 293 người).
Phó bảng không được khắc tên vào bia đá.

  1. Vinh quy bái tổ. Sau khi hưởng đầy đủ những đặc ân của triều đình tại kinh đô thì tiến sĩ được sử dụng ngựa trạm để về quê và được dân địa phương đón rước vinh quy bái tổ. Theo quy định của triều đình phong kiến thì những người đỗ tiến sĩ sẽ được dân hàng tổng (gồm nhiều làng) khoảng dăm bảy trăm người được cắt cử đi theo hương chức các làng, gia đình người thi đỗ và viên chức của huyện sở tại, đem theo cờ trống võng lọng, lên tỉnh lỵ để đón rước về làng mở tiệc ăn mừng suốt mấy ngày trời.
Phó bảng thì không được triều đình quy định đón rước như tiến sĩ, cho nên phải trở về nhà âm thầm, không kèn không trống.

  1. Quan chức, phẩm hàm. Sau khi đỗ đạt, tiến sĩ và phó bảng đều được triều đình bổ nhiệm quan chức. Tuy vậy, buổi đầu bổ nhiệm bao giờ tiến sĩ cũng hơn phó bảng một bậc về chức vụ, phẩm hàm. Ví dụ: Tiến sĩ được bổ nhiệm tri phủ, hàm ngũ phẩm (bậc 5), trong khi phó bảng được bổ nhiệm tri huyện, hàm lục phẩm (bậc 6). https://nghiencuulichsu.com/2020/10/05/pho-bang-co-phai-la-tien-si/
 

chuot08

Xe lăn
Biển số
OF-113030
Ngày cấp bằng
16/9/11
Số km
13,161
Động cơ
478,858 Mã lực
Bài thi này được lấy đầu là bởi lời văn mượt mà đăng đối, biện luận giản dị chặt chẽ, kinh sách đều thông tỏ, tam giáo đều nắm được yếu lĩnh. Không bàn đến lời văn trang trọng lễ phép.
Còn về nội dung tư tưởng thì vẫn lọt thỏm trong khuôn khổ Nho học từ chương kinh viện, viết thì dài tốn chữ thực ra ý cũng chỉ từ câu đầu của sách Đại học mà triển khai, đó là "Minh minh đức, tân dân, chỉ ư chí thiện" áp dụng cho bản thân rồi đến quan lại các đối tượng.
Chưa kể, vụ "của cải chưa phong phú hàng hóa chưa lưu thông" thì thí sinh lờ tịt đi không đề cập đến.
Cảm ơn bác chuot08 sưu tầm và chịu khó gõ phím cho xem đề thi và bài làm của một thí sinh đỗ đạt trong thời quân chủ chuyên chế như thế này. Qua nội dung này, chúng mình cũng có thêm dữ liệu cho việc giả nhời câu hỏi "Tại sao người mình học giỏi mà nước mình nghèo và tại sao nước mình nghèo mà người mình nhiều anh học giỏi?"
Đặt trong hoàn cảnh xh thời đấy thì làm sao mà ko dùng Nho học để đi thi hử bác, liệu còn có thể dùng gì khác?! Em thấy cụ LTV trong bài có ý chính là nêu việc cần thiết phải cải cách bộ máy quan lại, thế là rất tiến bộ và phù hợp thời cuộc rồi.
Trên kia có cụ còm về việc thực thi kế sách này; và đánh giá cao Vua. E cũng thấy vua LTT mới đúng là Kts trưởng của công cuộc cải tổ thời đấy; và chính sách này cũng được áp dụng; các cụ như cụ LTV là cánh tay giúp việc. Thực ra khi ra đề chính là gợi mở, người làm bước vào mà thoả chí tung bút; nên việc ra đề gọi là “đề hay” là thế. Đề của vua LTT ko chỉ hay mà còn lộ ra tâm tư, ý muốn cải tổ xd đất nước của ông, nó thể hiện cái tầm của minh quân, chả thế mới có đời “Hồng Đức thịnh trị”, khoa cử đời này được đánh giá là rực rỡ nhất trong lịch sử.

