Một bài báo viết về Hà Nội thời Nguyễn [Tự Đức]
HÀ-NỘI XƯA VÀ.... NAY
Tiên Đàm
“Hà Nội ba mươi sản phố phưởng, Hàng gạo, hàng đường, hàng muối trắng tinh..."
Câu hát ấy chỉ cho ta biết Hà Nội là một tỉnh nhiều phố, nhiều phường và trong những phường, phố ấy đều có một thứ buôn riêng, đến nay vẫn còn tên, cũ mặc dầu trong phố không còn hoặc còn ít thứ hàng ấy. Thì như: Hàng Vải Thâm nay buôn quần áo cũ; Hàng Bút, nay buôn giấy bản, v.v...
Nếu ta sống lui lại năm, sáu mươi năm trước và hỏi lại chuyện các bậc cổ lão, thì cổ đô Thăng-Long [các nhà truyền giáo gọi là Kẻ chợ] của các triều trước khác hẳn với thành phố Hà Nội nay. .
Tỉnh chia làm hai phần: Thành các quan ở và phía đông thành là phường phố ..
Phường phố, vị-trí ở trong khoảng từ hồ Hoàn-Kiếm đến bờ sông Nhị-Hà.
Tiếng gọi là phố – giả gọi từng «khu» một thì đúng hơn, — nhưng ít nhà ngói, còn thì nhà lá làm lộn sộn, quang-cảnh giống như một cái làng to. Có nhà làm quay hướng ra các hồ, ao.
Thành các quan ở có tường cao hào sâu. Các phố có hàng rào và cửa chắn.
Một di-tích còn lại ngày nay: cổng ô ở phố Mới, thường gọi ô Quan-trưởng và tên chữ là Đông-Hà môn.
Ngoài cái cổng này, các phố trông ra sông Nhị Hà cũng có cổng như : ô Hàng Đậu, ô Hàng Mã, ô Hàng Mắm (còn gọi là ô Ưu-Nghĩa), ô Hàng Sũ; nhưng các cổng này đều phá đi cả.
Đêm đến, các phố đều không thông với nhau nữa, vì các cổng đóng. Cổng ấy xây chắn ngang phố, hai bên cổng có gián yết thị của quan tổng đốc và quan Phòng thành cấm dân sự về việc đi đêm. Những cổng trên có cánh gỗ rất to, có toang vuông hoặc tròn, nặng tới hai ba người khiêng; tối đóng rồi thì ít khi mở, chỉ trừ lúc có lệnh trên.
Hồi ấy khu các Hoa kiều ở là phố Hàng Ngang đẹp hơn cả, vì cổng xây gạch, có bao lơn, rất chắc chắn, lại có vòm canh để phu điểm đứng, cho nên muốn vào khu ấy rất khó khăn.
Cổng ở Hàng Gai thật sơ sài: chỉ là một bức tường xây, có khoét cửa vuông chữ nhật như các nhà thường. Còn các phố nhỏ không có cổng gạch, chỉ có hàng rào gỗ hay tre, chòi canh lợp gianh hay lá, để phu điểm đứng tránh gió mưa.
Phố xá hồi ấy thế nào?
Trừ phố Khách [ phố Tàu] có lát đá tảng ở giữa lối đi, còn các phố khác đều là đường đất, bùn ngập đến mắt cá chân; lại thêm rác bẩn của các nhà và khách bộ hành vứt ra đường, không ai quét dọn ! Mùa mưa, thật là lầy lội. Một vài phố có lối lát gạch ở giữa, nhưng chỉ có một hàng để đủ đi lúc giời mưa cho khỏi lấm chân thôi.
Hai bên vệ đường không có rãnh, cống chi cả. Nước mưa ứ, đọng lại, đến mùa viêm nhiệt, để khi xông lên rất bẩn thỉu. Cho nên trong phố thường hay có bệnh thời khí !
Còn nhà hàng phố thì ai làm nhà đều theo ý mình, không có phép-tắc kiểu mẫu: cái nhô ra, cái thụt-vào ! Mỗi nhà đằng trước lại có mái hiên bằng lá, hay phên lếp, dưới dọn hàng, thành ra phố đã chật lại hẹp thêm. Một đôi khi có hỏa hoạn cháy tử ngoài cửa vào, chủ nhà chỉ còn cách chạy ra lối sau hoặc nhảy xuống ao, xuống hồ vì trong phố có nhiều ao, hồ, như hồ Hàng Đào, hồ Hàng Bỏ vv.) đề tránh nạn. Ở một vài nhà cở ngoài bục hàng ngày nay, ta hãy còn thấy, xây cái bể chứa nước để chữa cháy, vì mỗi gia chủ phải tự vệ lấy, chứ làm gì có sở cứu hỏa của nhà nước như bây giờ !
