- Biển số
- OF-307610
- Ngày cấp bằng
- 13/2/14
- Số km
- 393
- Động cơ
- 306,312 Mã lực
Khi Paul Doumer đưa ra ý tưởng xây cầu vượt sông Hồng, nhiều người đã không ủng hộ. Họ cho đó là việc làm điên rồ. Kỹ sư trưởng ngành cầu đường cũng tỏ ra bi quan.
Tuần báo Đông Dương số 184 ngày 9/3/1944 đăng bài viết Cầu Doumer (nay là cầu Long Biên) của tác giả Paul Boudet (1888-1948), Giám đốc Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương (1917-1947). Bài viết cung cấp nhiều thông tin mà chúng ta còn ít biết về cây cầu nổi tiếng này.
Tuần báo Đông Dương là báo tiếng Pháp của của Hội Alexxandre de Rhodes. Báo ra từ đầu năm 1940, tới cuối năm 1944 thì đình bản. Các bài của tuần báo được đánh giá có chất lượng rất cao, do những thành phần trí thức ưu tú của Pháp và Việt Nam lúc đó viết.
Ý tưởng điên rồ
Theo tác giả Paul Boudet, ngay sau khi nhậm chức, Toàn quyền Paul Doumer đã đưa ra ý tưởng xây dựng cây cầu bắc qua sông Hồng, dài 1.600 m.
Ý tưởng này vấp phải nhiều phản ứng. Có ý kiến cho rằng ý tưởng này là điên rồ và không thể thực hiện được: “Đặt một cây cầu ngang qua sông Hồng à? Thật là điên rồ! Điều này giống như là chồng núi lên núi để lên trời”.
Họ phân tích sông Hồng rộng như một eo biển, sâu hơn 20 m và dâng thêm 8 m vào mùa lũ. Lòng sông luôn thay đổi, khi bồi chỗ này, lúc lở chỗ kia. Một con sông không thể chế ngự bằng một cây cầu đặt trụ trong lòng sông đầy sóng dữ và không gì chống đỡ nổi.
Đến ngay cả những vị quan An Nam có tư tưởng phóng khoáng nhất cũng tỏ ra hoài nghi và cho rằng đây là quyết định liều lĩnh. Song trong thâm tâm mình, các quan An Nam nghĩ rằng con sông sẽ làm thất bại những toan tính của con người và khiến mọi nỗ lực của họ trở nên vô ích.
Họ nói: “Sông quá rộng, không cây cầu nào có thể chịu được... Các ông không sợ thất bại sẽ khiến người dân mất lòng tin à?”.
Một điều lạ lùng hơn là đến ngay cả người Pháp cũng tỏ ra hoài nghi và không mặn mà với ý tưởng này. Những người thân cận với Toàn quyền, kể cả kỹ sư trưởng cầu đường, cũng tỏ ra quan ngại.
Paul Boudet cho biết tờ Le Courrier d’Haiphong còn mỉa mai: “Khi xây một cây cầu, người ta phải biết nó có dùng được hay không, có thể nào bắc qua một con sông hay không. Thế nhưng, Doumer không nghĩ tới điều đó, không mường tượng ra sự thay đổi liên tục của con sông. Ông ta không hề nghĩ tới việc con sông tính khí thất thường này thay đổi lòng sông cực kỳ dễ dàng. Hơn thế, ông ta cần phải biết việc Tòa Công sứ Hưng Yên từng bị nó nuốt chửng….”.
Cầu Paul Doumer (cầu Long Biên) lúc đang được thi công. Ảnh tư liệu.
Quá trình xây dựng
Bỏ ngoài tai những lời chỉ trích, bất chấp dư luận và khuyến cáo của các quan chức, Doumer vẫn quyết tâm xây cầu.
Ngày 12/9/1898, viên đá đầu tiên chính thức được đặt với nghi lễ vô cùng long trọng. Hôm đó, Paul Doumer dùng chiếc bay bằng bạc gắn tấm biển đá hoa cương đen khắc dòng chữ 12/9/1898 lên đầu cầu và tuyên bố công việc xây cầu bắt đầu.
Đội quân thợ đá, thợ mộc, thợ xây, thợ sắt… hơn 2.000 người, có lúc lên tới 3.000 người, làm việc dưới sự hướng dẫn của khoảng 40 quản đốc, kỹ sư, đốc công người Pháp. Nhờ việc giám sát chặt chẽ, không tai nạn nghiêm trọng nào xảy ra, dù công việc rất nặng nhọc.
Ban đêm, công trình sáng rực dưới ánh đèn của các bóng điện công suất lớn. Số đèn này, cũng như các máy công cụ và các máy nén khí, hoạt động nhờ xưởng phát điện 350 mã lực.