Làng em nay, gần 100 năm về trước cũng chỉ là 1 thôn (chắc do xưa ít dân) ở thời Hồng Đức cũng có 1 cụ đỗ Hoàng Giáp, khoá sau cụ LTV hơn chục năm, làm chức Giám sát ngự sử.
Cụ Trạng Lường về sau có học trò nổi danh là cụ Lương Đắc Bằng; cụ Bằng lại là thầy cụ Trạng Trình Ng Bỉnh Khiêm; cụ Khiêm lại là thầy cụ Phùng Khắc Khoan; mạch khoa cử chỗ này sáng!
 
Chỉnh sửa cuối:

fun4u

Xe điện
Biển số
OF-396176
Ngày cấp bằng
10/12/15
Số km
2,862
Động cơ
-99,535 Mã lực
Nơi ở
Gia Long thành
Phê phán cách học cách thi cử kém hiệu quả thôi cụ, cho các OFer trong thớt quay lại 600 năm trước để thi cùng LTV thì cũng ko có giải gì đâu =))=))=))

Đặt trong hoàn cảnh xh thời đấy thì làm sao mà ko dùng Nho học để đi thi hử bác, liệu còn có thể dùng gì khác?! Em thấy cụ LTV trong bài có ý chính là nêu việc cần thiết phải cải cách bộ máy quan lại, thế là rất tiến bộ và phù hợp thời cuộc rồi.
Trên kia có cụ còm về việc thực thi kế sách này; và đánh giá cao Vua. E cũng thấy vua LTT mới đúng là Kts trưởng của công cuộc cải tổ thời đấy; và chính sách này cũng được áp dụng; các cụ như cụ LTV là cánh tay giúp việc. Thực ra khi ra đề chính là gợi mở, người làm bước vào mà thoả chí tung bút; nên việc ra đề gọi là “đề hay” là thế. Đề của vua LTT ko chỉ hay mà còn lộ ra tâm tư, ý muốn cải tổ xd đất nước của ông, nó thể hiện cái tầm của minh quân, chả thế mới có đời “Hồng Đức thịnh trị”, khoa cử đời này được đánh giá là rực rỡ nhất trong lịch sử.

Làng em nay, gần 100 năm về trước cũng chỉ là 1 thôn (chắc do xưa ít dân) ở thời Hồng Đức cũng có 1 cụ đỗ Hoàng Giáp, khoá sau cụ LTV hơn chục năm, làm chức Giám sát ngự sử.
Cụ Trạng Lường về sau có học trò nổi danh là cụ Lương Đắc Bằng; cụ Bằng lại là thầy cụ Trạng Trình Ng Bỉnh Khiêm; cụ Khiêm lại là thầy cụ Phùng Khắc Khoan; mạch khoa cử chỗ này sáng!
 

chuot08

Xe lăn
Biển số
OF-113030
Ngày cấp bằng
16/9/11
Số km
13,161
Động cơ
478,858 Mã lực
Phê phán cách học cách thi cử kém hiệu quả thôi cụ, cho các OFer trong thớt quay lại 600 năm trước để thi cùng LTV thì cũng ko có giải gì đâu =))=))=))
Vớ vỉn còn 1 nách bế em một tay cầm cuốc đi mót khoai chứ ở đấy mà thi! :D
 

