[Funland] Chiến tranh lạnh (1945-1991)

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực

14-10-1962, Tổng thống John Kennedy tới Carlyle Hotel (NewYork) thảo luận với Đại sử Mỹ tại LHQ Adlai Stevenson về vấn đề Congo và Cuba


29-10-1962, Tổng thống Kennedy trao đổi với các cố vấn (trong đó có cả Bộ trưởng quốc phòng Robert McNamara) về vấn đề tên lửa Liên Xô đặt ở Cuba


Tổng thống Kennedy cám ơn truyền thông Mỹ đã làm hết sức mình trong vụ khủng hoảng tên lửa ở Cuba. Edward Murrow, Giám đốc Cơ quan thông tin Hoa Kỳ (USIA), đứng cạnh Kennedy
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực

21-11-1962 – bệnh viện dã chiến và xe cứu thương tại sân bay Opa Locka (Miami, Florida) trong thời gian khủng hoàng tên lửa Cuba. Ảnh: Harold Valentine



21-11-1962, dù Liênđồng ý tháo dỡ tên lửa ở Cuba đưa vể nước, nhưng các đơn vị tên lửa phòng không Mỹ ở bãi biển Key West (Florida) vẫn trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu. Ảnh: Harold Valentine



27-10-1962 – hai binh sĩ ngồi trong một hầm trú ấn với súng máy sát bãi biền Key West (Florida). Ảnh: Harold Valentine



27-10-1962 - tên lửa phòng không Mỹ đặt sát bờ biển Key Wesf (Florida). Ảnh: Harold Valentine
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực

21-10-1962, binh sĩ Mỹ được chở tới căn cứ Guantanamo (Cuba)



10-1962 - Ba mươi ba máy bay F-100D đỗ thành hàng (không binh thường) tại Căn cứ không quân Homestead, tiểu bang Florida, trong thời gian khủng hoảng tên lửa ở Cuba



1-10-1962 – Tổng thống John F. Kennedy (phải) trao đổi với người em trai của mình Tổng chưởng lý Robert F. Kennedy tại Nhà Trắng về tình hình căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Liên Xô


23-10-1962, báo chí Mỹ đăng tin: Lệnh phong toả Cuba có hiệu lực từ 10 A.M (GMT) ngày 24-10-1962



10-1962 - Sĩ quan Không quân chiến lược phân tích không ảnh trinh sát trong cuộc khùng hoảng tên lửa Cuba



10-1962 - quân nhân Căn cứ không quân Travis (tiểu bang California) chuẩn bị đối phó với cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực

1962 – Khu trục hạm USS John R. Pierce(DD-753) là một trong hai tàu chiến Mỹ phát hiện ra tàu thuỷ Liên Xô chở tên lửa tới Cuba


 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Theo thoả thuận Xô-Mỹ, Liên Xô chỉ để lại tên lửa mang tính phòng thủ (dưới 60 km) và tên lửa phòng không SA-2, sẽ rút hết những tên lửa tầm ngắn và tầm trung cùng máy bay ném bom hạng nhẹ Il-28 về nước
Những tàu thuỷ chở tên lửa và máy bay sẽ không che phủ để máy bay và tàu chiến Mỹ có thể thanh tra, kiểm soát


12-11-1962 – khu trục hạm USS Vesole và máy bay tuần phòng Lockheed P3V-1 giám sát tàu LiênPotzunov chở tên lửa ra khỏi Cuba. Ảnh: Carl Mydans

















 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực

12-11-1962 – khu trục hạm USS Vesole và máy bay tuần phòng Lockheed P3V-1 giám sát tàu LiênPotzunov chở tên lửa ra khỏi Cuba. Ảnh: Carl Mydans




















12-11-1962 – khu trục hạm USS Vesole và máy bay tuần phòng Lockheed P3V-1 giám sát tàu LiênPotzunov chở tên lửa ra khỏi Cuba. Ảnh: Carl Mydans
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực




12-11-1962 – máy bay tuần phỏng Lockheed P3V-1 giám sát tàu Liên Xô chở tên lửa ra khỏi Cuba. Ảnh: Carl Mydans


10-11-1962 – khu trục hạm USS Barry và máy bay tuần phòng Lockheed P3V-1 Orion giám sát tàu Liên Xô Anosov chở 8 tên lửa đạn đạo ra khỏi Cuba. Ảnh: Carl Mydans



10-11-1962 – khu trục hạm USS Barry và máy bay tuần phòng Lockheed P3V-1 Orion giám sát tàu Liên Xô Anosov chở 8 tên lửa đạn đạo ra khỏi Cuba. Ảnh: Carl Mydans



6-11-1962 – khu trục hạm USS Barry và máy bay tuần phòng Lockheed P3V-1 Orion giám sát tàu Liên Xô Anosov chở 8 tên lửa đạn đạo ra khỏi Cuba. Ảnh: Carl Mydans



