Những nâng cấp ở T-72 của Ba Lan
Dòng xe tăng T-72 "tái xuất" tại triển lãm MSPO diễn ra tại Targi Kielce, Ba Lan vào tháng 9/2011 với biến thể hiện đại hóa mới nhất là T-72U.
Với thiết kế đặc biệt phù hợp cho tác chiến đô thị, T-72U được nhà máy ZM Bumar Labedy trực tiếp phát triển và sản xuất.
Gói hiện đại hóa đã được thực hiện theo yêu cầu của Bộ quốc phòng Ba Lan, dựa trên một nghiên cứu về kinh nghiệm chiến đấu của quân đội Ba Lan, quân đội thành viên NATO và trên chiến trường Afghanistan.
Xe tăng T-72U tại triển lãm MSPO - -2011.
Theo đó, các kỹ sư của Labedy đã tập trung vào nâng cấp, sửa đổi thiết kế những điểm yếu chết người của dòng xe tăng T-72, như là giảm độ cao của pháo chính và súng phòng không.
Các khí tài quan sát được thay bằng các hệ thống camera cung cấp hình ảnh lập thể, quan sát được bên ngoài cả ngày lẫn đêm.
Sự an toàn của xe được tăng cường với giáp lồng thép bảo vệ phía sau tháp pháo và 2 bên sườn phía sau thân xe để cản rocket chống tăng.
Giáp phản ứng nổ của T-72U cũng được bố trí lại khít hơn, nhất là ở phía trước tháp pháo, 2 bên sườn và phía sau thân xe.
Giáp lồng thép được bố trí hai bên sườn xe tăng.
T-72U được trang bị áo giáp phản ứng nổ mới, khoảng cách giữa hai tấm giáp đã được lắp sát nhau hơn.
Sự bố trí vỏ giáp mới được các kỹ sư rút kinh nghiệm từ thất bại của xe tăng T-72 biên chế trong quân đội Georgia.
Trong cuộc tấn công vào Tskhinvali ngày 8/8/2008, các chiến binh Nam Ossetia bắn rocket chống tăng trúng giữa khe của 2 tấm giáp phản ứng nổ, phía sau tháo pháo và khoan một lỗ tương đối nhỏ nhưng trúng vào viên đạn 125 mm ở khoang đạn. Kết quả của vụ nổ là tháp pháo bị hất tung.
Một điểm đáng lưu ý khác ở T-72U, toàn bộ phần vỏ giáp của xe tăng chỉ nặng 420 kg (170 kg ở tháp pháo và 250 kg đối với thân xe).
Các kỹ sư từ Labedy và WAT đã tăng cường mức độ bảo vệ cho xe tăng để chống lại các loại mìn tấn công vào gầm xe, trưởng xe được ngồi ở một vị trí liền với thân xe và tháp pháo phía trên. Phía dưới sàn xe và trước mũi xe được bổ sung thêm tấm giáp làm bằng vật liệu composite nhằm hấp thụ năng lượng nổ.
T-72U sử dụng súng máy phòng không mới ZSMU-127 Kobuz 12,7 mm điều khiển từ trong xe mà không cần xạ thủ ngồi lên trên điều khiển, điều này sẽ tránh được thương vong cho xạ thủ, nhất là trong môỉtườgg tác chiến đô thị.
Trên tháp pháo T-72U, bệ súng phòng không là loại 12,7 mm ZSMU-127 Kobuz điều khiển từ xa (RCWS), do hãng ZM Tarnow phát triển.
RCWS có khả năng tự động bám và ngắm bắn mục tiêu, quay tròn 360 độ trong mặt phẳng ngang, góc hạ và nâng súng từ -50 đến +55 độ.
Việc sử dụng bệ điều khiển súng máy từ xa độc lập với tháp pháo cho phép cải thiện khả năng tấn công chính xác mục tiêu, điều này có tầm quan trọng đặc biệt trong các cuộc giao tranh ở trong đô thị.
RCWS được bổ sung hệ thống quan sát đa hướng ODR - HV ODF Oprtronics, gồm 8 camera truyền hình, có zoom quang học lên đến 26x, quay được 360 độ theo chiều ngang và từ -10 đến +70 độ theo chiều thẳng đứng.
Khi ổn định, hệ thống có thể phát hiện các chuyển động và tự động lựa chọn mối đe dọa trực tiếp và hệ thống RCWS sẽ nhắm vào mối đe dọa tiềm năng nhất.
