Chánh niệm là từ Hán Việt (do VN tiếp xúc với kinh Phật qua tiếng Hán rất nhiều thế kỷ, gần đây mới có một số học giả VN học trực tiếp tiếng Pali hay Sankrit mới dịch trực tiếp). Chính thuộc về chính thức, chính quy, đúng đắn. Niệm thuộc về quan niệm, suy nghĩ, tư duy....
Chánh niệm là quan niệm, suy nghĩ, nhìn nhận, tư duy một cách đúng đắn.
Mấu chốt ở đâu là "đúng đắn": Thế nào được coi là đúng đắn?
Tư duy đúng đắn trong Phật giáo, là suy nghĩ, quan niệm về sự vật, sự việc như nó là, loại bỏ cảm xúc, tập khí, thói quen trong đánh giá sự vật sự việc. Con người tuyệt đại đa số bị bản năng, thói quen, nếp nghĩ bấy lâu tác động đến sự nhìn nhận vấn đề, sự vật. Sự chi phối đó đến từ cảm xúc, tập khí nếp nghĩ, thói quen, định kiến, thiên vị, yêu ghét, xúc động, sồn sồn, .... các sự chi phối này là tà niệm, do vậy cần nắn chỉnh nó về chính niệm, hay là chánh niệm.
Để nắn chính suy nghĩ về chánh niệm, đương nhiên là khó, phải tu thế nào, ăn uống thế nào, bỏ thói quen cũ (sồn sồn) và tạo thói quen mới (tĩnh tại bình tĩnh trước sự việc) ra sao, tập bỏ thói quen dễ tức giận sồn sồn, bỏ uống rượu say xỉn, hạn chế ăn thịt tập ăn chay (vì ăn thịt dễ ăn cả thớ sân hận của con vật khi bị giết có thể tác động đến vọng niệm),... nói chung là rất kỳ công để đạt tới chánh niệm.
Dĩ nhiên, có những trợ giúp để giúp ta gần hơn với chánh niệm, như là luyện hơi thở, kết hợp ngồi thiền mỗi ngày, sinh hoạt điều độ,...
Tổng kết lại, chánh niệm là suy nghĩ, tư duy đúng đắn.