6-11-1962 – USS Barry (Mỹ) bám sát tàu hàng Anosov (Liên Xô) ngoài khơi Costa Rica. Tàu Anosov chở 8 tên lừa đạn đạo ra khỏi Cuba. Ảnh: Frank Cancellare
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực

5-12-1962 – tàu Kasimov (Liên Xô) chở 15 thân máy bay ném bom Il-28, rút khỏi Cuba, để hở (không che) cho Mỹ kiểm tra từ trên không


5-12-1962 – tàu Kasimov (Liên Xô) chở 15 thân máy bay ném bom Il-28, rút khỏi Cuba, để hở (không che) cho Mỹ kiểm tra từ trên không


5-11-1962 – tên lửa Liên Xô đưa xuống tàu thủy tại cảng Mariel (Cuba) để rời khôi Cuba


6-11-1962 – quân nhân Liên Xô bốc 6 tên lửa đưa xuống tàu Xô viết tại cảng Casilda (Cuba). Chú ý: bóng chiếc máy bay trinh sát RF-101 bay thấp in trên cầu cảng


10-11-1962 – tàu chién Mỹ Dahlgren (mang tên lừa có điều khiển) bám sát tàu thương mại Leninsky Komsomol (Liên Xô) rời càng Casilda (Cuba). Ảnh: Henry Burroughs


10-11-1962 – máy bay tuần biển P2V Neptune (Mỹ) theo dõi tàu thuỷ chờ tên lửa Liên Xô từ Cuba về nước


10-11-1962 – Tàu khu trục Mỹ Barry và máy bay tuần biển bám sát tàu chở hàng Anosov của Liên Xô mang tên lửa rút khỏi Cuba, cách đông bắc Puerto Rico 780 hải lý
 
Chỉnh sửa cuối:

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực

6-11-1962 – tàu hàng Anosov chờ 8 tên lửa đạn đạo rời khỏi Cuba. Ảnh: Carl Mydans



10-11-1962 – tàu hàng Anosov chờ 8 tên lửa đạn đạo rời khỏi Cuba (chụp ở ngoài khơi Puerto Rico). Ảnh: Carl Mydans


10-11-1962 – tàu hàng Anosov chờ 8 tên lửa đạn đạo rời khỏi Cuba (chụp ở ngoài khơi Puerto Rico). Ảnh: Carl Mydans




9-11-1962 – tàu Leninsky Kosomol chở 4 tên lửa không phủ bạt trên boong rút ra khỏi Cuba
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
DAG HAMMARSKJÖLD
Tổng thư ký Liên hiệp quốc Dag Hammarskjöld với chuyến bay định mệnh và nghi vấn gần 60 năm trước đây
Hôm 18-9-1961, cách đây hơn 57 năm, Dag Hammarskjöld, Tổng thư ký Liên hiệp quốc đã tử nạn trong một tai nạn máy bay để lại nhiều nghi vấn.


Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Dag Hammarskjold năm 1960. Ảnh: Elliott Erwitt











Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Dag Hammarskjold năm 1960


22-5-1953 – Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc Dag Hammarskjold tại cuộc họp báo ở Geneve
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Bối cảnh khủng hoảng
Năm 1960, nước Cộng hoà Congo vừa giành được độc lập từ Vương quốc Bỉ, lại có bất ổn về chính trị. Tỉnh Katanga, dưới sự lãnh đạo của Moise Tschombé, tuyên bố li khai. Đồng thời, chính quyền trung ương lại chia thành những người ủng hộ thể chế liên bang của Tổng thống Joseph Kasavubu và những người ủng hộ chế độ hợp nhất của T.hủ tướng Patrice Lumumba.
Nội chiến vẫn tiếp tục kéo dài ở Congo, một đất nước nhiều tài nguyên, nhất là Uranium và được sự quan tâm đặc biệt từ nhiều phía, trong đó có Liên Xô và Hoa Kỳ. Nếu như Patrice Lumumba trực tiếp kêu gọi sự ủng hộ của Liên Xô, thì Hoa Kỳ sẽ phải đứng về phía ngược lại, ai cũng được, miễn là người đó chống lại Lumumba.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực

2-1961 – Omar Loutfi (Cộng hoà Ả Rập Thống nhất) gặp Tổng thư ký LHQ Dag Hammarskjold (phải) bàn vể vấn để khủng hoảng Congo. Ảnh: Al Fenn



Tổng thư ký LHQ Dag Hammarskjold tại New York, tháng 4-1956. Ảnh: Usa Larsen



28-11-1954 – Tổng thư kỷ LHQ Dag Hammarskjold trao đổi với Yakob Malik, Đại sứ Liên Xô tại Liên Hợp Quốc