Hai camera truyền hình của T-72U ở bên phải tháp pháo.
Hệ thống thông tin liên lạc của T-72U cũng được nâng cấp bằng cách lắp đặt hệ thống Radmor RRC9310AP, Fonet - IP Inter - Com và hệ thống kiểm soát chiến trường Trop.
Những thay đổi mới khác gồm bộ ổn định điện áp PRM - 02 từ Radiotechnika-Marketing, khối vi xử lý khởi động cho động cơ mới, bảng điều khiển điện tử thay thế cho bảng cũ của trưởng xe, hệ thống nạp đạn tự động cải tiến (2 chế độ: nạp đạn bằng tay và bằng máydo công ty Wasko phát triển.
Các cải tiến khác bao gồm một đơn vị năng lượng phụ có công suất 17 kw, và hệ thống điều hòa không khí.
Phạm Thái (theo Atair)
http://www.tinmoi.vn/nhung-nang-cap-o-t-72-cua-ba-lan-01603006.html
T-72 và các biến thể
(ĐVO) Lịch sử ra đời
Từ giữa những năm 1960, thế hệ xe tăng thứ 2 sau thế chiến đã phát triển để thay thế những chiếc tăng hạng trung và hạng nhẹ. Họ tăng T-72 là điển hình nhất và có số lượng sản xuất nhiều nhất trong thế hệ này.
Nhóm thiết kế bắt tay vào công việc từ năm 1967 tại Cục thiết kế tăng ở Ural dưới sự chỉ đạo của L. Kartsev. Nhà thiết kế này đã không thể sống đến ngày chiếc tăng được sản xuất hàng loạt, công việc được tiếp tục dưới sự lãnh đạo của tổng công trình sư V. Venidiktov.
Việc thử nghiệm mẫu thiết kế, được phát triển tại thành phố Nizhny Tagil, đã khẳng định tính hiệu quả và độ tin cây của mẫu thử nghiệm. Năm 1973 chiếc tăng đã được đưa vào biên chế chính thức với tên hiệu T-72.
T-72 có vai trò quan trọng trong lịch sử xe tăng Liên Xô
Tổ lái chiếc tăng gồm 3 người. Vị trí của lái xe trong T-72 đã được đặt ở giữa khoang lái chứ không còn lệch qua bên trái như các mẫu tăng trước, điều đó giúp lái xe có thể quan sát dễ dàng hơn.
Vị trí của trưởng xe nằm trong khoang chiến đấu ở giữa chiếc tăng cùng với pháo thủ, nhưng nằm phía bên phải, còn pháo thủ ngồi bên trái khoang chiến đấu.
Xe được lắp đặt máy nạp đạn, hệ thống được thiết kế để đảm bảo giảm khối lượng của xe và khả năng buồng đạn bị bắn trúng. Động cơ được bố trí ở đuôi xe cùng với hệ thống làm mát bằng không khí và hệ thống truyền động.
Đa dạng về ứng dụng lẫn biến thể
Khi đưa vào biên chế, T-72 trở thành nền tảng để phát triển nhiều loại xe chức năng khác, như xe tăng chỉ huy T-72K và T72AK, xe sửa chữa cứu kéo BREM-1, xe bắc cầu MTU-72 hay xe dọn vật cản của công binh IMR-2.
Ngoài ra, Liên Xô còn phát triển hệ thống mô phỏng để huấn luyện cho lái xe hay, gồm hệ thống mô phỏng điện tử TKNT-3B dành cho trưởng xe và xạ thủ.
T-72A bắt đầu được sản xuất hàng loạt từ năm 1979 đến 1985. T-72A có một số điểm khác biệt so với mẫu T-72 cơ sở, đó là lắp đặt các loại khí tài đo xa TPDK-1, kính ngắm đêm TPN-3-49 của pháo thủ với đèn quét L-4, hệ thống bắn đạn khói ngụy trang 902B, pháo chính 125mm 2A46 thay cho pháo 2A26M2, thiết bị nhìn đêm TVNE-4B và động cơ V-46-6.
Biế thể xuất khẩu T-72M và T-72M1 của T-72A được sản xuất với một số lớp giáp tăng cường ở giáp trước xe và tháp pháo, những chiếc T-72 của loạt này đã được xuất khẩu tới các quốc gia khối Warsaw, Ấn Độ, Iran, Syria, Algeria, Kuwait, Libya, Phần Lan và Tiệp Khắc.