Paul Boudet cho biết công ty trúng thầu thiết kế là Daydé et Pillé. Công ty này đưa ra thiết kế kiểu dầm chìa đỡ hai bên, các thanh đỡ hình răng cưa, đỉnh cao nhất là 17 m tính từ trụ cầu.
Paul Doumer chọn thiết kế dầm chìa có lẽ do nó đã được ứng dụng để xây cầu đường sắt tuyến Paris - Orléans. Khi họ giới thiệu đường nét kiêu hãnh và duyên dáng của cây cầu trong hình vẽ toàn cảnh, nhiều người lo ngại khối sắt hình răng cưa nhẹ tới mấy cũng không bao giờ có thể thành hiện thực.
Nhưng nhiều người không hiểu rằng chính 20 trụ cầu, mỗi trụ cao 44 m, trong đó 30 m nằm dưới mực nước, sẽ đỡ cho cây cầu dài 1.682 m, cao 17 m so với mặt trụ và 61 m so với các móng. Cũng nhờ các trụ đó, cây cầu được nối thành khớp.
Việc thi công được tiến hành khẩn trương và tháng 11/1901, cầu đặt được khối sắt vào bờ trái. Chiếc cầu cạn bằng đá, nối cầu với ga bị phá hẳn.
Ngày 3/2/1902, hai bờ được nối với nhau; chỉ còn phải san lấp khoảng vài trăm mét, công việc chỉ cần vài ngày. Việc xây dựng cầu cần 30.000 m3 đá và 5.300 tấn thép. Chi phí lên tới 6.200.000 fr, xấp xỉ bằng dự toán.
Cầu Long Biên chụp từ trên cao, năm 1950. Ảnh tư liệu.
8h30 sáng 28/2/1902, đoàn tàu hỏa rời ga mới của Hà Nội, đưa vua Thành Thái, Toàn quyền và đoàn tùy tùng lên tàu.
Tại lối lên cầu, các quan khách an tọa trên một khán đài có trang trí hoa và cờ để nghe diễn văn của Thống sứ Bắc Kỳ, của Chủ tịch phòng Thương mại Hà Nội, Giám đốc Nha Công chính…
Theo lời của quan nhiếp chính Nguyễn Trọng Hiệp, chất trữ tình bao trùm lên cả cây cầu: “Vươn dài như một con rồng xanh nổi lên trên mặt nước hay như một cây cầu vồng tuyệt đẹp sừng sững giữa khoảng không bao la”.
Tuần báo Đông Dương số 184 ngày 9/3/1944 đăng bài viết Cầu Doumer (nay là cầu Long Biên) của tác giả Paul Boudet (1888-1948), Giám đốc Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương (1917-1947). Bài viết cung cấp nhiều thông tin mà chúng ta còn ít biết về cây cầu nổi tiếng này.
Tuần báo Đông Dương là báo tiếng Pháp của của Hội Alexxandre de Rhodes. Báo ra từ đầu năm 1940, tới cuối năm 1944 thì đình bản. Các bài của tuần báo được đánh giá có chất lượng rất cao, do những thành phần trí thức ưu tú của Pháp và Việt Nam lúc đó viết.
Ý tưởng điên rồ
Theo tác giả Paul Boudet, ngay sau khi nhậm chức, Toàn quyền Paul Doumer đã đưa ra ý tưởng xây dựng cây cầu bắc qua sông Hồng, dài 1.600 m.
Ý tưởng này vấp phải nhiều phản ứng. Có ý kiến cho rằng ý tưởng này là điên rồ và không thể thực hiện được: “Đặt một cây cầu ngang qua sông Hồng à? Thật là điên rồ! Điều này giống như là chồng núi lên núi để lên trời”.
Họ phân tích sông Hồng rộng như một eo biển, sâu hơn 20 m và dâng thêm 8 m vào mùa lũ. Lòng sông luôn thay đổi, khi bồi chỗ này, lúc lở chỗ kia. Một con sông không thể chế ngự bằng một cây cầu đặt trụ trong lòng sông đầy sóng dữ và không gì chống đỡ nổi.
Đến ngay cả những vị quan An Nam có tư tưởng phóng khoáng nhất cũng tỏ ra hoài nghi và cho rằng đây là quyết định liều lĩnh. Song trong thâm tâm mình, các quan An Nam nghĩ rằng con sông sẽ làm thất bại những toan tính của con người và khiến mọi nỗ lực của họ trở nên vô ích.
Họ nói: “Sông quá rộng, không cây cầu nào có thể chịu được... Các ông không sợ thất bại sẽ khiến người dân mất lòng tin à?”.