chuot08

Xe lăn
Biển số
OF-113030
Ngày cấp bằng
16/9/11
Số km
13,161
Động cơ
478,858 Mã lực
trên giấy tờ có thể gọi là tiến sĩ cụ ạ, nhưng thực tế đều không ai đỗ phó bảng dám nhận xằng tiên sĩ xuất thân, nhiều cụ hậm hực cả đời vì cái "phó bảng". Em cũng chỉ đọc thông tin từ nhóm Nghieen cứu lịch sử. Xin trích và gửi link lại để cụ soi ạ.
Thời Minh Mạng, đến khoa thi Hội thứ 3 (1829), ngoài đỗ hạng trúng cách, nhà vua cho lấy đỗ thêm một số thí sinh. Quy định của triều đình: Thí sinh qua 4 kỳ đạt 10 điểm trở lên thì đỗ chánh trúng cách và được vào thi Đình, 4 kỳ đạt từ 4 đến 9 điểm hoặc 3 kỳ đạt 10 điểm mà có một kỳ bất cập phân (tức zê rô điểm) thì cho đỗ loại lấy thêm. Nhà vua cho lấy hạng đỗ thêm vì có lẽ qua hai khoa thi Hội năm 1822, 1826 thấy số lượng đỗ tiến sĩ quá ít, không đủ nguồn lực bổ sung vào bộ máy nhà nước. Loại đỗ lấy thêm được ghi tên ở bảng Ất (tức bảng phụ nên thường gọi là Phó bảng); còn những người trúng cách (đỗ chính thức) thì tên ghi ở bảng Giáp (bảng chính). Đỗ Phó bảng rồi thì không được thi Hội lại lần sau.

Phó bảng sau khi đỗ Hội xong thì được cấp phát văn bằng và trở về quê quán để chờ triều đình bổ nhiệm quan chức, chứ không được vào thi Đình như những thí sinh trúng cách. Mãi đến các khoa 1877, 1879, 1880, thời vua Tự Đức, mới cho phép Phó bảng được vào thi Đình; đến thời vua Kiến Phúc (1884) thì Phó bảng lại không được phép thi Đình. Năm 1885, thời vua Hàm Nghi lại cho phó bảng được thi Đình.

Sau khi vua Thành Thái lên ngôi vua, việc thi Hội, thi Đình được sắp xếp lại theo một quy củ thống nhất và được áp dụng bắt đầu từ khoa thi Hội năm 1889 cho đến khoa cuối cùng năm 1919:

+ Thi Hội có tất cả 4 kỳ, thí sinh nào cộng tất cả 4 kỳ được 8 phân trở lên mà không có kỳ nào bị bất cập (điểm liệt) thì đỗ hạng chánh trúng cách (chính thức); thí sinh cộng 3 kỳ được 8 phân trở lên mà có một kỳ bất cập hoặc cộng 4 kỳ được từ 4 đến 7 phân mà không có kỳ nào bất cập thì đỗ hạng phó trúng cách (còn gọi là thứ trúng cách). Hai hạng này đều được phép vào thi Đình.

+ Thi Đình được quy định điểm đỗ: 10 phân đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ đệ nhất danh (Trạng Nguyên); 8-9 phân đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ đệ nhị danh (Bảng Nhãn); 6-7 phân đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ đệ tam danh (Thám Hoa); 4-5 phân đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân; 3 phân đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ xuất thân; 1-2 phân đỗ Phó bảng.

Những người đã đỗ trúng cách ở thi Hội thì vào thi Đình dù văn bài chỉ đạt 1-2 phân vẫn được đỗ Đệ tam giáp tiến sĩ, còn những người đỗ phó trúng cách thì phải đạt từ 3 phân trở lên mới đỗ tiến sĩ, còn 1-2 phân thì chỉ đỗ phó bảng. Những trường hợp phó trúng cách ở khoa thi Hội mà đỗ vượt lên tiến sĩ ở kỳ thi Đình rất hiếm hoi, còn đa số đều an phận ở hàng phó bảng.

Sau khi chấm thi Đình xong, những người đỗ chính thức ở ba hạng nhất, nhì, ba được ghi tên ở bảng Giáp (chính bảng), những người đỗ phó bảng được ghi tên ở bảng Ất (phụ bảng).

Người đỗ chính thức được gọi là tiến sĩ giáp bảng (tiến sĩ bảng chính), gọi tắt là tiến sĩ; người đỗ phó bảng gọi là tiến sĩ bảng Ất (tiến sĩ bảng phụ), gọi tắt là phó bảng.