1956 – Tổng thư kỷ LHQ Dag Hammarskjold tới sân bay Lydda trong chuyến đi từ Beirut (Lebanon) tới Cairo (Ai Cập)


 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Tháng 1-1961, T.hủ tướng Lumumba bị ám sát, cuộc khủng hoảng Congo bắt đầu có lối thoát
Tháng 9-1961, chính quyền hợp nhất đứng đầu là ông Cyrille Adoulađã yêu cầu sự giúp đỡ của LHQ, trong đó kế hoạch đề ra là ổn định tình hình đất nước, thống nhất Congo, thủ tiêu chủ nghĩa li khai bằng đàm phán hòa bình; và LHQ đã bắt đầu triển khai lực lượng của mình tại đây.
Giữa tháng 9-1961, Tổng thư ký Liên hợp quốc Dag Hammarskjöld quyết định bay đến Congo để bắt đầu cuộc nói chuyện hòa bình. Ông dự định gặp Moise Tschombé ở Ndola, Liên bang Rhodesia và Nyasaland (hiện nay là Zambia).


Tổng thư ký Liên hợp quóc Dag Hammarskjold (trái) gặp t,hủ tướng Moỉse Tshombe tại Elizabethville (Katanga, Congo) năm 1960. Ảnh: Ian Berry
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Hôm 17-9-1961, chiếc Douglas DC-6B của hãng Transair (Thụy Điển) chuẩn bị chở ông đi. Trước đó, nó đã bị hư hại một chút, do trúng mấy viên đạn nhưng được xác nhận là hoàn toàn có thể bay tốt vì chỉ bị hư hại nhẹ.
Thế là chiếc máy bay đã xuất phát, mang theo Tổng thư ký LHQ, một thư ký và một cố vấn của ông. Ngoài ra, còn có đội bảo vệ ba người chỉ huy bởi trung sỹ người Hoa Kỳ Harold Julien.
Chuyến đi về nguyên tắc được giữ bí mật, nhưng các thông tin điều tra sau này cho thấy, ở sân bay Ndola, người ta đã biết việc ông Tổng thư ký bay đến vào nhiều giờ trước. Còn có một điều đáng chú ý nữa là, chiếc máy bay hoàn toàn không có tiêm kích hộ tống.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
23h30 ngày 17-9-1961, nhân viên kiểm soát không lưu sân bay Ndola Campbell Martin nhận được tín hiệu liên lạc trên chiếc "Albertina" thông báo sẽ hạ cánh lúc 0h20.
Khoảng 0h10, lại có thông báo máy bay đang tiếp cận sân bay, và Campbell hướng dẫn phi công hạ độ cao xuống 1.800 mét để chuẩn bị hạ cánh.
Nhưng cũng ngay lúc đó, máy bay va vào cây, đâm vào sườn núi Ndola Hill, phát nổ ở độ cao 1.290 mét, trong khi đó lời khai sau này của Campbell Martin thì lại chắc chắn là máy bay vẫn ở độ cao 1.800 mét - và những hội thoại của anh ta với tổ lái, hoàn toàn không được ghi âm lại "máy ghi âm của tôi bị hỏng".
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Sau chừng 8 giờ tìm kiếm, người ta thấy máy bay rơi cách khoảng 15 km ở phía tây sân bay. Những người trên máy bay được thông báo là đã chết hết, ngoại trừ một người Hoa Kỳ Harold Julien trong tình trạng bị bỏng nặng. Harold Julien hôn mê, nói những câu rời rạc "nổ, tai nạn" hoặc ngược lại "tai nạn, nổ", "Dag Hammarskjöld nói "quay lại!" "đau, moócphin..." rồi chết sau vài ngày, không cung cấp được gì nhiều.
Cuộc điều tra được tiến hành bởi người Anh sau đó đã dẫn người ta đi đến nhiều giả thuyết. Lỗi của phi công? Một trong ba người phi công có hàm lượng cồn trong máu rất cao. Động cơ trục trặc? Tất cả các động cơ đều hoạt động và thậm chí gia tăng công suất vào thời điểm bị tai nạn.
Một giả thuyết nữa - máy bay bị bắn hạ. Trong cuốn sách khá nổi tiếng của nhà văn - nhà báo người Tiệp Václav Pavel Borovička "Những phát súng từ ổ phục kích", không hiểu sao tác giả lại quy nghi vấn cho một phi công đánh thuê người Bỉ trong lực lượng không quân của Katanga: Thiếu tá Joseph Doulin. Đây là một phi công thuộc hàng "Át" (Ace), chỉ bay một mình trên chiếc tiêm kích phản lực Fouga CM.170 Magister trên thân có viết biệt hiệu của anh ta "Lone Ranger" (Lữ khách cô đơn).
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Trong kết quả khám nghiệm, người ta phát hiện nhiều vết đạn và lỗ thủng đáng nghi ngờ trên thân máy bay của Tổng thư ký LHQ, về sau, kết luận điều tra cho rằng những lỗ thủng đó được gây ra bởi cành cây và những viên đạn của nhân viên an ninh trên máy bay phát nổ, xuyên thủng. Để loại trừ giả thuyết DC-6B "Albertina" bị bắn bởi Fouga CM.170 Magister, vì nó không đủ tầm bay tới Ndola rồi lại trở về căn cứ ở Kolwezi...
Còn một giả thuyết nữa là sự điều hành sai lầm (không biết có cố ý hay không) của bộ phận kiểm soát không lưu khi cung cấp số liệu độ cao sai, nhưng cũng rất kỳ lạ là DC-6B "Albertina" không có thiết bị ghi âm như thường có, và như đã nói trên đây, nhân viên không lưu "bị hỏng máy ghi âm".
Cuộc điều tra dường như được điều khiển bởi một thế lực nào đó, nên nó đã bỏ qua và che giấu đi nhiều thứ.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Năm 2011, thời điểm kỷ niệm 50 năm biến cố, tờ "The Guardian" đã lại đào xới vấn đề.
Göran Björkdahl, một nhân viên cứu hộ người Thụy Điển đến Ndola, đã đến hiện trường và tiếp tục cuộc điều tra do bố ông ta đã bắt đầu vào thập niên 1970, khi thân sinh của ông ở đây. Khi ấy, ông cụ đã hỏi nhiều người dân địa phương, tất cả các nhân chứng đều cho biết chiếc DC-6B bị bắn hạ bởi một chiếc máy bay thứ hai, nhỏ hơn - nhưng hồi đó Uỷ ban điều tra đã phớt lờ những thông tin này. Những nhân chứng bây giờ đã vào độ tuổi trên 70, hầu hết là những công nhân khai thác than trong vùng, đã cung cấp nhiều thông tin.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Một trong số đó là Dickson Mbewe, 84 tuổi (năm 2011), còn cho biết khoảng 5h sáng sớm hôm đó, Mbewe đi đến lò than của ông gần hiện trường vụ tai nạn, nơi ông thấy binh sĩ và cảnh sát đang giải tán người dân hiếu kỳ, nhưng theo báo cáo chính thức xác máy bay chỉ được phát hiện vào 3h chiều.
Göran Björkdahl cho rằng: chiếc "Albertina" gần như chắc chắn bị bắn hạ bởi một chiếc máy bay chiến đấu nhỏ hơn; Uỷ ban điều tra của Anh cũng như chính quyền Bắc Rhodesia đã bưng bít thông tin, cũng như phong tỏa hiện trường khá lâu trước khi công bố các thông tin; người nhân chứng sống sót duy nhất trên máy bay đã không được cứu chữa đúng mức mà bị để mặc nằm trong một bệnh viện nghèo nàn cho đến chết trong mấy ngày.
Nếu như sự việc lại được đào xới lên theo hướng này, thì giả thuyết của nhà báo V.P. Borovička về "lữ khách cô đơn" Joseph Doulin lái chiếc chiếc Fouga CM.170 Magister lại có lý.
 

