Trên đường cái quan, từ Đà Nẵng ra Huế, cổng Hải Vân Quan [ trên đèo Hải Vân] nhìn về phía Đà Nẵng, ảnh chụp năm 1898.
Tiếng Pháp:
Annam . Tourane à Hué . De la porte du col des Nuages, vers Tourane.
---------------------------
Ảnh của André Salles, thanh tra Đông Dương kiêm nhiếp ảnh gia.
---------------------------
Lúc này nhìn đèo Hải Vân trơ trọi, khác quá nhiều với những gì Thái Đình Lan, một văn sĩ Đài Loan đến nước ta năm 1836 mô tả:
二十六日,行廣南道中。見禾苗挺秀,新秧綠縟如茵,白鷺立田中不動,遠樹低迷。海中三台山分明鼎峙海中三石山號三台,空洞宏開,天然屋宇;俗傳昔有七蜘蛛巢其中,幻作好女為祟,後為佛所除,今稱七姊妹洞,高出地二丈許,望之屹然。晚宿嶺下屯。輞夫輞夫即輿夫也戒明日夙興飽飯,登隘嶺一路惟此嶺高峻,為越南最險重關。
曉色初分,出舍行二里許,皆在霧露中。仰視嶺際,雲封如積雪,縹緲接天,不見峰頂。朝暾已上,度一小嶺。曲徑斜穿出海岸,海水洶洶,飛濤吼浪,震響岩谷間。至小村口,有汛官屯守,盤詰甚嚴。循山麓而上,磴道迂回十餘里。兩旁荊棘叢雜,篁籜森森如蝟毛。樹間小鳥啁啾,鳴聲百變。野花開放,落英繽紛,其景不可名狀。過山半,高勢巉岩,石級鱗迭,若千丈雲梯。輞夫以輞子橫肩而行,眾護卒扶掖相助;舉膝礙胸,汗浹背如雨下。凡七、八里,始達嶺巔。憩古樹下,仰見堅垣壁立,以紫荊板厚尺許為門額,書「海山關」;設屯守員一員、勁卒數十,械炮環列,真飛鳥不得度也。登關以望,北臨大海,浩瀚迷茫,帆檣出沒,如數點鳧鷗浮沉蒼碧。嶺前東西各一港,內透重溪,可容千艘。清波微漾,素練平鋪,雲影天光,徘徊水面,足以蕩豁胸臆。西南一帶,箐密林深,為群象所宅;與麋鹿、猩猩蕃息其中,荒莽非人境。山木年久,大者數百圍;枝條樛結,蓊鬱凌霄,老藤纏繞,猿猱攀接成群,見人跳躑山多交臂猿,土人稱猿將軍。須臾,風度林杪,萬籟蕭騷,景象淒絕。餘乃悄然而下,別屯員。去關行六、七里,日垂暮,宿嶺上野人家。夜嚴寒,床頭燒榾柮與弟烘之。
次日晏發。行密樹中二、三里,出嶺右,俯瞰其下,則絕壁懸崖,深不見底。餘乃舍輞子,令二人掖以行。背負石,投足坎窩;連下三百餘坎,憩一石岡。複透迤前行,過三小嶺,悉嵓崿嶔□〈山上欹下〉。約十里許,始就平地海岸。緣岸數里,抵一大溪。渡溪,北有小市,設屯員盤查。輞夫為餘言:上嶺至此,所過神廟二十餘處俗稱本頭公,甚靈,行人投香楮不絕;雖日往來,無蛇虎之患者,神之庇也。嶺自嘉隆間始闢嘉隆,今國王父年號,當越南之中;一夫守隘,萬人莫開,故稱隘嶺,去富春百有四十里下去廣南百里。
Tạm dịch:
Ngày 26 [ Dương lịch ngày 12 tháng 2 năm 1836] đi trên đường Quảng Nam, thấy ruộng lúa tươi tốt, lúa non xanh một màu như tấm thảm; cò trắng đứng cao lêu nghêu trong ruộng, xa nhìn cây cối xanh mướt làm lòng đê mê. Phía biển có 3 quả núi, ,chia ra làm 3 chòm, động trống mở ra như 3 tòa nhà thiên nhiên [ tức là núi Ngũ Hành Sơn]; tục truyền xưa là hang 7 con nhện, biến thành gái đẹp ma quái, sau được Phật trừ diệt, nay gọi là động Thất Tỷ Muội [động 7 Chị Em], dáng cao vút hơn 2 trượng. Buổi tối trú tại đồn dưới đồi, người phu võng [khiêng cáng] dặn ngày mai dậy sớm, ăn no; để đi lên ải hẹp vì có một con đường qua núi cao dốc, là đèo hiểm trở nhất tại Việt Nam [đèo Hải Vân].