Như vậy, ta có thể hình dung rằng tiến sĩ và phó bảng cùng đỗ một cấp thi, nhưng hai bậc đỗ: tiến sĩ là hạng đỗ chính thức, còn phó bảng là loại đỗ khuyến khích. Và phó bảng cũng là là tiến sĩ: Tiến sĩ là loại đỗ chính thức, tên ghi ở bảng chính (Giáp tiến sĩ); Phó bảng là loại đỗ khuyến khích, tên ghi ở bảng phụ (Ất tiến sĩ).

Vì vậy, gọi là Ất tiến sĩ đúng về mặt chữ nghĩa hơn và tên học vị này được ghi trong văn bằng do triều đình cấp phát, còn Phó bảng chỉ là cách gọi vắn tắt của từ bảng phụ. Thuật ngữ Phó bảng phổ biến trong dân gian hơn, tuy vậy cũng sẽ dễ gây ra sự hiểu lầm của nhiều người không am hiểu về khoa cử thời Nguyễn, cứ đinh ninh rằng Phó bảng là một học vị không phải là tiến sĩ.


Sự thiệt thòi của Phó bảng

Trong suốt hơn trăm năm khoa cử thời Nguyễn, qua cách đãi ngộ của triểu đình đối với những người đỗ đại khoa, ta có thể thấy được sự bất cân xứng giữa tiến sĩ và phó bảng.

1.Phó bảng không được tham dự kỳ thi Đình. Từ khi học vị Phó bảng xuất hiện năm 1829 đến năm 1875, suốt hơn 60 năm, sau khi thi Hội có kết quả thì những người đỗ Phó bảng không được tham dự kỳ thi Đình. Thỉnh thoảng theo nhu cầu chính trị, nhà vua cho phép phó bảng được thi Đình ở một số khoa (1877, 1879, 1880…) mà thôi.

Đến khoa thi Hội năm 1889, đời vua Thành Thái, mới có quy định phó bảng được chính thức thi Đình và duy trì mãi cho đến khi thi cử Hán học chấm dứt vào năm 1919 dưới thời vua Khải Định.

  1. 2. Phó bảng không được Xướng danh (truyền lô). Sau khi thi Đình có kết quả, triều đình tổ chức lễ Truyền lô (xướng danh) cho các tân khoa tiến sĩ. Ngày truyền lô, từ sáng sớm tại cửa Ngọ Môn, các quan trong hội đồng chấm thi y phục chỉnh tề tụ tập đông đủ; một người thư lại cầm danh sách những người thi đỗ, khi đọc đến tên người nào thì một người lính ngồi trên mình voi cầm loa hướng ra bốn phía xướng to đến 3 lần, ví dụ: “…đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh, Nghệ An tỉnh, Nam Đàn huyện, Khánh Sơn xã, Nguyễn Văn Y”… Lễ xướng danh chỉ dành cho những người đỗ tiến sĩ giáp bảng, chứ tiến sĩ ất bảng thì không có.
3.Treo bảng. Những khoa thi mà Phó bảng không được phép thi Đình thì sau khi có kết quả thi Hội, Hội đồng giám khảo sẽ cho chia làm hai bảng: Một bảng chính ghi tên những người trúng cách (đỗ chính thức) và một bảng phụ cho những người đỗ phó bảng. Hai bảng đều màu đỏ. Bảng chính được thực hiện theo nghi lễ một cách long trọng: Tấm bảng được đặt trên chiếc mâm lớn, trùm khăn nhiễu vàng, do một người lính kính cẩn bưng đi trước, các quan trong hội đồng giám khảo theo sau, đi vào cung điện trình lên nhà vua; và sau khi được vua duyệt y thì các quan trang trọng rước tấm bảng tiến ra cửa Ngọ Môn, đi đến Phu Văn Lâu và cho treo bảng lên trong 3 ngày. Còn bảng phụ thì chỉ cho treo trong một ngày và không có nghi lễ gì cả.