Ngao5

Vũ Trụ
Người OF
Biển số
OF-44803
Ngày cấp bằng
28/8/09
Số km
54,969
Động cơ
1,127,704 Mã lực
Một thông tin từ một nhân chứng khác, phi công đánh thuê người Nam Phi Jerry Puren, thời điểm chiếc "Albertina" của Tổng thư ký tới Ndola, Puren đang ở dưới sân bay. Trước khi "Albertina" hạ cánh, Puren thấy có một chiếc khác, chiếc DC-4 của hàng không Anh chở Huân tước Lansdowne tới Ndola rồi đi tiếp đến Salisbury theo lệnh của Chính phủ Anh trước Tổng thư ký LHQ - London muốn tiếp tục can thiệp vào tình hình, nhưng một cách kín đáo hơn. Sau đó là các sự việc đã kể trên đây và "Albertina" bị rơi.
Puren đã ở phòng chờ sân bay được vài giờ, ngồi nói chuyện cùng hai phi công đánh thuê khác. Do là phi công, nên gì những quan sát được của họ là rất đáng tin cậy. Tất cả bọn họ đều nhìn thấy có một chiếc máy bay tiêm kích tấn công chiếc "Albertina", rồi ngoặt gấp, biến mất.
Trước những thông tin của tờ Guardian đưa về cuộc điều tra độc lập của Göran Björkdahl, các chuyên gia lịch sử Bộ Ngoại giao Anh cho biết họ không thể đưa ra bất cứ ý kiến gì.
Như vậy, sau hơn nửa thế kỷ, tấm màn bao phủ quanh cái chết của Hammarskjöld, vẫn còn chưa được vén lên.
 
Thông tin thớt
Đang tải

Bài viết mới

Top