Ngày 26 [ngày 12 tháng 2 năm 1836] đi trên đường Quảng Nam, thấy ruộng lúa tươi tốt, lúa non xanh một màu như tấm thảm, cò trắng đứng lêu nghêu bất động trong ruộng, xa nhìn cây cối xanh tốt làm người ta mê mẩn. Phía biển có 3 quả núi, chia rõ ra 3 chòm, động trống mở ra như 3 tòa nhà thiên nhiên [núi Ngũ Hành Sơn]; tục truyền xưa là hang 7 con nhện, biến thành gái đẹp để làm việc ma quái, sau được Phật trừ diệt, nay gọi là động Thất Tỷ Muội 七姊妹洞 [động 7 Chị Em], dáng cao hơn 2 trượng [1 trượng =3,33 mét]. Buổi tối trú tại đồn dưới đồi, người phu võng (tức người khiêng cáng) dặn ngày mai dậy sớm, ăn no để đi lên ải hẹp (có một con đường qua núi cao dốc, là đèo hiểm trở nhất tại Việt Nam [tức là đèo Hải Vân].
Sáng sớm khi thấy mặt người, ra khỏi đồn đi khoảng 2 dặm trong sương mù. Ngưỡng nhìn trên đỉnh, mây che như tuyết phủ cuồn cuộn tiếp trời cao, nhìn không thấy núi. Bấy giờ mặt trời sớm mai lên, đã qua được một đỉnh nhỏ. Một con đường nhỏ uốn khúc qua triền núi giáp biển, nước biển hung hãn, sóng xô ầm ầm, chấn động cả ghềnh đá. Rồi đến một thôn nhỏ, gặp một đồn lính có quan trấn thủ, quan tra xét hỏi rất nghiêm. Theo sườn núi đi lên, đường quanh co hơn 10 dặm, hai bên đường gai góc mọc đầy, rừng tre giăng mắc như lông nhím, trong lùm cây chim chóc líu lo, hàng trăm tiếng hót khác nhau; trên đường hoa dại rộ nở, cánh hoa rơi rụng khắp nơi, cảnh vật đẹp không thể tả xiết! Khi lên được nửa núi, thế núi dốc, đường đi từng bậc, như leo lên chiếc thang ngàn trượng lên mây, phu võng phải để võng trên vai mà đi, các lính hộ vệ ra tay giúp đỡ; thẳng gối, thót bụng, mồ hôi nhỏ trên lưng như mưa; qua 7,8 dặm mới lên đến đỉnh núi.
Ngồi nghỉ dưới gốc cổ thụ, nhìn lên vách tường đá, thấy tấm bảng dày 1 xích [0.33 mét] giăng ngang làm cổng, trên đề “Hải sơn Quan 海山關”; nơi đây đặt đồn, do viên Đồn thủ trông coi, lính tinh nhuệ vài chục tên, phòng thủ vòng quanh bằng đại bác, cẩn mật đến độ một con chim cũng không qua lọt. Lên quan ải nhìn xuống, phía bắc là biển lớn ngút ngàn, thuyền buồm nhấp nhô, như những chim hải âu bơi lặn nơi biển xanh. Trước đỉnh núi 2 phía đông tây có cảng, phía trong khe sâu, có thể chứa hàng ngàn thuyền. Nước trong sóng gợn, phô vẻ bình an, trời quang, mây lơ lững trên mặt nước, đủ gây thư thái trong lòng.
Về phía tây nam một dải, nơi núi rừng rậm rạp, là nơi ở của từng bầy voi, hươu nai, khỉ vượn sinh sống, hoang vu không bóng người. Rừng cây lâu năm, cây lớn to hàng trăm người ôm, cành lá xum xuê, che khuất trời cao, dây leo quấn quít, khỉ vượn leo vin hàng bầy, thấy người thì kéo nhau nhảy đi (vùng này có loại khỉ 2 tay trước giao nhau, dân ở đây gọi là Viên tướng quân 猿將軍 [khỉ đầu đàn?]). Chẳng mấy chốc, gió thổi mạnh vào rừng cây, vạn vật xao xác, cảnh vật chuyển màu buồn thê lương, lòng tôi nhuốm buồn bèn đi xuống. Từ giã viên quan coi đồn, rời quan ải đi khoảng 6,7 dặm; trời đã về chiều, trú tại nhà thôn dân trên núi. Đêm trời rất lạnh, phải đốt củi bên giường, cùng em sưởi ấm.
Ngày hôm sau khởi hành muộn, qua rừng rậm khoảng 2, 3 dặm, đi về phía bên phải núi, từ trên cao nhìn xuống, vách núi thăm thẳm, nhìn không thấy đáy. Tôi bước xuống võng, bảo 2 người phu giúp bước đi; đằng sau lưng là vách đá, chân bước xuống theo bậc đá trũng, vượt qua khoảng 300 bậc; rồi ngồi nghỉ trên phiến đá. Lại tiếp tục vượt bậc đá mà đi, qua 3 núi nhỏ đều dốc đá gồ ghề. Đi khoảng 10 dặm, đến bờ biển đất bằng, theo bờ vài dặm đến một sông lớn [đây là Lăng Cô], phía bắc có chợ nhỏ, đặt đồn binh tra xét. Người khiêng võng bảo tôi rằng:
- Từ khi lên quan ải đến chỗ này, đã qua hơn 20 miếu thần (dân gọi là Bản Đầu công 本頭公, rất là linh thiêng); người đi qua đốt hương không ngừng, tuy hàng ngày qua lại nhưng không có mối lo về cọp, rắn; là do thần phù hộ vậy.
Quan ải mở ra từ thời Gia Long 嘉隆 (Gia Long là niên hiệu của thân phụ Vương hiện nay) là nơi chính giữa Việt Nam; một người giữ ải, vạn người cũng không xông vào được, xưa gọi là Ải Lãnh 隘嶺, cách Phú Xuân富春 140 dặm (cách Quảng Nam 100 dặm).