Ở các khoa thi mà Phó bảng được phép thi Đình thì kết quả ở thi Hội vẫn treo bảng như đã miêu tả ở trên, còn sau khi thi Đình có kết quả thì treo bảng như sau:

– Bảng chính (Giáp bảng) màu vàng có vẽ hình rồng nên thường gọi là long bảng (bảng rồng) hoặc hoàng bảng, kim bảng (bảng vàng). Bản này ghi tên những người đỗ chính thức, gồm các tiến sĩ ở 3 giáp (đệ nhất, đệ nhị, đệ tam). Sau lễ Truyền lô thì bảng vàng sẽ được đưa đến treo ở chính giữa đền Phu Văn Lâu 3 ngày cho thiên hạ chiêm ngưỡng, sau đó được cất vào nơi lưu trữ của triều đình.

– Bảng phụ (Ất bảng) màu đỏ. Bảng này ghi tên những người đỗ phó bảng. Bảng phụ được treo ở cái chái bên cạnh Phu Văn Lâu, thấp hơn bảng chính một chút.

  1. Tiệc yến. Sau khi dự lễ Truyền lô xong thì tiến sĩ giáp bảng được ban áo mão và theo phái đoàn quan chức trong Hội đồng giám khảo và các đại thần trong triều vào sân điện để lạy tạ nhà vua. Hôm sau, các tân khoa tiến sĩ sẽ được vua đãi tiệc yến tại cung điện. Sau khi dự tiệc, các tân khoa sẽ được hướng dẫn đi thăm vườn Thượng Uyển của nhà vua và làm thơ xướng họa; rồi hôm sau nữa lại tiếp tục được triều đình cử quan chức, lính hầu che lọng dẫn các ông đi dạo chơi phố xá ở kinh thành.
  2. Bia đá. Để tôn vinh và lưu danh tên tuổi những người đỗ đại khoa, mỗi khoa thi triều đình lại cho dựng một tấm bia khắc đầy đủ tiểu sử vắn tắt của các tiến sĩ giáp bảng đã đỗ ở khoa đó. Bia đá được dựng ở nhà Văn Miếu ở phía tây kinh thành Huế, thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên – Huế ngày nay. Tổng cộng có tất 32 tấm bia đá ghi tên 293 tiến sĩ các khoa thi từ 1822 đến 1919 (chính thức có 292 người, về sau thêm Bùi Văn Dị được đặc cách nên tộng cộng là 293 người).
Phó bảng không được khắc tên vào bia đá.

  1. Vinh quy bái tổ. Sau khi hưởng đầy đủ những đặc ân của triều đình tại kinh đô thì tiến sĩ được sử dụng ngựa trạm để về quê và được dân địa phương đón rước vinh quy bái tổ. Theo quy định của triều đình phong kiến thì những người đỗ tiến sĩ sẽ được dân hàng tổng (gồm nhiều làng) khoảng dăm bảy trăm người được cắt cử đi theo hương chức các làng, gia đình người thi đỗ và viên chức của huyện sở tại, đem theo cờ trống võng lọng, lên tỉnh lỵ để đón rước về làng mở tiệc ăn mừng suốt mấy ngày trời.
Phó bảng thì không được triều đình quy định đón rước như tiến sĩ, cho nên phải trở về nhà âm thầm, không kèn không trống.