Sự đi lại trong phố thật là phiền-phức, nhất là mỗi khi có quan quân chạy qua, thì hai bên phố phải tránh ra hết, có nhà phải đóng cửa lại. Nếu gặp buổi phiên chợ, thì thật là bí tắc: người chạy nhốn-nháo, giày xéo lên nhau, không còn trật tự gì cả, chỉ lợi cho kẻ cắp thừa lúc ấy mà hoành hành.
Ở Hà-Nội có phiên chợ, thường họp vào ngày rằm và mồng một. Gặp những hôm ấy các dân quê miền phụ-cậu đều kéo vào tỉnh mua bán. Họ họp ngay giữa giời, ngoài hiên các phố. Những hàng củi họp ở Hàng Đào, hàng nồi ở Hàng Đồng, hàng nón ở Hàng Nón. Toàn tỉnh là một cái chợ to,quang-cảnh ồn-ào, sự đi lại bị ngừng trệ ! Sáng từ 7 giờ đến mãi quá trưa, từ bè phố đến ngoài đường, các hàng ngồi san-sát dài đến hơn hai cây số.
Ban ngày càng ồn ào bao nhiêu, quang cảnh ban đêm lại càng bình tĩnh bấy nhiêu: Cứ lặn mặt giời, các nhà đã đóng cửa im im. Ngoài phố, không có đèn. Những đêm không giăng, cư dân phải sống trong cảnh tối-tăm rùng-rợn. Ai đi đêm, phải mang đèn. Hồi ấy phải đi đêm là một sự bất đắc dĩ.
Tuy các cổng ô đã đóng chặt, nhưng các dân phố đi ngủ vẫn còn nơm nớp sợ. Một bà cụ kể rằng:
« Chập tối, dọn hàng xong là đi ngủ, nhà nào có tiền phải giấu kín hoặc chôn, hoặc đem gửi. Khi ngủ, thì lên gác lò [tức như gác xép], rút thang lên, cửa đóng thật chặt, ai gọi cũng không dám mở. Trong một gia-đình, kẻ ngủ, phải có người thức, cốt để phòng thủ trong những đêm trường hồi hộp. Ngoài đường vắng tanh, không ai đi lại, trừ ra mấy bác phu điểm cầm canh rời rạc, đập gậy chan-chát. Đến độ ba, bốn giờ sáng, các bác phu đã đập của từng nhà, gọi. « Hai bên hàng phố dậy mà trông lấy nhà!» Vì giờ ấy, họ bắt đầu đi ngủ cho đến sáng. Mà cũng giờ ấy các chú chích (kẻ trộm) bắt đầu hoành hành.
Nhà nước tuy có đặt quan Phòng thành, nhưng việc trị-an không có phương-pháp, chỉ trông vào mấy anh phu điểm canh gác vì được dân phố đặt tiền... ».
Sự sống « khủng bố » ấy làm cho dân Hà nội – nhất là mấy năm về cuối đời Tự-Đức (1881, 1882, 1883), ai ai cũng phải lo sợ. Thêm vào, lại có những tin bên ngoài phao đồn: nào Cờ đen, nào Cờ vàng, nào Tàu Ô... Nhiều nhà giàu phải bỏ thành thị mà về quê ăn náu.
Nếu được nhìn lại bức tranh trên, chúng ta sẽ lấy làm lạ lùng mà thấy quang cảnh Hà nội ngày nay: Hồ Gươm trong vắt, bóng lễu thướt-tha, đèn điện sáng đường phố rộng rãi, sạch sẽ, đi lại được dễ dàng, buôn bán tiện lợi... Ta sẽ mừng rằng đã may-mắn qua được những đêm rùng-rợn mà nhiều cụ đến nay mỗi khi nhắc lại vẫn còn ghê sợ tưởng như mình từ thế giới bị nọ bước sang thế giới kia vậy.
TIÊN-ĐÀM
Nguồn: Tạp Chí Tri Tân số 8 năm 1941