T-72 trong quân đội Ấn Độ
Mẫu T-72B bắt đầu được sản xuất từ năm 1985, biến thể xuất khẩu của nó là T-72S.
Khác biệt chủ yếu giữa T-72A và T-72B là T-72B sử dụng hệ thống ổn định nòng pháo với bộ điều khiển tầm thủy lực - điện và bộ điều khiển hướng cơ - điện 2E42-2 thay cho hệ thống ổn định 2E28M. Ngoài ra, hệ thống vũ khí điều khiển, lắp các lớp giáp ERA tùy chọn, sử dụng động cơ V-84 thay cho động cơ V-46-6 cũng là những nét mới.
Vũ khí chính của T-72B là khẩu pháo nòng trơn 2A46M có khả năng bắn được các loại đạn có điều khiển, được thiết kế tăng chiều dài nòng và giảm độ giật. Nhờ vào những cải tiến của pháo, sự chính xác của mỗi phát đạn cũng được nâng lên.
Hơn nữa, pháo còn có thể bắn các loại đạn điều khiển ở khoảng cách 4.000m (xa hơn so với tầm bắn 3.000m của M1A2 và Leopard và 3.400 m của Leclerc), với xác suất bắn trúng là 80%. Một đặc điểm nữa là nòng pháo có thể nhanh chóng được thay thế trên chiến trường khi cần thiết.
Đạn pháo chính sử dụng trên T-72 gồm loại đạn sơ tốc cao xuyên giáp (APFSDS), đạn HEAT, đạn nổ mảnh chống bộ binh và đạn tên lửa có điều khiển (ATGM). Đạn 3UBK-14 bao gồm tên lửa 9M119 và phần thuốc nổ đẩy. Cơ số đạn trên xe là 45 viên, trong đó 22 viên được nạp sẵn trong hệ thống.
Bên cạnh khẩu pháo 125mm thì T-72 còn có một khẩu súng máy 7,62mm đồng trục và một khẩu NSVT 12,7mm ở cửa trưởng xe, khẩu đại liên này có thể được điều khiển từ trong chiếc tăng bởi trưởng xe. Cơ số đạn dược là 2,000 viên cho khẩu 7,62mm và 300 viên cho khẩu 12,7mm.
Giáp của xe tăng là loại gồm nhiều lớp giúp tăng khả năng chống các loại đạn chống tăng, đối phó hiệu quả với đạn HEAT nếu được lắp thêm giáp phản ứng nổ (ERA). Năm 1988, giáp ERA đã bắt đầu được sử dụng.
Khả năng sống sót của T-72 dựa vào kết cấu khung thấp (2,226 mm), sử dụng các thiết bị tạo màn khói ngụy trang 902B Tucha, hệ thống bảo vệ khỏi tác hại của loại bom Napalm và hệ thống chữa cháy tự động 3ETs13 Iney.
Hơn nữa, chiếc tăng còn có thể sơn ngụy trang để giảm đến mức thấp nhất nguy cơ bị phát hiện trên chiến trường. T-72 còn có thế lắp thiết bị đào công sự, cứu kéo và thiết bị của bộ quét mìn KMT-6.
Khả năng cơ động của xe dựa vào động cơ diesel làm mát bằng nước V-84-1, có thể đạt tới công suất 618 kW (840 mã lực). Động cơ này sử dụng nhiên liệu dầu diesel (DL, DZ, DA), nhiên liệu phản lực (T-1, TS-1, T-2) và các loại xăng (A-66, A-72).
Đường kính bánh dẫn động tăng đến 325mm (so với 285mm trên loại T-72A). Ngoài ra, bánh xe còn có thể gắn thêm các miếng cao su để tăng tuổi thọ xích, T-72 cũng sử dụng những con lăn hỗ trợ như trên T-64.
T-72 có thể lội nước sâu 5m với dụng cụ hỗ trợ, ngoài ra ở độ sâu 1,2m, xe có thể lội tốt mà không cần chuẩn bị trong khi với mực nước 1,8m sẽ mất thêm 10 phút để chuẩn bị.
Bên trong một chiếc T-72 cơ bản
T-72 xuất khẩu cho Ba Lan
Khai hỏa súng NSV 12,7mm.
Những chiếc T-72 quen thuộc với thân phủ kín các thỏi ERA.
Với ống thở này T-72 sẽ lặn được tối đa 5m