  1. Quan chức, phẩm hàm. Sau khi đỗ đạt, tiến sĩ và phó bảng đều được triều đình bổ nhiệm quan chức. Tuy vậy, buổi đầu bổ nhiệm bao giờ tiến sĩ cũng hơn phó bảng một bậc về chức vụ, phẩm hàm. Ví dụ: Tiến sĩ được bổ nhiệm tri phủ, hàm ngũ phẩm (bậc 5), trong khi phó bảng được bổ nhiệm tri huyện, hàm lục phẩm (bậc 6). https://nghiencuulichsu.com/2020/10/05/pho-bang-co-phai-la-tien-si/
Phó bảng cũng nhiều cụ, trải qua thực việc mà nổi danh ghê ghớm ko vừa, ngoài cụ Ng Sinh Sắc có cụ Phương đình Nguyễn Văn Siêu, dân gian vẫn gọi “văn như thần Siêu, chữ như thánh Quát”; cụ Tổng đốc Hoàng Diệu, cụ Phan Chu Trinh, Phạm Hy Lượng.
Cụ Ng Xuân Đàm nhà cụ 5008 trên kia, về quan với hàm nhị phẩm, để lại tiếng cho đời cũng nổi.
 

Bachsima

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-327829
Ngày cấp bằng
20/7/14
Số km
17,737
Động cơ
434,776 Mã lực
Khoa cử thịnh trị, đạo Phật đạo Lão tà đạo, cuối cùng đạo Nho là cái đưa cả dân tộc xuống mồ nô lệ, vì vua quan chẳng biết đối xử với đạo khác ra sao.
Cái vạ thời Tự Đức, nó xuất phát từ cái nhìn nhận tôn giáo sai lầm từ thời Lê Thánh tông.
Đến mấy trăm năm sau, vẫn còn mấy anh bưng lên hít, tài tài là.
 

chuot08

Xe lăn
Biển số
OF-113030
Ngày cấp bằng
16/9/11
Số km
13,161
Động cơ
478,858 Mã lực
Khoa cử thịnh trị, đạo Phật đạo Lão tà đạo, cuối cùng đạo Nho là cái đưa cả dân tộc xuống mồ nô lệ, vì vua quan chẳng biết đối xử với đạo khác ra sao.
Cái vạ thời Tự Đức, nó xuất phát từ cái nhìn nhận tôn giáo sai lầm từ thời Lê Thánh tông.
Đến mấy trăm năm sau, vẫn còn mấy anh bưng lên hít, tài tài là.
Tuỳ mũi và cách hít thôi cụ! Kẻ thấy thối người thấy thơm, chuyện bình thường! :D
 

formen

Xe lăn
Biển số
OF-485699
Ngày cấp bằng
27/1/17
Số km
13,247
Động cơ
298,533 Mã lực
Vớ vỉn còn 1 nách bế em một tay cầm cuốc đi mót khoai chứ ở đấy mà thi! :D
Công nhận cụ ợ, trc khi có gúc lượng thông tin nạp vào trí não con ng vô cùng ít ỏi, k đi đc nhiều, k đọc đc nhiều để học xa, hiểu rộng.
Tầm nhìn hạn chế, cơ sở vật chất k có, quanh ăn là hết ngày, đói méo loa thì k có 1 bụng chữ đc.
 

Bachsima

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-327829
Ngày cấp bằng
20/7/14
Số km
17,737
Động cơ
434,776 Mã lực
Tuỳ mũi và cách hít thôi cụ! Kẻ thấy thối người thấy thơm, chuyện bình thường! :D
Cụ Trạng Lường khen vua là bậc tiên thánh, thế là ẩy cụ vua sang bên thần tiên đạo Lão, thế là ẩy vua vào tà đạo mất rồi.
Dân gian bẩu đấy là nghệ thuật khen r ắm quan thơm.
Cụ thấy thường thì tùy cụ thôi
 

Bachsima

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-327829
Ngày cấp bằng
20/7/14
Số km
17,737
Động cơ
434,776 Mã lực
Nói Hồng Đức thịnh trị thì cũng chỉ béo mỗi cụ vua, đến thời Uy Mục, Tương Dực là lầm than. Tức là cái khoa cử đời Thánh tông không chọn ra ai làm thầy vua, dạy vua theo đường cụ Khổng "quân quân, thần thần" rồi.
Cái thịnh trị ngắn tủn hoẳn thế mà mấy trăm năm sau lại còn định học theo, khen hay.
Nẫu thật.
 