Sáng khi thấy mặt người, ra khỏi đồn đi khoảng 2 dặm trong sương mù. Ngưỡng nhìn trên đỉnh, mây che như tuyết phủ cuồn cuộn tiếp trời cao, nhìn không thấy núi. Bấy giờ mặt trời lên, đã qua được một đỉnh nhỏ. Một con đường nhỏ uốn khúc qua triền núi giáp biển, nước biển hung hãn, sóng xô ầm ầm, chấn động cả ghềnh đá. Rồi đến một thôn nhỏ, gặp một đồn lính có quan trấn thủ, tra hỏi rất nghiêm. Theo sườn núi đi lên, đường quanh co hơn 10 dặm, hai bên gai góc mọc đầy, rừng tre giăng mắc, trong lùm cây chim chóc líu lo, hàng trăm tiếng hót khác nhau; trên đường hoa dại nở rộ, cánh hoa rơi rụng khắp nơi , cảnh vật đẹp không thể tả xiết! Khi lên được nữa núi, thế núi dốc, đường đi từng bậc, như leo lên chiếc thang ngàn trượng lên mây; phu võng phải để võng trên vai mà đi, các lính hộ vệ ra tay giúp đỡ; [phải đi] thẳng gối, thót bụng, mồ hôi nhỏ trên lưng như mưa; qua 7,8 dặm mới lên đến đỉnh núi.
Ngồi nghỉ dưới gốc cổ thụ, nhìn lên vách tường đá, thấy tấm bảng dày 1 thước [0.32 mét] giăng ngang làm cổng, trên đề:
Hải Sơn Quan
Nơi đây đặt đồn, do viên Đồn thủ trông coi, lính tinh nhuệ vài chục người, phòng thủ xung quanh bằng đại bác, cẩn mật tới mức một con chim cũng không qua lọt. Lên quan ải nhìn xuống, phía Bắc là biển lớn ngút ngàn, thuyền buồm nhấp nhô, như những chim hải âu bơi lặn nơi biển xanh. Trước lãnh 2 phía đông tây có cảng, phía trong khe sâu, có thể chứa hàng ngàn thuyền. Nước trong sóng gợn, phô ra vẻ bình an, trời quang, mây lơ lững trên mặt nước, đủ gây thư thái trong lòng.
Về phía tây nam, nơi núi rừng rậm rạp, từng bầy voi, hươu nai, khỉ vượn sinh sống, hoang vu không bóng người. Rừng cây lâu năm, cây lớn hàng trăm vòng tay, cành lá xum xuê, che khuất trời cao, dây leo quấn quít, khỉ vượn leo vin hàng bầy, thấy người nhảy đi (vùng này có loại khỉ 2 tay trước giao nhau, dân tại đây gọi là Viên tướng quân [khỉ chúa]). Chẳng mấy chốc, gió thổi mạnh vào rừng cây, vạn vật xao xác, cảnh vật tiêu tao, lòng tôi nhuốm buồn bèn đi xuống. Từ giã viên quan coi đồn, rời quan ải đi khoảng 6,7 dặm; trời đã về chiều, trú tại nhà thôn dân trên lãnh. Đêm trời rất lạnh, phải đốt củi bên giường, cùng em trai sưởi ấm.
Ngày hôm sau khởi hành muộn, qua rừng rậm khoảng 2, 3 dặm, đi về phía bên phải lãnh, từ trên cao nhìn xuống, vách núi thăm thẳm, nhìn không thấy đáy. Tôi bước xuống võng, bảo 2 người phu giúp bước đi; đằng sau lưng là vách đá, chân bước xuống theo bậc đá trủng, vượt qua khoảng 300 bậc; rồi ngồi nghỉ trên phiến đá. Lại tiếp tục đi, qua 3 lãnh nhỏ đều dốc đá gồ ghề. Đi khoảng 10 dặm, đến bờ biển đất bằng, theo bờ vài dặm đến một sông lớn [Lăng Cô], phía bắc có chợ, đặt đồn binh tra xét. Người khiêng võng bảo tôi rằng:
- Từ khi lên quan ải đến chỗ này, đã qua hơn 20 miếu thần (dân gọi là Bản Đầu công, rất linh thiêng); người đi qua đốt hương không ngừng, tuy hàng ngày qua lại nhưng không có mối lo về cọp, rắn; là do thần phù hộ.
Quan ải mở ra từ thời Gia Long ( Gia Long là niên hiệu của thân phụ nhà vua hiện nay) [ tức là Minh Mạng] là nơi chính giữa Việt Nam; một người giữ ải, vạn người cũng không xông vào được, nên gọi là Ải Lãnh, cách Phú Xuân 140 dặm (cách Quảng Nam 100 dặm).
------------------------------