Một điều lạ lùng hơn là đến ngay cả người Pháp cũng tỏ ra hoài nghi và không mặn mà với ý tưởng này. Những người thân cận với Toàn quyền, kể cả kỹ sư trưởng cầu đường, cũng tỏ ra quan ngại.
Paul Boudet cho biết tờ Le Courrier d’Haiphong còn mỉa mai: “Khi xây một cây cầu, người ta phải biết nó có dùng được hay không, có thể nào bắc qua một con sông hay không. Thế nhưng, Doumer không nghĩ tới điều đó, không mường tượng ra sự thay đổi liên tục của con sông. Ông ta không hề nghĩ tới việc con sông tính khí thất thường này thay đổi lòng sông cực kỳ dễ dàng. Hơn thế, ông ta cần phải biết việc Tòa Công sứ Hưng Yên từng bị nó nuốt chửng….”.
Cầu Paul Doumer (cầu Long Biên) lúc đang được thi công. Ảnh tư liệu.
Quá trình xây dựng
Bỏ ngoài tai những lời chỉ trích, bất chấp dư luận và khuyến cáo của các quan chức, Doumer vẫn quyết tâm xây cầu.
Ngày 12/9/1898, viên đá đầu tiên chính thức được đặt với nghi lễ vô cùng long trọng. Hôm đó, Paul Doumer dùng chiếc bay bằng bạc gắn tấm biển đá hoa cương đen khắc dòng chữ 12/9/1898 lên đầu cầu và tuyên bố công việc xây cầu bắt đầu.
Đội quân thợ đá, thợ mộc, thợ xây, thợ sắt… hơn 2.000 người, có lúc lên tới 3.000 người, làm việc dưới sự hướng dẫn của khoảng 40 quản đốc, kỹ sư, đốc công người Pháp. Nhờ việc giám sát chặt chẽ, không tai nạn nghiêm trọng nào xảy ra, dù công việc rất nặng nhọc.
Ban đêm, công trình sáng rực dưới ánh đèn của các bóng điện công suất lớn. Số đèn này, cũng như các máy công cụ và các máy nén khí, hoạt động nhờ xưởng phát điện 350 mã lực.
Paul Boudet cho biết công ty trúng thầu thiết kế là Daydé et Pillé. Công ty này đưa ra thiết kế kiểu dầm chìa đỡ hai bên, các thanh đỡ hình răng cưa, đỉnh cao nhất là 17 m tính từ trụ cầu.
Paul Doumer chọn thiết kế dầm chìa có lẽ do nó đã được ứng dụng để xây cầu đường sắt tuyến Paris - Orléans. Khi họ giới thiệu đường nét kiêu hãnh và duyên dáng của cây cầu trong hình vẽ toàn cảnh, nhiều người lo ngại khối sắt hình răng cưa nhẹ tới mấy cũng không bao giờ có thể thành hiện thực.
Nhưng nhiều người không hiểu rằng chính 20 trụ cầu, mỗi trụ cao 44 m, trong đó 30 m nằm dưới mực nước, sẽ đỡ cho cây cầu dài 1.682 m, cao 17 m so với mặt trụ và 61 m so với các móng. Cũng nhờ các trụ đó, cây cầu được nối thành khớp.
Việc thi công được tiến hành khẩn trương và tháng 11/1901, cầu đặt được khối sắt vào bờ trái. Chiếc cầu cạn bằng đá, nối cầu với ga bị phá hẳn.
Ngày 3/2/1902, hai bờ được nối với nhau; chỉ còn phải san lấp khoảng vài trăm mét, công việc chỉ cần vài ngày. Việc xây dựng cầu cần 30.000 m3 đá và 5.300 tấn thép. Chi phí lên tới 6.200.000 fr, xấp xỉ bằng dự toán.
Cầu Long Biên chụp từ trên cao, năm 1950. Ảnh tư liệu.
8h30 sáng 28/2/1902, đoàn tàu hỏa rời ga mới của Hà Nội, đưa vua Thành Thái, Toàn quyền và đoàn tùy tùng lên tàu.
Tại lối lên cầu, các quan khách an tọa trên một khán đài có trang trí hoa và cờ để nghe diễn văn của Thống sứ Bắc Kỳ, của Chủ tịch phòng Thương mại Hà Nội, Giám đốc Nha Công chính…
Theo lời của quan nhiếp chính Nguyễn Trọng Hiệp, chất trữ tình bao trùm lên cả cây cầu: “Vươn dài như một con rồng xanh nổi lên trên mặt nước hay như một cây cầu vồng tuyệt đẹp sừng sững giữa khoảng không bao la”.