Bachsima

[Tịch thu bằng lái]
Biển số
OF-327829
Ngày cấp bằng
20/7/14
Số km
17,737
Động cơ
434,776 Mã lực
Mà bảo thịnh trị thì địa chủ có mấy con trâu, lực điền lúc giáp hạt có đủ gạo ăn không, ngày mấy bát cơm cũng chả ai ghi lại. Toàn thấy Tao đàn thơ phú khen nhau qua lại xưng nhau lên tiên thánh tà đạo.
Té ra mình các ổng được hành tà, còn lại chỉ có ngồi mà xem.
 

chuot08

Xe lăn
Biển số
OF-113030
Ngày cấp bằng
16/9/11
Số km
13,161
Động cơ
478,858 Mã lực
Công nhận cụ ợ, trc khi có gúc lượng thông tin nạp vào trí não con ng vô cùng ít ỏi, k đi đc nhiều, k đọc đc nhiều để học xa, hiểu rộng.
Tầm nhìn hạn chế, cơ sở vật chất k có, quanh ăn là hết ngày, đói méo loa thì k có 1 bụng chữ đc.
Nếu có danh xưng “Vạn thế sư biểu” 1 lần nữa, e nghĩ phải là Gs Gúc! Nói ko ngoa chứ nhờ Gs Gúc mà ta biết đến tận mấy nghìn năm as ngoài kia có gì, há miệng lộ cả lá rau muống dắt răng mà chém vượt ra ngoài vũ trụ, tháo mũ bảo hiểm ngoảnh đầu nhìn lại thì vượt cả nghìn năm khoa cử về trước; việc nhỏ thì như cách đánh tiết canh vịt hay kho cá riềng mẻ, việc lớn lại càng vô cùng. Vạn thế sư biểu thời mới, ngoài Gs Gúc e là ko ai xứng!
 
Biển số
OF-739045
Ngày cấp bằng
11/8/20
Số km
253
Động cơ
59,701 Mã lực
Tuổi
44
Cụ Trạng Lường khen vua là bậc tiên thánh, thế là ẩy cụ vua sang bên thần tiên đạo Lão, thế là ẩy vua vào tà đạo mất rồi.
Dân gian bẩu đấy là nghệ thuật khen r ắm quan thơm.
Cụ thấy thường thì tùy cụ thôi
Tiên thánh ở đây có lẽ là thánh nhân đời trước đó cụ chứ không Tiên trong đạo Lão.
 

XPQ

Xe cút kít
Biển số
OF-25733
Ngày cấp bằng
13/12/08
Số km
19,093
Động cơ
548,529 Mã lực
Nơi ở
Trỏng
Cụ Trạng Lường khen vua là bậc tiên thánh, thế là ẩy cụ vua sang bên thần tiên đạo Lão, thế là ẩy vua vào tà đạo mất rồi.
Dân gian bẩu đấy là nghệ thuật khen r ắm quan thơm.
Cụ thấy thường thì tùy cụ thôi

Điện ngọc ngai cao mộng vàng rắm quý
Trong như tiếng sáo tiếng diều thoang thoảng mùi lan mùi huệ
Chúa ở trên điện đã đành mở cửa năm xe
Tôi đứng dưới thềm cũng được nhờ hơi một tí

Giả tỉ đương lúc trang nghiêm triều bái, đức kim thượng xấu bụng nhỡ một cái mà ông lại đứng dưới ông bật cười khằng khặc, nếu không kịp ứng khẩu mà nịnh lấp thì nó chém cụt sủ. Không phải đã qua tam trường, không thể trong một cái rắm mà thành thơ được như thế, Tào Thực có dậy cũng chỉ vậy mà thôi. Có chữ cũng lợi những lúc biến nguy thanh an như thế, chửa biết đâu lại được sủng ái cấp cho mấy cái súp hao liền kề cũng nên.
 

fun4u

Xe điện
Biển số
OF-396176
Ngày cấp bằng
10/12/15
Số km
2,862
Động cơ
-99,535 Mã lực
Nơi ở
Gia Long thành
Dân giàu có thì mới có thể nộp nhiều tô thuế cho triều đình để binh sỹ LTT ấm bụng mới có thể Nam tiến diệt Chăm Pa lập đạo thừa tuyên thứ 13 của Đại Việt gọi là Quảng Nam, Tây phạt Bồn Man sát nhập vào Đại Việt thành Trấn Ninh, vv

Võ công của LTT cũng ở level cực phẩm hiển hách trong lịch sử đó chứ. Chứng tỏ thời này rất thịnh trị.

Nói Hồng Đức thịnh trị thì cũng chỉ béo mỗi cụ vua, đến thời Uy Mục, Tương Dực là lầm than. Tức là cái khoa cử đời Thánh tông không chọn ra ai làm thầy vua, dạy vua theo đường cụ Khổng "quân quân, thần thần" rồi.
Cái thịnh trị ngắn tủn hoẳn thế mà mấy trăm năm sau lại còn định học theo, khen hay.
Nẫu thật.
 
Chỉnh sửa cuối:

XPQ

Xe cút kít
Biển số
OF-25733
Ngày cấp bằng
13/12/08
Số km
19,093
Động cơ
548,529 Mã lực
Nơi ở
Trỏng
Đặt trong hoàn cảnh xh thời đấy thì làm sao mà ko dùng Nho học để đi thi hử bác, liệu còn có thể dùng gì khác?! Em thấy cụ LTV trong bài có ý chính là nêu việc cần thiết phải cải cách bộ máy quan lại, thế là rất tiến bộ và phù hợp thời cuộc rồi.
Trên kia có cụ còm về việc thực thi kế sách này; và đánh giá cao Vua. E cũng thấy vua LTT mới đúng là Kts trưởng của công cuộc cải tổ thời đấy; và chính sách này cũng được áp dụng; các cụ như cụ LTV là cánh tay giúp việc. Thực ra khi ra đề chính là gợi mở, người làm bước vào mà thoả chí tung bút; nên việc ra đề gọi là “đề hay” là thế. Đề của vua LTT ko chỉ hay mà còn lộ ra tâm tư, ý muốn cải tổ xd đất nước của ông, nó thể hiện cái tầm của minh quân, chả thế mới có đời “Hồng Đức thịnh trị”, khoa cử đời này được đánh giá là rực rỡ nhất trong lịch sử.

Làng em nay, gần 100 năm về trước cũng chỉ là 1 thôn (chắc do xưa ít dân) ở thời Hồng Đức cũng có 1 cụ đỗ Hoàng Giáp, khoá sau cụ LTV hơn chục năm, làm chức Giám sát ngự sử.
Cụ Trạng Lường về sau có học trò nổi danh là cụ Lương Đắc Bằng; cụ Bằng lại là thầy cụ Trạng Trình Ng Bỉnh Khiêm; cụ Khiêm lại là thầy cụ Phùng Khắc Khoan; mạch khoa cử chỗ này sáng!
Thì thế! Sự dạy và sự học bó trong một khung nội dung có từ hàng nghìn năm, miễn không sai chính tả hay quên sách thì phần hơn thua chủ yếu ở chỗ rổn rảng chữ nghĩa hùng hồn văn khí mượt mà câu cú cốt lấy lòng người đọc mà thôi.
 

formen

Xe lăn
Biển số
OF-485699
Ngày cấp bằng
27/1/17
Số km
13,247
Động cơ
298,533 Mã lực
Thì thế! Sự dạy và sự học bó trong một khung nội dung có từ hàng nghìn năm, miễn không sai chính tả hay quên sách thì phần hơn thua chủ yếu ở chỗ rổn rảng chữ nghĩa hùng hồn văn khí mượt mà câu cú cốt lấy lòng người đọc mà thôi.
Cụ nào cho con AI đời mới viết bài luận theo đề của vua LTT ra xem nó nịnh ra răng.
 
Thông tin thớt
Đang tải
Top